Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề pháp lý về ưu đãi đầu tư tại việt nam...

Tài liệu Một số vấn đề pháp lý về ưu đãi đầu tư tại việt nam

.PDF
112
62
123

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT Trần Thị Hoàng Oanh MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.50 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH ĐỨC TP.HỒ CHÍ MINH – 2014 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ ......................................................... 8 1.1. Khái niệm về đầu tư và ưu đãi đầu tư ............................................................................ 8 1.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về ưu đãi đầu tư .................................................................................................................................. 16 1.2.1. Giai đoạn trước khi có Luật đầu tư năm 2005.................................................. 16 1.2.2. Giai đoạn từ khi có Luật đầu tư năm 2005 đến nay ........................................ 21 1.3. Vai trò của ưu đãi đầu tư đối với nền kinh tế .......................................................... 23 Kết luận Chương 1 ...................................................................................................................... 27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT.......................................................................................... 29 2.1. Cơ sở xác định ưu đãi đầu tư .......................................................................................... 29 2.1.1. Cơ sở pháp lý áp dụng ưu đãi đầu tư .................................................................. 29 2.1.1.1 Các văn bản pháp luật trong nước ................................................................. 29 2.1.1.2 Điều ước quốc tế ................................................................................................. 30 2.1.2. Đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư.................................................................. 31 2.1.3. Cơ sở, căn cứ ưu đãi đầu tư ................................................................................... 32 2.1.3.1 Lĩnh vực ưu đãi đầu tư ...................................................................................... 33 2.1.3.2. Địa bàn ưu đãi đầu tư ....................................................................................... 42 2.2. Các biện pháp ưu đãi đầu tư ........................................................................................... 50 2.2.1. Các quy định về ưu đãi trên lĩnh vực thuế......................................................... 50 2.2.1.1 Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp ......................................................... 51 2.2.1.2 Ưu đãi về thuế nhập khẩu ................................................................................. 67 2.2.2. Các quy định ưu đãi về sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước ........................................................................................................................ 74 2.2.3. Chuyển lỗ .................................................................................................................... 80 2.2.4. Khấu hao tài sản cố định ........................................................................................ 83 2.3. Thủ tục, điều kiện ưu đãi đầu tư .................................................................. 86 2 2.3.1. Thủ tục thực hiện ưu đãi đầu tư ............................................................................ 86 2.3.2. Vấn đề điều chỉnh, bổ sung ưu đãi đầu tư ......................................................... 89 2.3.3. Về vấn đề áp dụng ưu đãi đầu tư .......................................................................... 90 Kết luận Chương 2 ...................................................................................................................... 90 CHƯƠNG 3: HIỆU QUẢ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRÊN CƠ SỞ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM ................................ 92 3.1. Hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên cơ sở áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư ......................................................................................................................................................... 92 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư tại Việt Nam ...... 101 KẾT LUẬN................................................................................................................................... 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC SỐ 01 PHỤ LỤC SỐ 02 PHỤ LỤC SỐ 03 PHỤ LỤC SỐ 04 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện đường lối đổi mới, trong những năm qua, môi trường đầu tư của Việt Nam đã có nhiều biến đổi theo hướng ngày càng thông thoáng, bình đẳng, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Theo đánh giá của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hiệp quốc (UNCTAD), giai đoạn 2008-2010 Việt Nam đứng thứ 11 trong số các quốc gia hấp dẫn đầu tư nhất thế giới; giai đoạn 2011-2012 cũng theo đánh giá của tổ chức này, Việt Nam đã vươn lên 3 bậc, xếp thứ 8 trong số các quốc gia hấp dẫn đầu tư. Điều tra triển vọng đầu tư thế giới (WIPS) 2010 - 2012 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc cho thấy Việt Nam đã thăng hạng 3 bậc, đứng thứ nhất trong ASEAN về mức độ hấp dẫn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và là một trong 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư Nhật Bản và các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á. Với vai trò là một trong các biện pháp để thu hút đầu tư, ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách để định hướng hoạt động đầu tư thông qua việc tạo lập môi trường đầu tư có sức hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư. Các biện pháp ưu đãi đầu tư được thực hiện trên cơ sở các quy định của Luật Đầu tư năm 2005 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành và các luật chuyên ngành về thuế, đất đai và đã có bước phát triển nhất định góp phần tạo lập hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư tại Việt nam. Tuy nhiên, hệ thống các ưu đãi đầu tư hiện nay vẫn còn thiếu đồng bộ, bất cập, hạn chế, dường như chưa hiệu quả trong thu hút và khuyến khích các hoạt động đầu tư. Các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư còn tản mát, tồn tại trong nhiều văn bản pháp luật thực định khác nhau; nội dung các biện pháp ưu đãi chỉ tập trung vào các ưu đãi đầu vào; một số quy định còn có sự mâu thuẫn; mặc khác, việc thực thi chính sách ưu đãi đôi lúc còn thiếu nhất quán, chưa thật sự minh bạch. Sự phức tạp được nhân lên do các địa phương tiếp tục đưa ra các ưu đãi riêng của mình một cách 4 tùy tiện để cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư. Sự cạnh tranh này thường dẫn đến tình trạng “đua đến kiệt sức” trong nội bộ của một quốc gia. Trong bối cảnh Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như để góp phần tạo “tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh” tại Việt nam và là điểm đến lý tưởng, hấp dẫn và cạnh tranh hơn cho các nhà đầu tư, thì việc nhìn nhận lại hệ thống pháp luật về ưu đãi đầu tư hiện tại và đưa những thay đổi hướng tới một hệ thống pháp luật về ưu đãi đầu tư có hiệu quả và phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế là hết sức cấn thiết. Bên cạnh đó, cần phải đảm bảo rằng một hệ thống ưu đãi hiệu quả phải đạt được mục tiêu tăng đầu tư với chi phí thấp. Điều này đòi hỏi hệ thống đó phải: mang tính chọn lọc; qui định rõ ràng, tránh được những đánh giá, xem xét mang tính chủ quan khi thực hiện; đơn giản và cuối cùng là phải bình đẳng, minh bạch. Quan trọng hơn cả, hệ thống ưu đãi đầu tư hiệu quả phải dựa trên cơ sở kết quả hoạt động chứ không dựa trên kế hoạch hay đề xuất. Do đó, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao để có thể đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư tại Việt Nam. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về ưu đãi đầu tư tại Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu trong thời gian qua như sau: Nguyễn Thị Diễm Hường, Pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư, Luận văn thạc sĩ luật học (2006); Lê Thị Lệ Thu, Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học Đại Học Luật Hà Nội (2006); Phạm Thị Thanh Ngọc, Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sỹ luật học Đại học Luật Hà Nội (2010); Trần Hữu Quang, Pháp luật về ưu đãi đầu tư tại các khu kinh tế, Luận văn thạc sỹ (2010); Trần Vi Thoại, Chính sách ưu đãi đầu tư và tác động đối với Việt Nam qua các vụ kiện bán phá giá gần đây, Luận văn cử nhân (2006). Bên cạnh đó, 5 còn có một số bài viết chuyên khảo như: tác giả TS.Bùi Xuân Hải và TS.Trần Thị Thùy Dương (2010), “Chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp Việt nam và vấn đề trợ cấp theo quy định của WTO” “Ưu đãi đầu tư và trợ cấp – Kinh nghiệm cho Việt nam” - Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn; tác giả Lê Thị Minh Nguyệt (2007), Tác động từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đối với chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý; TS. Vũ Như Thăng (2010), “Chính sách đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt nam”, Ưu đãi đầu tư và trợ cấp – Kinh nghiệm cho Việt nam – Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn; Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng, (2007), Xé rào ưu đãi đầu tư của các tỉnh trong bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt Nam: "Sáng kiến" hay "lợi bất cập hại"?, Báo cáo đối thoại chính sách do Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright ở thành phố Hồ Chí Minh và Trường Quản lý Nhà nước John F.kennedy của Đại học Harvard thực hiện… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư, thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư tại Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư. Trong quá trình thực hiện luận văn, các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên là một nguồn thông tin tư liệu hết sức cần thiết 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định cũng như phương hướng, kiến nghị hoàn thiện quy định về ưu đãi đầu tư trong các Văn bản pháp luật. Qua phân tích, tìm hiểu các cơ sở lý luận, quy định của pháp luật hiện hành cũng như tìm hiểu hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên cơ sở áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư, tác giả muốn làm rõ những nội dung sau: - Nghiên cứu, phân tích và làm rõ lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư, các biện pháp ưu đãi đầu tư và thủ tục, điều kiện thực hiện ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành của nước ta. Ngoài ra, tác 6 giả còn tìm hiểu quy định pháp luật của một số nước trên thế giới để có cơ sở phân tích, so sánh với các quy định của nước ta về lĩnh vực này; - Phân tích sự cần thiết các quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với nền kinh tế nói chung và đối với môi trường đầu tư của Việt nam nói riêng; - Tìm hiểu hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên cơ sở áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư; - Phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư và kết quả tìm hiểu các quy định pháp luật của các nước trên thế giới, tác giả sẽ đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện pháp luật nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn và thu hút nhiều hơn nữa đầu tư vào Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu biện chứng duy vật, đi từ việc tìm hiểu các định nghĩa, khái niệm về đầu tư, ưu đãi đầu tư. Sau đó tìm hiểu các quy định của pháp luật về các biện pháp ưu đãi đầu tư và thủ tục, điều kiện ưu đãi đầu tư. Trên cơ sở tìm hiểu các quy định của pháp luật, tác giả đi sâu phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư. Tác giả sử dụng đồng thời các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp …để thực hiện nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư tại Việt Nam theo Luật đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với các quy định nằm rải rác ở các văn bản có liên quan (thuế, đất đai…). Từ đó phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư, đồng thời kiến nghị, đề xuất một số quy định nhằm hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi những quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư trong điều kiện hiện tại (từ khi Luật đầu tư 2005 ra đời và 7 có hiệu lực) và các lĩnh vực có liên quan đến chính sách ưu đãi đầu tư chủ yếu của Nhà nước. Bên cạnh đó, tác giả còn đi sâu phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành về ưu đãi đầu tư để đưa ra đề xuất các biện pháp hoàn thiện. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn Nội dung của đề tài góp một phần làm rõ hơn vai trò và nội dung các chính sách ưu đãi đầu tư tại Việt Nam, đi sâu phân tích đánh giá những ưu và nhược điểm trong các quy định của pháp luật để có thể hoàn thiện các quy định của pháp luật về ưu đãi đầu tư. Việc nghiên cứu Luận văn này một cách chi tiết, cụ thể, cũng như các đề xuất và hướng hoàn thiện một số quy định còn thiếu sót trong pháp luật nước ta sẽ góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật đầu tư nói chung và pháp luật ưu đãi đầu tư nói riêng. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc xây dựng môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật đầu tư hấp dẫn, ổn định để đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư vào Việt nam và tạo ra sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các sinh viên, học viên chuyên ngành luật và các đối tượng khác trong lĩnh vực có liên quan. 7. Bố cục của luận văn: Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo còn bao gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan về ưu đãi đầu tư. Chương 2. Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư tại Việt nam và thực tiễn áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư theo quy định pháp luật. Chương 3. Hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên cơ sở áp dụng các biện pháp ưu đãi đầu tư và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ưu đãi đầu tư tại Việt Nam. 8 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ 1.1 Các khái niệm về đầu tư và ưu đãi đầu tư Về thuật ngữ "Đầu tư" theo cách hiểu phổ thông là việc "bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội".1 Với cách hiểu này, thì đầu tư được hiểu theo nghĩa là hoạt động bỏ ra một nguồn lực A để nhằm đạt được mục đích B. Với những nguồn lực như "nhân lực", "vật lực", "tài lực", thì mục đích của hoạt động đầu tư có thể có thể có tính chất kinh doanh trên cơ sở đòi hỏi một hiệu quả kinh tế nhất định hoặc có thể là phục vụ cho các lợi ích xã hội, lợi ích chung của cộng đồng với mục đích phi lợi nhuận. Trong khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.2 Ở đây, nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là tài sản vật chất khác hoặc sức lao động. Trong các kết quả đạt được có thể là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực tăng thêm,.... Những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật,...của người dân). Các kết quả đã đạt được của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày càng phong phú, đa dạng về tính chất và mục đích. Như vậy, nếu xem xét trên góc độ đầu tư thì đầu tư là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn lực và trí tuệ để cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của các tài sản và nguồn lực sẵn có. Dưới góc độ khoa học pháp lý cũng như thực tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, với 1 2 Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, (2003), Nxb Đà Nẵng, tr.301. Trường Đại học kinh tế quốc dân, (2003), Giáo trình kinh tế đầu tư, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr.16-17 9 bản chất là "sự chi phí của cả vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận".3 Ở khía cạnh này, thuật ngữ đầu tư có cách hiểu tương tự như dưới góc độ kinh tế. Theo Điều 3 Luật đầu tư năm 2005, đầu tư là "việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành các loại tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và pháp luật có liên quan". Mặc dù ở đây không nói về mục đích của hoạt động đầu tư, nhưng theo Luật Đầu tư 2005 quy định ”Luật này quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh”.4 Như vậy, thuật ngữ đầu tư theo quy định của Luật đầu tư có cách hiểu tương đồng với thuật ngữ đầu tư trong khoa học kinh tế. Đầu tư bao giờ cũng gắn với một hình thức đầu tư cụ thể. Nhà đầu tư không thể tiến hành đầu tư ngoài các hình thức đầu tư. Hình thức đầu tư là cách tiến hành hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật. Hình thức đầu tư kinh doanh ngày càng phong phú, đa dạng và mỗi hình thức đầu tư có những đặc điểm riêng về cách thức đầu tư vốn, tính chất liên kết và phân chia kết quả kinh doanh giữa các nhà đầu tư. Căn cứ vào nhu cầu và điều kiện cụ thể của mình, các nhà đầu tư có quyền lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư, có thể chia đầu tư thành: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.5 Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng vốn đầu tư. Trong hoạt động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Các hình thức đầu tư trực tiếp bao gồm: - Đầu tư vào các tổ chức kinh tế: Là việc nhà đầu tư bỏ vốn thành lập mới các cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ để nắm quyền quản trị của đơn vị kinh doanh đang hoạt động. Theo quy định hiện hành, đầu tư vào các tổ chức kinh tế bao gồm các nhóm hình thức đầu tư chủ yếu sau: 3 Black’s Law Dictionary (1991), Centenial Edition, Sixth Edition, tr.825. 4 Điều 1, Luật đầu tư năm 2005 Điều 21, Điều 26 Luật đầu tư năm 2005 5 10 + Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư. Nhóm hình thức đầu tư này bao gồm: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (do một cá nhân hoặc một tổ chức làm chủ sở hữu), hộ kinh doanh cá thể. + Thành lập, góp vốn vào tổ chức kinh tế có sự hợp tác giữa nhiều nhà đầu tư. Ở nhóm hình thức đầu tư này, nhà đầu tư có thể thành lập hoặc góp vốn vào Công ty hợp danh, Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Công ty cổ phần, Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã. Khi tiến hành hình thức đầu tư này, hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư được tiến hành thông qua tư cách pháp lý của các tổ chức kinh tế. - Đầu tư theo hình thức hợp đồng: Là hình thức đầu tư được tiến hành trên cơ sở hợp đồng được giao kết giữa các nhà đầu tư với nhau hoặc giữa nhà đầu tư với với Nhà nước (các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Nhà đầu tư trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh với tư cách pháp lý của mình phù hợp với nội dung thỏa thuận trong hợp đồng và tuân thủ quy định pháp luật. Hình thức này bao gồm: + Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân. Hình thức này có thể được thực hiện thông qua hợp tác song phương (hai bên) hoặc đa phương (nhiều bên). + Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT). BOT, BTO, BT là những hình thức đầu tư thông qua hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Theo hợp đồng này, nhà đầu tư bỏ vốn để xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng và chuyển giao cho Nhà nước theo những phương thức thanh toán, đền bù khác nhau. - Đầu tư phát triển kinh doanh: Là hình thức đầu tư theo đó nhà đầu tư bỏ vốn để mở rộng quy mô và/hoặc nâng cao năng lực hoạt động của cơ sở kinh doanh. Đầu tư phát triển kinh doanh bao gồm các hình thức cụ thể là: mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh (thành lập chi nhánh, văn phòng đại 11 diện, các đơn vị trực thuộc…); đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường. - Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp. Ngược lại, đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và sử dụng các nguồn lực đầu tư. Nhà đầu tư gián tiếp về cơ bản chỉ được hưởng các lợi ích kinh tế từ hoạt động đầu tư. Các hình thức đầu tư gián tiếp bao gồm: - Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; - Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; - Thông qua các định chế tài chính trung gian khác. Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư đầu tư để thực hiện các hình thức đầu tư nói trên, có thể phân chia thành hai loại là đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.6 Đầu tư trong nước: là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.7 Điều này có nghĩa là nguồn lực đầu tư được huy động từ ngân sách nhà nước và từ các tổ chức, cá nhân trong nước. Đầu tư nước ngoài: là hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu tư được huy động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người của nước nhận đầu tư định cư ở ngoài đầu tư về nước. Thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn có sự phân biệt giữa đầu tư từ nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài. Theo Luật đầu tư năm 2005, đầu tư từ nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư; Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư.8 Đối với thuật ngữ “đầu tư” và “hoạt động đầu tư”, Luật đầu tư năm 2005 có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ này. Theo đó “Hoạt động đầu tư được hiểu là 6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, tr.9. 7 Khoản 13, Điều 3, Luật đầu tư năm 2005 Khoản 12, 14, Điều 3, Luật đầu tư năm 2005 8 12 hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư”.9 Có thể hiểu đầu tư là một quá trình gồm nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn này một hoạt động đầu tư. Như vậy, bản thân thuật ngữ đầu tư đã có một cách hiểu và giải thích tương đối rõ ràng về chủ thể, nội dung, hình thức dưới cả góc độ phổ thông, kinh tế và pháp lý. Về thuật ngữ "ưu đãi đầu tư", hiện nay ở Việt Nam chưa có một khái niệm thống nhất về ưu đãi đầu tư. Thuật ngữ "ưu đãi đầu tư" được sử dụng ở nhiều văn bản khác nhau, ở mỗi ngành nghề khác nhau. Theo nghĩa chung nhất "ưu đãi" được hiểu là "việc chú trọng, dành cho những quyền lợi, điều kiện tốt hơn những đối tượng khác".10 Như vậy, theo nghĩa của từ thuật ngữ "ưu đãi đầu tư" là việc nhà nước chú trọng dành những quyền lợi, điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Những quyền lợi, điều kiện thuận lợi ở đây suy cho cùng đó là các lợi ích vật chất mà nhà đầu tư được hưởng. Theo Từ điển Luật học, "ưu đãi đầu tư" là "ưu đãi mà nhà nước dành cho nhà đầu tư khi họ đầu tư vào lĩnh vực, địa bàn được khuyến khích nhằm tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước có thể áp dụng các ưu đãi trong chính sách thuế; tín dụng; chính sách sử dụng đất, tài nguyên; chính sách xuất khẩu, nhập khẩu và các ưu đãi khác. Căn cứ vào quy hoạch định hướng phát triển trong từng thời kỳ, Chính phủ quy định danh mục ngành, nghề của từng lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục địa bàn ưu đãi đầu tư và các tiêu chuẩn về trình độ công nghệ; quy mô sử dụng lao động cũng như quy định các mức ưu đãi đầu tư cụ thể." 9 11 Khoản 7, Điều 3, Luật Đầu tư 2005. 10 Nguyễn Như Ý (chủ biên), (năm 2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh. Tr. 1732. 11 Từ điển luật học, Nxb Tư pháp - Nxb Từ điển bách khoa, (2006), tr. 838. 13 Hay "ưu đãi đầu tư có thể hiểu như là một công cụ chính sách được luật hóa mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư".12 Có thể hiểu rằng ưu đãi đầu tư nằm trong hệ thống các chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư của Nhà nước nhằm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư hoặc định hướng đầu tư theo những mục tiêu phát triển nhất định. Như vậy, ưu đãi đầu tư là một trong những biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chủ đạo, là công cụ đặc biệt được Nhà nước thể chế bằng pháp luật để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với nền kinh tế. Chính vì vậy, ở Việt Nam, khái niệm "ưu đãi đầu tư" được hiểu là những quy định mang tính hiện thực, cụ thể và được xác định rõ trong các văn bản pháp luật để nhà đầu tư có thể nắm bắt, thực hiện.13 Trước khi bỏ vốn để đầu tư một dự án thì nhà đầu tư phải tìm hiểu hiện tại: Nhà nước ưu đãi cái gì (lĩnh vực ưu đãi), ưu đãi ở đâu (địa bàn ưu đãi), ưu đãi như thế nào (mức ưu đãi như thuế suất, thời hạn ưu đãi,..) để có sự suy nghĩ, lựa chọn và quyết định đầu tư một cách tối ưu. Theo báo cáo của Hội nghị về thương mại và phát triển thuộc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) 1996: "ưu đãi đầu tư là những lợi thế kinh tế có thể lượng hóa được mà chính phủ của các quốc gia dành cho những doanh nghiệp hoặc những nhóm doanh nghiệp nhất định nhằm khuyến khích họ xử sự theo một cách thức nhất định". Theo UNCTAD, ưu đãi đầu tư được chia làm 3 loại: ưu đãi về thuế, ưu đãi về tài chính và các ưu đãi khác. Trong đó, ưu đãi về thuế được hiểu là những biện pháp nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư, phổ biến là thuế nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác liên quan đến quá trình sản xuất; thuế xuất khẩu (ưu đãi thuế đối với các khoản thu nhập từ xuất khẩu, hoàn thuế, khấu trừ thuế đối với thuế nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu); thuế thu nhập doanh nghiệp (căn cứ vào hàm lượng 12 Lê Thị Lệ Thu (2006), Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt nam, Luận văn thạc sỹ luật học Đại học luật Hà Nội, tr.9 13 Phạm Thị Thanh Ngọc (2005), Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi, luận văn thạc sỹ luật học Đại học Luật Hà Nội, tr.5. 14 nội địa có trong sản phẩm...). Kế đến, ưu đãi tài chính là các biện pháp đặc biệt do nhà nước dành cho các doanh nghiệp liên quan đến quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp này, ví dụ như cho vay với lãi suất ưu đãi; chính phủ hoặc cơ quan của chính phủ cấp tiền, tín dụng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới hình thức góp cổ phần. Và cuối cùng, ưu đãi khác được hiểu là nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm tăng khả năng sinh lời của các dự án đầu tư theo những cách gián tiếp, ví dụ như: cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng dưới mức thương mại thông thường.14 Theo các học giả: Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng, ưu đãi đầu tư đều có chi phí và lợi ích. Về lợi ích, một luồng vốn chảy vào liên tục đóng một vai trò quan trọng để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, điều này sẽ dẫn đến mức sống cao hơn và nhiều cơ hội việc làm hơn cho người dân địa phương. Các ưu đãi đầu tư cũng có những chi phí, một số chi phí là trực tiếp và rõ ràng (ví dụ như nguồn thu phải hy sinh do miễn thuế, trợ cấp thuế, nợ thuế, giảm hay miễn phí sử dụng đất), còn một số chi phí khác thì gián tiếp hơn và ít rõ ràng hơn. Một chi phí tiềm tàng nữa nhưng ít rõ ràng hơn là việc bóp méo sự phân bổ nguồn lực do việc thu hút các nhà đầu tư không phù hợp với những ưu đãi không phù hợp với phương châm là "ăn mày thì đừng đòi xôi gấc". Ví dụ như luôn có những nhà đầu tư dể dàng di chuyển chỉ muốn tìm kiếm những cơ hội ngắn hạn và làm giàu ngắn hạn. Một hệ thống ưu đãi thuế với những trợ cấp thuế rộng rãi sẽ có lợi cho loại đầu tư này, nhưng sẽ khiến các đầu tư đã có và dài hạn bị thiệt thòi. Tệ hơn nữa, có những nhà đầu tư loại này, những người nếu không có những ưu đãi thuế này thì sẽ không thể tồn tại được trong cạnh tranh. Hơn nữa, những ưu đãi thuế phức tạp sẽ tạo ra chi phí vì cần phải quản lý và có hệ thống kế toán tốt. Do những ưu đãi đầu tư nói chung đều rất tốn kém, cho nên tốt nhất là nên thiết kế 14 Lê Thị Minh Nguyệt (2007), Tác động từ việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới đối với chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, (số 01), tr.1. 15 cơ chế ưu đãi đầu tư đáp ứng được nhu cầu cụ thể của những nhà đầu tư mà nếu không có những ưu đãi này thì họ sẽ không đầu tư được.15 Tóm lại, ưu đãi đầu tư có thể hiểu như là một công cụ chính sách được luật hóa mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư. Trong mối quan hệ này: - Nhà nước chính là chủ thể đem lại các ưu đãi, bằng pháp luật quy định những điều kiện ưu tiên thuận lợi cho những nhà đầu tư khi đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực vùng lãnh thổ mà điều kiện kinh tế xã hội không thuận lợi. Việc quy định này thuộc chủ quyền của một quốc gia. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa về kinh tế, pháp luật về ưu đãi đầu tư của quốc gia phải đảm bảo không có sự xung đột với nghĩa vụ thực thi các cam kết quốc tế của quốc gia. - Chủ thể được nhận ưu đãi là nhà đầu tư (trong và ngoài nước) đáp ứng, thỏa mãn được các điều kiện do quốc gia ban hành chính sách ưu đãi quy định. - Khách thể của quan hệ này chính là các ưu đãi cụ thể như các khoản lợi về thuế, tiền thuê đất, v.v....... Bản chất của ưu đãi đầu tư là Nhà nước dành cho các nhà đầu tư những chính sách "ưu đãi đặc biệt" để khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư. Tuy nhiên, chúng cũng có thể ẩn chứa mục tiêu giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí kinh doanh, có thêm lợi nhuận, cũng có thể là khuyến khích xuất khẩu và tăng cường năng lực cạnh tranh cho hàng nội địa của các doanh nghiệp trong nước.16 Để chính sách ưu đãi đầu tư được phát huy một cách có hiệu quả, Nhà nước không thể tùy tiện đưa ra các chính sách ưu đãi và không thể dành sự ưu đãi cho nhà đầu tư này mà không dành ưu đãi cho nhà đầu tư khác. Một chính sách ưu đãi thống nhất và bình đẳng sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh đầu tư "sòng phẳng" và lành mạnh. Trong bối cảnh hiện nay, chủ thể đầu tư không chỉ là nhà đầu tư trong nước mà còn có các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các quốc gia khác nhau cũng song song tồn tại. Sự 15 Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng, (2007), Xé rào ưu đãi đầu tư của các tỉnh trong bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt Nam: "Sáng kiến" hay "lợi bất cập hại"?, Báo cáo đối thoại chính sách do Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright ở thành phố Hồ Chí Minh và Trường Quản lý Nhà nước John F.kennedy của Đại học Harvard thực hiện. 16 TS.Bùi Xuân Hải và TS.Trần Thị Thùy Dương (2010), “Chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp Việt nam và vấn đề trợ cấp theo quy định của WTO” “Ưu đãi đầu tư và trợ cấp – Kinh nghiệm cho Việt nam” - Nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn, tr. 19. 16 thống nhất và bình đẳng trong môi trường pháp lý là vô cùng cần thiết. Nó không chỉ làm cho thị trường đầu tư của Việt Nam có một sự cạnh tranh sôi động mà còn đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư có hiệu quả. Pháp luật về đầu tư nói chung và pháp luật về ưu đãi đầu tư nói riêng là mực thước để phân định và thúc đẩy các hoạt động đầu tư phát triển. Sự điều chỉnh các ưu đãi đầu tư bằng pháp luật không chỉ đảm bảo cho các ưu đãi đầu tư phát huy được hiệu quả, thu hút và tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư mà còn đảm bảo cho các hoạt động đầu tư vận động theo đúng các quy luật khách quan. Đây là nền tảng cho việc tăng cường vị thế của Việt nam trong tương lại đối với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, ưu đãi đầu tư được coi là một trong những biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả, đặc biệt là trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới đều có điểm chung là cần vốn đầu tư như cần một yếu tố thiết yếu giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Yêu cầu đặt ra là cần xây dựng một chính sách ưu đãi đầu đảm bảo việc ưu đãi là sự hy sinh lợi ích để đạt được lợi ích lớn hơn cả về mặt kinh tế, lẫn mặt xã hội, một chính sách ưu đãi đầu tư cần bảo đảm hấp dẫn nhà đầu tư tiềm năng vào ngành nghề, lĩnh vực theo định hướng mới, đồng thời phải tính toán và được thực hiện trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, hiệu quả kinh tế - xã hội của từng địa phương. 1.2 Quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật Việt nam về đầu tư và ưu đãi đầu tư 1.2.1 Giai đoạn trước khi có Luật Đầu tư năm 2005 Sau khi đất nước ta thống nhất năm 1975, nhu cầu khôi phục và xây dựng nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Trình độ trang bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng, văn hóa – xã hội lạc hậu, năng suất lao động xã hội rất thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng một nước nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối nặng nề trên nhiều mặt, chưa tạo được tích lũy trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Để khôi phục và phát triển kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ 17 IV năm 1976 đã khẳng định "việc đẩy mạnh quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế và phát triển các quan hệ kinh tế với các nước khác có một vai trò vô cùng quan trọng" (Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1976). Thực hiện chủ trương đúng đắn đó của Đảng, ngày 18/4/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị định 115/CP kèm theo Điều lệ đầu tư nước ngoài (Điều lệ đầu tư năm 1977), một văn bản pháp quy riêng biệt nhằm khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư nước ngoài này, đã thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được các nhà đầu tư nước ngoài thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở của của Việt nam. Theo các quy định tại Điều 1 của Điều lệ đầu tư năm 1977, Chính phủ Việt Nam chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các bên cùng có lợi mà không phân biệt chế độ kinh tế chính trị của quốc gia của nhà đầu tư. Mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài đã được thể hiện một cách rõ ràng. Trong bối cảnh của nền kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng Điều lệ đầu tư năm 1977 đã tạo ra một môi trường pháp lý đặc thù của một nền kinh tế tự do đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, văn bản này được ban hành nhằm thể chế hóa chính sách quản lý của nền kinh tế tập trung, nên chưa có các quy định cụ thể cho việc thi hành các biện pháp khuyến khích đầu tư và áp dụng các ưu đãi đầu tư về thuế, đất đai, tài chính, lao động,..Do đó, văn bản pháp luật này chưa tạo được môi trường pháp lý đồng bộ nhằm đảm bảo cho sự đầu tư lâu dài, ổn định, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư. Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 17/7/1984 và Nghị quyết Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá V) ngày 20/12/1984 về việc bổ sung và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành năm 1977, tiến tới xây dựng một bộ Luật Đầu tư hoàn chỉnh, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội 18 khoá 8 ngày 31/12/1987 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987). Có thể nói sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận động xã hội, nó đã tạo ra được một môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được soạn thảo dựa trên nội dung cơ bản của Điều lệ đầu tư năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt nam và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới. Với một nội dung tương đối hấp dẫn, cấu trúc đơn giản, đầy đủ và nhìn chung phù hợp với tập quán luật pháp Quốc tế, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã đáp ứng được mong mỏi của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành trong hoàn cảnh chưa có khung pháp luật của nền kinh tế thị trường, các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động thu hút đầu tư và ưu đãi đầu tư chưa phản ánh đúng các quy luật của nền kinh tế thị trường nên chưa thật phù hơp với sự phát triển của nước ta và cũng chưa phù hợp với đòi hỏi của tình hình thực tế. Bên cạnh đó, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 chưa đảm bảo yếu tố cạnh tranh lành mạnh và thực sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Để thực hiện quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, ngày 30/6/1990, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 1987. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã tuân thủ một số nguyên tắc chủ yếu của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tất cả các thành phần kinh tế trong nước có thể tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện dự án đầu tư. Các chủ thể đầu tư cạnh tranh bình đẳng. Các quy định pháp lý liên quan đến các biện pháp khuyến khích đầu tư đã thúc đẩy và thu hút các nhà đầu tư, cụ thể như các biện pháp bảo đảm đầu tư, các ưu đãi về thuế như: miễn thuế trong 4 năm, giảm thuế 50% trong 4 năm tiếp theo, hoàn 100% thuế cho phần lợi tức tái đầu tư....Có thể khẳng định rằng, sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1990 được ban hành, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã bước 19 sang một giai đoạn phát triển mới, đánh dấu sự thành công của chính sách "mở cửa", hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Tại thời điểm năm 1992 việc đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài là cần thiết, bởi lẽ: Một là, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trở thành một cuộc cạnh tranh gay gắt vì cung cầu vốn đầu tư trên thế giới có sự biến động lớn; Hai là, thực tiễn hợp tác đầu tư cho phép chúng ta nhận thức rõ hơn vị trí của các mục tiêu, kinh tế, xã hội và tài chính của hoạt động đầu tư. Không khuyến khích đủ mức về tài chính thì không thu hút được nhiều vốn đầu tư, sẽ hạn chế mục tiêu kinh tế, xã hội; mục tiêu kinh tế, xã hội đạt càng thấp thì nguồn thu tài chính sẽ càng eo hẹp; Ba là, tình hình kinh tế của nước ta đã có nhiều biến chuyển tích cực rất có ý nghĩa với sự phát triển của các thành phần kinh tế; Bốn là, từ sau khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, nhất là trong vài năm gần đây và triển vọng các năm tới, thực tiễn đầu tư đã và đang xuất hiện một số khả năng và cơ hội mới, những nhu cầu và định hướng mới đòi hỏi phải có những điều chỉnh hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài cho phù hợp. Từ những sự cần thiết phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài như vậy, ngày 23/12/1992 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài (Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992). Đạo luật này bổ sung biện pháp bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp pháp luật của Việt nam có thay đổi. Đồng thời, đạo luật này cũng cụ thể hóa các chính sách ưu đãi đầu tư, hoàn thiện các biện pháp ưu đãi đầu tư như: xây dựng các mức ưu đãi về thuế, về giá thuê đất, giá điện nước và công nhân...như nhau cho các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 1996, khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, các quy định pháp luật về thu hút đầu tư quá chung, không đủ mức cụ thể để dễ thi hành, thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn chồng chéo và thiếu tính cập nhật, các thủ tục hành chính còn phức tạp, rườm rà; chủ trương và quy hoạch chưa đủ mức cụ thể, làm cho
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất