Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Giáo án điện tử MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAI SÓT PHỔ BIẾN TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ...

Tài liệu MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAI SÓT PHỔ BIẾN TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

.DOCX
33
316
78

Mô tả:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAI SÓT PHỔ BIẾN TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ SAI SÓT PHỔ BIẾN TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Năm 2012, Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp đã thụ lý 83.116 vụ án hình sự với 146.968 bị cáo, tăng 6.222 vụ với 15.540 bị cáo so với cùng kỳ năm trước, đã giải quyết, xét xử được 81.643 vụ án với 144.448 bị cáo (đạt 98% số vụ và số bị cáo), tăng 6.629 vụ với 17.241 bị cáo, cụ thể: - Giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 67.369 vụ với 122.960 bị cáo (trong đó có 27 vụ án với 68 bị cáo về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, 321 vụ án với 733 bị cáo với các tội tham nhũng, 15.285 vụ án với 19.260 bị cáo về các tội ma túy, 11.637 vụ án mới với 19.674 bị cáo về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, 26.617 vụ án với 45.866 bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu, còn lại là các tội phạm khác). Các Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt tử hình và tù chung thân đối với 530 bị cáo; xử phạt tù có thời hạn 81.843 bị cáo; xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo 25.458 bị cáo, bằng 22% (trong đó có 155 bị cáo phạm các tội về tham nhũng), còn lại là các hình phạt khác. - Giải quyết, xét xử theo thủ tục phúc thẩm 14.119 vụ với 21.239 bị cáo và theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 155 vụ với 249 bị cáo. Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự, các Tòa án quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 48 ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới, chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, đặc biệt là đối với các vụ án lớn, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm. Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo về cơ bản đảm bảo nghiêm minh, đúng quy định, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, qua công tác giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự thấy rằng Tòa án các cấp vẫn còn để xảy ra tình trạng xét xử một số vụ án không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ năm 2012 giải quyết xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 155 vụ với 249 bị cáo. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,5% (do nguyên nhân chủ quan 0,3% và do nguyên nhân khách quan 0,2%); bị sửa là 4,9% (do nguyên nhân chủ quan 0,3% và do nguyên nhân khách quan 4,6%). So với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ các bản án, quyết định bị huỷ, sửa do nguyên nhân chủ quan giảm 0,2%. Sau đây là những sai sót phổ biến trong công tác xét xử vụ án hình sự. 1. Sai sót về tố tụng - việc xác định người bị hại là không đúng; sai sót về tội danh Ví dụ: Khoảng 22 giờ ngày 30-04-2009, Tổ công tác của Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bắc Giang do anh Lê Hồng Truyền-Phó trưởng phòng chỉ huy triển khai lực lượng đi làm nhiệm vụ kiểm tra việc khai thác trái phép cát sỏi trên tuyến sông Thương và giao các anh Hoàng Văn Hải, Tống Đức Tuấn (do anh Hải là Tổ trưởng) đi trước làm nhiệm vụ trinh sát. Khoảng 02 giờ 30 ngày 01-5-2009, khi nhận được tin anh Hải báo cáo là trên sông Thương đoạn gần bến đò Mom thuộc địa phận xã Dương Đức, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang có 03 tàu đang hút cát trái phép, anh Lê Hồng Truyền đã cử các anh Tôn Văn An, Nguyễn Văn Hoan đi tăng cường cho anh Hải và anh Tuấn kiểm tra, xử lý vi phạm, Anh Hải và anh Hoan lên hai tàu hút cát còn lại. Khi lên tàu của Đoài, anh Hải và anh Hoan tự giới thiệu là Công an lên tàu để làm nhiệm vụ rồi yêu cầu những người trên tàu tắt máy hút cát và tập trung tại mũi tàu để làm việc. Khi Nguyễn Văn Đoài, Thân Văn Tin, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Tưởng, Nguyễn Văn Hoa tập trung đầy đủ tại mũi tàu, anh Hải hỏi chủ tàu, thì Đoài nhảy xuống chiếc thuyền con buộc ở mũi tàu, anh Hải hỏi Đoài “Đi đâu”, Đoài trả lời là “Đi gọi chủ tàu” rồi bơi thuyền đến buồng máy, trèo vào buồng máy và hô “Nổ máy chạy đi”. Thắng chạy vào buồng máy nổ máy, Tưởng cầm đèn pin đi theo soi cho Thắng, còn Hoa cởi dây neo ở mũi tàu. Anh Hải đến mạn phải gần buồng lái yêu cầu không được lái tàu chạy, nhưng Đoài cùng các đối tượng trên tàu không chấp hành, anh Hải liền bắn một phát đạn lên trời để cảnh cáo, sau đó bắn hai phát đạn hơi cay vào buồng máy. Nghe tiếng súng nổ, Đoài vừa lái tàu chạy vừa hô “Thằng nào vào buồng máy thì đánh chết” và cầm dao rựa giơ lên, anh Hải lùi lại bị vướng vào vòi hút cát nên ngã xuống sông. Đoài đưa dao rựa cho Tin để cắt dây neo mũi tàu. Khi đến mũi tàu, thấy Hoa đã cởi được dây neo tàu Tin quay về phía bên trái buồng lái thì thấy Thắng đang cầm búa tạ khua về phía anh Hoan. Tin chạy đến gạt Thắng sang một bên và nói “Mày dẹp ra” rồi giơ dao rựa nói với anh Hoan “Mày muốn chết không”, anh Hoan lùi về đuôi tàu, Tin tiến lại dung tay trái túm vai phải anh Hoan, anh Hoan tiếp tục lùi và bị hụt chân ngã xuống sông. Khi ngã, anh Hoan túm lấy Tin làm Tin cùng ngã theo. Sau khi bị ngã, anh Hải bơi được vào bờ và không bị thương tích gì, còn anh Hoan bị chết ở dưới sông. Tại Bản giám định pháp y số 955/09/GĐPY ngày 01-5-2009, Phòng giám định pháp y Bệnh viên đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận: anh Nguyễn Văn Hoan chết do ngạt nước. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử gia đình nạn nhân Nguyễn Văn Hoan cung cấp cho Tòa án Bản giám định pháp y số 56/GĐPY-HS ngày 17-11-2009 của Viện pháp y quốc gia Bộ Y tế (do gia đình đề nghị giám định trên cơ sở các tài liệu gia đình cung cấp). Viện pháp y quốc gia Bộ Y tế kết luận: anh Nguyễn Văn Hoan chết do ngạt nước trên người có chấn thương sọ não. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung; tại Bản giám định pháp y số 3021 ngày 28-12-2009, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: anh Nguyễn Văn Hoan chết do ngạt nước; vết xây xát loa tai phải do vật cứng diện tiếp xúc hẹp tác động với lực nhẹ gây ra; không thấy tổn thương khác do ngoại lực tác động. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2011/HSST ngày 25-01-2011, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang áp dụng điểm d (riêng đối với Nguyễn Văn Đoài áp dụng thêm điểm c) khoản 2 Điều 257; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Đoài 07 năm tù, Thân Văn Tin và Nguyễn Văn Thắng mỗi bị cáo 06 năm tù đều về tội “Chống người thi hành công vụ”. Sau khi xét xử sơ thẩm, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Đoài, Thân Văn Tin kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 29-01-2011, ông Nguyễn Đức Quyên (là người được gia đình anh Hoan ủy quyền) kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 164/2011/HSPT ngày 13-9-2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm đối với Nguyễn Văn Đoài, Nguyễn Văn Thắng và Thân Văn Tin. Sai sót: Về tố tụng ở vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án các bị cáo về tội chống người thi hành công vụ, đây là tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính cho nên Tòa án các cấp xác định các anh Hoàng Văn Hải, Nguyễn Văn Hoan là người bị hại của vụ án là không đúng pháp luật. Về nội dung, trong hồ sơ vụ án có 03 bản giám định pháp y, trong đó Bản giám định pháp y của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang và bản trưng cầu giám định theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đã thống nhất kết luận: anh Nguyễn Văn Hoan chết do ngạt nước. Còn Bản giám định pháp y của Viện pháp y quốc gia Bộ Y tế do gia đình anh Hoan yêu cầu giám định thì kết luận: anh Nguyễn Văn Hoan chết do ngạt nước trên người có chấn thương sọ não. Theo kết quả khám nghiệm tử thi ngày 01-5-2009 thì tại mặt trước hõm tai bên phải của nạn nhân có vết rách da dài 0,2 cm có máu rỉ ra; ngoài ra trên cơ thể nạn nhân không có thương tích nào khác. Như vậy, kết luận của các cơ quan y tế đã tiến hành giám định về nguyên nhân chết anh Nguyễn Văn Hoan là không thống nhất, mà vấn đề này ảnh hưởng đến việc xác định tội danh đối với Nguyễn Văn Đoài, Thân Văn Tin, Nguyễn Văn Thắng; vì theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì sau khi Nguyễn Văn Đoài hô “Thằng nào vào buồng máy thì đánh chết”, Tin và Thắng đã có hành vi dùng búa, dao rựa đe dọa, tấn công anh Nguyễn Văn Hoan làm anh Hoan ngã xuống sông và bị chết. Do vụ án có những sai sót như đã nêu trên nên tại Quyết định Kháng nghị số 06 ngày 10-09-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị, đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm như đã nêu trên đây để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 24 ngày 18 tháng 12 năm 2012, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang để điều tra lại. 2. Việc tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại là không đúng vì đơn xin bãi nại của người bị hại đã được sử dụng trong phiên tòa sơ thẩm; Đại diện hợp pháp cho các bị cáo có đơn xin rút kháng cáo nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không đình chỉ xét xử vụ án đối với kháng cáo đã xin rút, mà lại đưa vụ án ra xét xử (lại còn xử vắng mặt bị cáo), hủy án sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Ví dụ: Ngày 02/8/2010, Tống Thành Trung điều khiển xe môtô biển kiểm soát 79X1-0786 (của chị gái là Tống Ly Trang) chở Phan Nguyễn Hoàng Phương, Trần Ngọc Thạch điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 79N1-3645 (của ông Phan Bính là bố của Phương). Khi đến ngã ba đường Phạm Văn Đồng – Tôn Thất Tùng, thấy chị Trần Thị Thanh Nga đi xe môtô cùng chiều có để túi xác ở baga xe. Trung điều khiển xe môtô của mình ép sát vào xe môtô của chị Nga để Phương ngồi sau giật túi xách. Khi bị giật túi, chị Nga tri hô và đuổi theo thì Thạch điều khiển xe vượt lên phía trước xe của chị Nga để cản đường rồi cả bọn đi xe về khu vực Đồng Nhơn, kiểm tra trong túi có 66.000 đồng, 01 điện thoại di động Samsung E250 cùng một số giấy tờ khác của chị Nga. Sau khi Trung và đồng bọn cướp giật được tài sản, anh Nguyễn Văn Quốc (là chồng của chị Nga) điện thoại vào số máy của chị Nga xin chuộc lại giấy tờ, Thạch và Phương yêu cầu phải đưa 300.000 đồng để chuộc lại, anh Quốc đồng ý. Ngày 04/8/2010, khi chuẩn bị nhận tiền thì Thạch, Phương và Trung bị bắt. Tại biên bản định giá tài sản số 134/TC-KH ngày 27/08/2010, Hội đồng định giá tài sản thành phố Nha Trang xác định: điện thoại di động Samsung E250 trị giá 1.161.000 (một triệu một trăm sáu mốt nghìn đồng). Tại bản án hình sự sơ thẩm số 81/2011/HSST ngày 20/04/2011, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; các điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69 và Điều 74 Bộ luật hình sự (riêng Phan Nguyễn Hoàng Phương được áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự); xử phạt: Tống Thành Trung, Trần Ngọc Thạch và Phan Nguyễn Hoàng Phương mỗi bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù, đều về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 04/8/2010. Ngày 25/4/2011, Phan Nguyễn Hoàng Phương kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 28/4/2011, ông Trần Thiệt và ông Phan Bính (là người đại diện hợp pháp của Thạch và Phương) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho Thạch và Phương (nộp kèm theo bản photo “đơn xin bãi nại” của chị Trần Thị Thanh Nga ký ngày 20/04/2011, có xác nhận của Trưởng Công an xã Vĩnh Phương ngày 25/04/2011). Ngày 14/6/2011, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoãn phiên tòa, với lý do: người bị hại kháng cáo nhưng vắng mặt không có lý do (biên bản hội ý ngày 14/6/2011, xác định chị Trần Thị Thanh Nga kháng cáo). Ngày 16/06/2011, chị Trần Thị Thanh Nga có đơn xin xử vắng mặt. Ngày 26/06/2011, ông Trần Thiệt và ông Phan Bính rút đơn kháng cáo. Ngày 27/06/2011, Phan Nguyễn Hoàng Phương và Trần Ngọc Thạch rút đơn kháng cáo. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 107/2011/HSPT ngày 28/06/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa áp dụng điểm c khoản 2 Điều 248 và khoản 1 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự hủy bản án hình sự sơ thẩm số 81/2011/HSST ngày 20/04/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang để điều tra lại, với lý do: Người bị hại có “đơn xin bãi nại” và được Công an xã Vĩnh Phương xác nhận ngày 25/4/2011 (sau ngày xét xử sơ thẩm) nên được coi là đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang lấy lời khai sau khi xét xử sơ thẩm là không đúng tố tụng. Sai sót: Hành vi của các bị cáo là lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, nhanh chóng tiếp cận để chiếm đoạt và khi chủ sở hữu tài sản xin chuộc lại giấy tờ các bị cáo đồng ý cho chuộc lại với số tiền 300.000 đồng. Các bị cáo không đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản, do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” là có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hành và yêu cầu người bị hại nộp tiền để chuộc lại giấy tờ, có đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” để hủy án sơ thẩm để điều tra lại là không đúng. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm có những vi phạm về tố tụng như sau: + Đối với kháng cáo của người bị hại: Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: người bị hại có “đơn xin bãi nại” và được Công an xã Vĩnh Phương xác nhận ngày 25/04/2011 (sau ngày xét xử sơ thẩm) nên được coi là đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Tuy nhiên, “đơn xin bãi nại” do chị Nga ký ngày 20/04/2011 (không có xác nhận của Công an xã) và “đơn xin bãi nại” cũng do chị Nga ký ngày 20/04/2011 (có xác nhận của Công an xã ngày 25/04/2011) có nội dung như nhau, không sai một câu từ và trong đơn đều xin giảm án cho cả ba bị cáo. Đồng thời, tại biên bản ghi lời khai ngày 21/06/2011 (bút lục số 173,174), chị Trần Thị Thanh Nga khẳng định: “trước ngày Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử sơ thẩm, ông Trần Thiệt bảo chị ký vào “đơn xin bãi nại” đề ngày 20/04/2011 và chị chỉ ký duy nhất tờ đơn này, đối với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang chị đồng ý, không kháng cáo”; ngoài ra, tại biên bản xác minh ngày 20/06/2011, Trưởng Công an xã Vĩnh Phương xác nhận: ngày 25/04/2011, ông Phan Bính (là bố của Phan Nguyễn Hoàng Phương) đến Công an xã xin xác nhận vào “đơn xin bãi nại” của chị Nga, Công an xã đã liên hệ với chị Nga và chị Nga cho biết có ký đơn xin bãi nại đề ngày 20/04/2011, do đó Công an xã Vĩnh Phương xác nhận: chị Trần Thị Thanh Nga hiện ở tại địa phương. Như vậy, “đơn xin bãi nại” của chị Nga ký ngày 20/04/2011 (không có xác nhận của Công an xã) đã được sử dụng trong phiên tòa sơ thẩm ngày 20/4/2011 và “đơn xin bãi nại” của chị Nga ký ngày 20/04/2011 (có xác nhận của Công an xã ngày 25/04/2011) do gia đình bị cáo nộp kèm đơn kháng cáo là một. Do đó, có cơ sở khẳng định chị Trần Thị Thanh Nga không kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo như Tòa án cấp phúc thẩm nhận định. + Đối với kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo: Ngày 25/04/2011, bị cáo Phương kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; ngày 28/04/2011, ông Phan Bính (là người đại diện hợp pháp cho bị cáo Phương), ông Trần Thiệt (là người đại diện hợp pháp cho bị cáo Thạch) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Ngày 26/06/2011, ông Trần Thiệt và ông Phan Bính rút đơn kháng cáo; ngày 27/06/2011, các bị cáo Thạch và Phương rút đơn kháng cáo. Như vậy, căn cứ Điều 238 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên ngày 28/06/2011, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử (vắng mặt bị cáo Trung) và hủy bản án hình sự sơ thẩm số 81/2011/HSST ngày 20/04/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang để điều tra lại vì bỏ lọt tội “Cưỡng đoạt tài sản” là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Với những sai sót như đã nêu trên, tại Kháng nghị số 13 ngày 09/10/2012 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đề nghị Tòa hình sự hủy xét xử giám đốc thẩm để hủy bản án hình sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa để giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 26 ngày 19 tháng 12 năm 2012, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với nội dung như đã nêu trên. 3. Sai sót: Tòa án phúc thẩm áp dụng hình phạt quá nhẹ không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo Ví dụ: Ngày 29/10/2009, do nghi ngờ chồng là Trần Văn Ban lấy 10.000.000 đồng cho “gái” nên chị Trần Thị Hiếu và Ban cãi nhau, Ban lấy ghế gỗ dánh chị Hiếu, nhưng được anh Trần Văn Đại (là em trai chị Hiếu) can ngăn. Ngày hôm sau, giữa Ban và chị Hiếu vẫn tiếp tục cãi nhau và đến khoảng 02 giờ ngày 02/11/2009, chị Hiếu ngồi làm lòng lợn, Ban nấu nước sôi để cạo lông lợn thì chị Hiếu chửi Ban về việc lấy tiền. Do tức giận, Ban lấy một cây gỗ dài khoảng 80cm, đường kính khoảng 10cm đứng phía sau lưng chị Hiếu làm chị Hiếu gục xuống, Ban tiếp tục đánh hai, ba cái vào đầu chị Hiếu. Thấy chị Hiếu nằm bất động, Ban lấy hai con dao (một dao dùng để chặt thịt, một dao dùng để cạo lông lợn) chặt người chị Hiếu ra làm nhiều khúc rồi bỏ xuống hầm rút (qua lỗ thông hơi có đường kính 10cm) ở gần lò mổ lợn trong nhà Ban. Với những bộ phận cơ thể của chị Hiếu không bỏ qua được lỗ thông hơi thì Ban dùng dao chặt nhỏ và dóc thịt rồi bỏ xuống hầm rút. Sau khi giết và phi tang xác chị Hiếu, Ban lấy quần áo, dép của chị Hiếu và cây gỗ dùng để đánh chị Hiếu bỏ vào lò lửa đang nấu nước sôi để đốt. Sau đó, Ban tháo điện thoại di động của chị Hiếu, lấy sim cất giữ rồi ném máy điện thoại xuống hầm rút. Khoảng 3 giờ cùng ngày, Ban lên gác gọi và nói với con trai là Trần Văn Tuấn (sinh năm 1995) là mẹ đã bỏ nhà đi và bảo Tuấn đến trông em là Trần Khánh Linh (sinh năm 2008). Đến 9 giờ ngày 02/11/2009, Ban lấy sim điện thoại của chị Hiếu lắp vào máy điện thoại của mình rồi nhắn tin cho chị Nguyễn Thị Lệ Hồng (là bạn chị Hiếu) với nội “Hiếu lấy của Ban 350.000.000 đồng và trốn đi cùng người yêu qua Canada”, sau đó bẻ đôi sim điện thoại của chị Hiếu ném xuống suối sau qua nhà Ban. Ngày 09/11/2009, Ban đến Công an xã Vĩnh Lương, thành phố Nha Trang trình báo về việc chị Hiếu mất tích, nhờ cháu ruột là Trần Văn chúng đến trông nhà, chăm sóc các con của Ban và nhờ chị Hồ Thị Phương Viên (là bạn của Ban) đưa cho các con của Ban 4.500.000 đồng, cho chị Viên vay 10.000.000 đồng rồi bỏ trốn. Ngày 15/12/2009, biết tin con trai là Trần Văn Phong (sinh năm 1993) bị suy hô hấp phải điều trị tại Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa, Ban điện thoại bảo Chung lấy xi măng xây bít lỗ thông hơi hầm rút. Do nghi ngờ Ban giết chị Hiếu giấu xác trong nhà, nên ngày 29/12/2009 anh Trần Văn Đại và anh Trần Văn Thắng (đều là em chị Hiếu) đi tìm trong nhà Ban thì phát hiện thấy dấu xi măng bịt ống thông hơi của hầm rút, hai anh phá hầm rút và tìm thấy một số đoạn xương, nghi là xương người nên các anh đã báo Công an. Ngày 02/01/2010, biết tin Cơ quan điều tra đã tìm thấy bộ xương, Ban nhờ anh ruột là Trần Văn Nhung đưa đến Công an thành phố Nha Trang đầu thú. Tại bản giám định pháp y về tử thi số 46/PYHS/2010 ngày 12/01/2010, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Các phần xương và tổ chức phần mềm được phát hiện là của người, chưa xác định được giới tính độ tuổi; trên các phần xương người đã bị cắt rời thành nhiều mảnh, phát hiện các dấu vết sắc gọn, làm đứt lìa cấu trúc giải phẫu xương; các tổn thương phát hiện trên xương là do công cụ có lưỡi sắc, có trọng lượng tạo ra. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2010/HSST ngày 23/6/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa áp dụng các điểm i và n khoản 1 Điều 93; các điểm b và p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phát Trần Văn Bản tử hình về tội “Giết người”. Ngày 30/06/2010, Trần Văn Ban kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 352/2010/HSPT ngày 20/09/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; các điểm b và p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Văn ban tù chung thân về tội “Giết người”. Sai sót: Trong vụ án này hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong quan hệ vợ chồng mà bị cáo đã dùng cây gỗ đánh lien tiếp vào đầu chị Hiếu cho đến khi chị ấy bất tỉnh. Sau đó bị cáo dùng 2 con dao chặt xác, dóc thịt, chặt nhỏ xương Chị Hiếu làm nhiều đoạn rồi bỏ xuống hầm. Hành vi phạm tội của bị cáo là thực hiện tội phạm một cách man rợ và có tính chất côn đồ, đây là các tình tiết định khung hình phạt được quy định tại các điểm i và n Điều 93 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo còn có hành vi lấy quần áo, dép của chị Hiếu và hung khí gây án cho vào lò lửa đốt để phi tang, dùng sim điện thoại của chị Hiếu nhắn tin cho bạn của chị Hiếu, đến công an xã giả báo tin chị Hiếu bỏ nhà đi, chỉ đạo cháu ruột dùng xi măng bịt lỗ thông hơi hầm để đánh lạc hướng và che dấu tội phạm của mình. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm i và n Khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự xử phạt tử hình đối với bị cáo là đúng pháp luật, tòa án cấp phúc thẩm cho rằng sau khi giết chị Hiếu, bị cáo chặt xác, dóc thịt cho xuống hầm để phi tang không phải là hành vi “thực hiện tội phạm một cách man rợ” được quy định tại điểm I khoản 1 Điều 93 mà chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự “có hành động xảo quyệt nhằm che dấu tội phạm” để giảm hình phạt xuống tù chung thân cho bị cáo là áp dụng không đúng pháp luật và đánh giá không đúng tính chất mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra khi xét xử Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia phiên tòa là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Do có sai sót như đã phân tích trên đây nên bản án phúc thẩm đã bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị. Và tại Quyết định giám đốc thẩm số 05 ngày 26 tháng 3 năm 2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo ban để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật. 4. Tòa án cấp sơ thẩm xử quá nhẹ, Tòa án cấp phúc thẩm lại xử quá nặng Ví dụ: Trần Thanh Lan và anh Nguyễn Văn Khanh là vợ chồng, làm nghề mua bán lúa gạo. Trong thời gian trước ngày xảy ra vụ án, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát do anh Khanh hay đi uống rượu và không lo phụ giúp gia đình. Sau khi đi uống rượu về, khoảng 16 giờ 30 phút ngày 29-8-2009 anh Khanh gọi điện hỏi Lan ở đâu thì Lan nói là đang ở nhà máy xay lúa. Khoảng 5 phút sau anh Khanh đi xe mô tô tới chửi mắng và dùng dụng cụ xúc gạo đuổi đánh Lan. Lan bỏ chạy vào nhà chủ nhà máy xay lúa, nên anh Khanh đi về. Khoảng 17 giờ cùng ngày (sau khi bốc lúa ở nhà máy xay lúa xong) Lan về nhà thì bị anh Khanh dùng tay đánh vào mặt làm rách da chảy máu, được anh Nguyễn Tuấn Sinh (lái xe tải thuê cho vợ chồng Lan) can ngăn, nên anh Khanh bỏ đi uống rượu tiếp. Sau đó Lan nhớ đến việc chiếc xe máy của Lan đã hết xăng hiện đang gửi ở nhà máy xay lúa, nên Lan đưa 20.000 đồng cho con trai là Nguyễn Gia Tuấn đi mua xăng về để sang hôm sau đem đến đổ vào xe máy. Sau khi cháu Tuấn đi mua xăng về, Lan cất chai xăng trong tủ sắt. Theo Lan khai thì khoảng 21 giờ 30 phút, sau khi anh Khanh đi uống về, thấy Lan đang nằm xem truyền hình thì anh Khanh tắt truyền hình thì anh Khanh tắt truyền hình không cho Lan xem, lấy giấy kết hôn ra đốt, đòi ly dị với Lan, chửi và đuổi Lan ra khỏi nhà, nên Lan mới nảy sinh ý định dùng xăng đốt anh Khanh. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày, anh Khanh đang nằm ngủ (đắp mền từ chân tới bụng) Lan lấy chai xăng do con trai Lan mua về trước đó ra đổ vào cái ấm nhôm rồi đổ lên cái mền anh Khanh đang đắp, dùng giấy mồi lửa từ bếp ga đốt anh Khanh. Anh Khanh bị cháy nên tri hô, được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đến ngày 03-10-2009 thì tử vong. Tại Bản kết luận giám định số 339/09/GĐPY ngày 14-10-2009, Khoa giải phẫu bệnh – pháp y Bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “anh Nguyễn Văn Khanh tử vong do choáng nhiễm trùng, nhiễm độc sau bỏng toàn thân, có diện tích rộng và sâu”. Tại bản án hình sự sơ thẩm 02/2010/HSST ngày 20-01-2010, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 2 Điều 93; các điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thanh Lan 04 năm tù về tội “Giết người” (Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết phần trách nhiệm dân sự do người đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu). Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ/KNPT-P1A ngày 01-02-2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 02/2010/HSST ngày 20-10-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh; đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cáo tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với Trần Thanh Lan. Tại bản án hình sự phúc thẩm số 202/2010/HSPT ngày 15-4-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Thanh Lan 12 năm tù về tội “Giết người”. Nhận xét: *Về việc áp dụng pháp luật Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nguyên nhân xảy ra vụ án có một phần lỗi của người bị hại là anh Nguyễn Văn Khanh đã nhiều lần gây gổ, chửi và đánh bị cáo. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự để kết án đối với bị cáo là có căn cứ, vì giữa bị cáo và người bị hại có quan hệ vợ chồng đã có mâu thuẫn với nhau trong thời gian dài; trong ngày xảy ra vụ án người bị hại đã liên tiếp thực hiện nhiều hành vi xúc phạm danh sự, nhân phẩm của bị cáo làm bị cáo bị ức chế nên mới dùng xăng (mua về trước đó mục đích là để đổ vào xe máy đã hết xăng) đốt người bị hại. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị cáo dùng xăng đốt anh Khanh trong lúc anh Khanh đang ngủ, không thể tự vệ được thuộc trường hợp quy định tại điểm n (giết người có tính chất côn đồ) khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự là không đúng. *Về việc quyết định hình phạt Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc các điểm b, đ, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (như tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra; thành khẩn khai báo) nên đã áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức khởi điểm của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, mức hình phạt 04 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị cáo phạm tội có tính chất cồn đồ là không đúng và không áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nên đã quyết định mức hình phạt 12 năm tù đối với bị cáo là nặng. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 03/2012/HS-GĐT ngày 13-02-2012, Hội đồng thẩm phán đã quyết định hủy bán án hình sự phúc thẩm số 202/2010/HSPT ngày 15-04-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. 5. Sai sót về trách nhiệm hình sự, về trách nhiệm dân sự và về án phí Ví dụ: Tăng Ngọc Lợi là nhân viên lái xe của Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu (là Công ty chuyên cung cấp dịch vụ bảo vệ cho Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu). Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19-8-2009, trên đường đi vận chuyển tiền cho Ngân hàng Á Châu, Tăng Ngọc Lợi điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 65M-2105 đi từ Thốt Nốt về Ô Môn. Khi đến đoạn km24, quốc lộ 91, khi vực Thới Hưng, phường Thới Long, quận Ô Môn, Lợi điều khiển xe lấn trái đường vượt xe ô tô tải cùng chiều không đảm bảo an toàn nên va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 65H1-5955 do ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ điều khiển chạy ngược chiều, gây tai nạn, làm ông Sĩ bị thương tích với tỉ lệ thương tật là 44%. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2010/HSST ngày 20-04-2010, Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ áp dụng khoản 1 Điều 202; các điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tăng Ngọc Lợi 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, thời gian thử thách là 03 năm. Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 604, 608, 609 Bộ luật dân sự chấp nhận một phần yêu cầu của bị hại về việc buộc bị cáo Tăng Ngọc Lợi về việc chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe và thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ với số tiền là 60.000.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền 20.000.000 đồng mà ông Sĩ đã nhận và khấu trừ số tiền 20.000.000 đồng mà bị cáo đã tạm nộp tại Cơ quan điều tra; bác yêu cầu của ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ đòi bị cáo Lợi bồi thường số tiền 80.000.000 đồng (tiền phẫu thuật đợt 2 và tiền thưởng tật do tai nạn gây ra). Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Tăng Ngọc Lợi phải nộp số tiền 1.000.000 đồng; ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ phải nộp số tiền 4.000.000 đồng. Ngày 04-5-2010, ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ kháng cáo yêu cầu bị cáo cùng Ngân hàng Á Châu và Công ty dịch vụ bảo vệ Á Châu liên đới bồi thường cho ông tổng số tiền 118.620.000 đồng, nhưng khấu trừ số tiền mà ông đã nhận từ bị cáo 20.000.000 đồng. Sai sót: *Về trách nhiệm hình sự Tăng Ngọc Lợi đã có hành vi điều khiển xe ô tô lấn phần đường bên trái, vượt xe ô tô tải đang chạy cùng chiều không đảm bảo an toàn nên đã đâm vào xe mô tô do ông Nguyễn Lê Thanh Sĩ điều khiển đang chạy ngược chiều đúng phần đường, gây tai nạn làm ông Sĩ bị thương tích với tỉ lệ 44%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết án Tăng Ngọc Lợi về tội “Vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” là có căn cứ. *Về trách nhiệm dân sự Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định tư cách người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 618 của Bộ luật dân sự thì trong vụ án này Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu là pháp nhân giao nhiệm vụ cho người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao, do đó họ phải tham gia tố tụng với tư cách “Bị đơn dân sự” theo quy định tại Điều 53 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định Công ty này là “Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan” như vậy là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện sai sót này của cấp sơ thẩm và cũng không xác định họ tham gia tố tụng với tư cách gì. Bản án phúc thẩm chỉ ghi: “Đại diện Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu” như vậy là không rõ ràng. Từ việc xác định sai tư cách người tham gia tố tụng của Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu nên việc quyết định về bồi thường dân sự cũng không đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo tự nguyện bồi thường cho người bị hại tổng số tiền 60.000.000 đồng (cao hơn mức bồi thường mà Tòa án cấp sơ thẩm xác định), tuy chưa có sự thỏa thuận của người bị hại và của Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu nhưng Tòa án vẫn chấp nhận sự tự nguyện của bị cáo như vậy là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm quyền của Công ty dịch vụ bảo vệ Ngân hàng Á Châu. *Về án phí Theo quy định tại khoản 6 Điều 11 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án thì người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được miễn nộp toàn bộ án phí. Tuy vậy, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn buộc người bị hại phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là thực hiện không đúng quy định của pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của người bị hại. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã xem xét kháng cáo của người bị hại về phần dân sự trong vụ án hình sự và đã quyết định sửa về phần này nhưng không xem xét về án phí dân sự sơ thẩm là thực hiện không đúng quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án nêu trên quy định: Trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm bị kháng cáo thì đương sự kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; Tòa án cấp phúc thẩm phải xác định lại nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 của Pháp lệnh này. Như vậy, việc xem xét và xác định lại nghĩa vụ nộp án phí dân sự sơ thẩm là trách nhiệm bắt buộc đối vơi Tòa án cấp phúc thẩm. Do vụ án có những sai sót như đã nêu trên nên, tại Quyết định kháng nghị số 18 ngày 24 tháng 12 năm 2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bán án hình sự phúc thẩm nêu trên và bản án hình sự sơ thẩm số 18/2010/HSST ngày 20-04-2010 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ về phần dân sự; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 14 ngày 22 tháng 04 năm 2013, Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử giám đốc thẩm, chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với các nội dung đã nêu trên. 6. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo không đúng tội danh, dẫn đến việc áp dụng hình phạt quá nhẹ đối với bị cáo Ví dụ: Hoàng Thanh Tùng là cán bộ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (sau đây gọi tắt là Chi nhánh Trùng Khánh), được giao nhiệm vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng (cá nhân, tổ chức vay vốn) trên địa bàn phụ trách, hướng dẫn, thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu đủ điều kiện cho vay thì đề xuất với lãnh đạo Phòng Kế hoạch kinh doanh và lãnh đạo Chi nhánh Trùng Khánh phê duyệt, rồi rút tiền từ quỹ chính của Ngân hàng về quầy giao dịch của cán bộ tín dụng để giao cho khách hàng; mặt khác, Tùng còn có nhiệm vụ trực tiếp thu tiền trả nợ gốc và tiền lãi của khách hàng, nộp về Chi nhánh Trùng Khánh. Từ tháng 4 năm 2009 đến tháng 7 năm 2010, Hoàng Thanh Tùng đã thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, đề xuất cho vay và được lãnh đạo Chi nhánh Trùng Khánh chấp thuận, cho giải ngân với tổng số tiền là 488.000.000 đồng. Tùng đã rút số tiền này từ quỹ chính của Ngân hàng về quầy giao dịch của cán bộ tín dụng, nhưng không giao tiền cho các khách hàng trên. Cũng trong thời gian trên, Hoàng Thanh Tùng đã thu nợ 197.057.376 đồng mà các khách hàng trả nợ Ngân hàng, nhưng không nộp vào quỹ của Chi nhánh Trùng Khánh, không hạch toán trên máy tính theo quy định để giảm trừ khoản vay cho khách hàng, nên Ngân hàng không biết việc khách hàng đã nộp tiền và vẫn tính lãi suất trên số tiền vay của khách hàng. Ngoài ra, ngày 21-7-2010 Hoàng Thanh Tùng còn mạo danh anh Hoàng Văn Tọa sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Tọa lập 01 bộ hồ sơ khống vay 10.000.000 đồng của Chi nhánh, thời hạn vay 36 tháng. Hoàng Thanh Tùng khai đã sử dụng các khoản tiền trên vào việc đánh bạc, mua xe mô tô, làm nhà; sau khi bị phát hiện đến trước khi khởi tố vụ án, Tùng đã cùng gia đình bồi thường toàn bộ số tiền trên và tiền lãi phát sinh cho Chi nhánh Trùng Khánh. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 68/2011/HSST ngày 30-11-2011, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 281; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Thanh Tùng 30 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng; cấm Tùng đảm nhiệm các chức vụ liên quan đến quản lý kinh tế trong thời hạn 02 năm. Sai sót: *Đối với hành vi liên quan đến số tiền 685.057.376 đồng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

thumb
Văn hóa anh mỹ...
200
20326
146