Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý
trong luật hình sự Việt Nam
Nguyễn Thị Lan Anh
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS. GVC Trịnh Quốc Toản
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Trình bày khái niệm chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự có điều
kiện. Nghiên cứu các yếu tố của hợp đồng dân sự có điều kiện và hiệu lực của hợp
đồng dân sự có điều kiện. Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện:
Thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam là có sự trùng lặp, thiếu nhất
quán và không đồng bộ; Vấn đề về điều kiện trong hợp đồng dân sự có điều kiện. Đưa
ra các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện :
Cầ n hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t dân sự điều chỉnh chế định hợp đồng và hợp đồng dân sự có
điều kiện; Cần phân biệt giữa "điều kiện" trong hợp đồng dân sự có điều kiện và "điều
kiện" trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Án lệ đối với việc giải quyết các
tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự có điều kiện; Cần có các tiêu chí về điều
kiện mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng dân sự có điều kiện; Quy định thêm các
điều kiện làm điều kiện thay đổi hợp đồng dân sự có điều kiện…
Keywords: Lỗi vô ý; Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan là
những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội. Những biểu hiện đó cùng với khách thể và chủ thể của tội phạm là những yếu
tố cấu thành tội phạm (CTTP) - cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối
với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì giữa những biểu
hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể,
xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm được quy
định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội phạm. Việc thừa nhận lỗi như là một căn
cứ để truy cứu TNHS là một nguyên tắc cơ bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn pháp luật việc quy định
các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm nói chung và dấu hiệu lỗi nói riêng trong
một số CTTP vẫn còn có những bất cập, hạn chế nhất định, như không quy định hoặc quy
định về lỗi, các hình thức lỗi, trong đó có lỗi vô ý chưa rõ ràng, mâu thuẫn, thiếu thống nhất
dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và quyết
định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình
trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều
vụ án hình sự không được giải quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có
dấu hiệu gia tăng, v.v...
Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu "Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng, điển hình như: Lê
Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật
hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm
và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hũa (2004), Cấu
thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư phỏp, Hà Nội; Đào Trí úc (2000), Luật hình sự
Việt Nam, Quyển I: "Những vấn đề chung", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh
(1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Dương Tuyết Miờn (2007), Định tội danh và
quyết định hỡnh phạt, NXB Lao động - xó hội; Cao Thị Oanh, Vấn đề mặt chủ quan của đồng
phạm, Tạp chớ Luật học 2/2002; Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lỗi trong luật hỡnh sự, Tạp
chớ Nhà nước và phỏp luật, số 11/1999; Lờ Thị Thu Thủy (2003), Nguyờn tắc trỏch nhiệm
trờn cơ sở lỗi trong luật hỡnh sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội, v.v..
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, luận
văn và các bài báo khoa học về chế định lỗi vụ ý của các nhà khoa học luật hỡnh sự ở nước ta,
cho thấy hầu hết đó là các công trình nghiên cứu cơ bản về cỏc vấn đề chung của luật hỡnh
sự, còn đối với chế định lỗi vụ ý, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách
đúng mức. Những nghiên cứu về lỗi vụ ý mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu đơn lẻ,
hoặc là đề cập đến cỏc yếu tố CTTP, hoặc là về mặt chủ quan của tội phạm, hoặc là được thể
hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về phần chung của luật hỡnh
sự. Cú thể núi hiện nay ở Việt nam vẫn chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và
sâu sắc về lỗi vụ ý dưới góc độ lý luận và thực tiễn ỏp dụng. Do đú, nguyên nhân của những
tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng những quy định về lỗi vụ ý chưa được phân tích có hệ
thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt nam quy định về lỗi vô ý và thực tiễn áp
dụng trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, rút ra được những tồn tại, hạn chế của việc
quy định và áp dụng các quy định về lỗi vô ý và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của luật hình sự về lỗi vô ý.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những nhiệm
vụ sau:
2
- Nghiên cứu những vấn đề chung về lỗi, lỗi vô ý, các hình thức và vai trò của lỗi vô ý,
phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và với sự kiện bất ngờ; Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của
luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực tiễn pháp luật hình sự quy định về lỗi vô ý;
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng các quy định về lỗi vô ý trong hoạt động xét
xử của các Tòa các cấp từ năm 2005 đến 2010;
- Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về lỗi vô ý trong BLHS hiện
hành và thực tiễn áp dụng;
- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật quy định
về lỗi vô ý, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về lỗi vô ý.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy,
những vấn đề có liên quan tới lỗi vô ý được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo
đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác
giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học và các cán
bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật,…
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu hệ
thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới
của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của lỗi vô ý trong Bộ
luật hình sự (BLHS) hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về lỗi vô ý; nêu ra
những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật
cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các
giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về lỗi vô
ý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận
văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
và nâng cao hiệu quả áp dụng.
3
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi của vấn đề, nhưng về
cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất lỗi là một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội
phạm, đó là sự kết hợp giữa yếu tố lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức
hoặc không nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể hiện
năng lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó để thực hiện một xử sự
khác không trái với lợi ích của xã hội.
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm hình sự, thể hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả
do hành vi đó gây ra trong khi họ có đủ điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù
hợp với đòi hỏi của xã hội.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của con người, khoa học
luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và khả năng gây
ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội;
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy
ra.
Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu đúng về nó, cần phải
làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:
- Yếu tố lý trí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ đặc
điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định thực hiện hành vi, họ
không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù hợp với quy định của
pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước bỏ điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một
hành vi khác – hành vi trái pháp luật hình sự.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm về lỗi vô ý như sau:
Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trong khi có đủ điều kiện để nhận thức được.
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
Các điều kiện để một người bị coi là có lỗi:
Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do – năng lực nhận thức được đòi hỏi của xã hội và
năng lực điều khiển được hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng
lực trách nhiệm hình sự. Chỉ những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể có lỗi.
Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong trường hợp cụ thể khi có điều
kiện phát huy năng lực đó – điều kiện cho phép chủ thể trong trường hợp cụ thể biến năng lực
tự do thành sự tự do thực sự.
Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện cho phép trong trường hợp cụ
thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã lựa chọn hành vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi mất tự
do.
Các điều kiện của lỗi vô ý:
4
Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể hiện tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi.
Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu thả, thiếu thận trọng
trong việc đánh giá hành vi.
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có
thể ngăn ngừa được.
- Về lý trí: người phạm tội do vô ý vì quá tự tin trước khi lựa chọn, thực hiện hành vi đã
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và nhận thức được khả
năng có thể xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
- Về ý chí: Người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn hành vi của mình gây
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp
với lỗi vô ý vì quá tự tin.
1.1.3.2. Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả
đó.
- Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã
hội do hành vi của mình gây ra.
- Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và có thể thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng người phạm tội đã không thấy vì cẩu thả,
thiếu thận trọng trong khi lựa chọn, thực hiện hành vi.
1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
Lỗi cố ý là hình thức lỗi, trong đó chủ thể lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội mặc dù đã ý thức (nhận thức) được các đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi đó. Ở lỗi vô ý, người phạm tội không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy
đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định thực hiện
hành vi, không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là sự khác nhau
cơ bản giữa lỗi vô ý với lỗi cố ý, đối với lỗi cố ý về mặt ý chí chủ thể nhận thức rõ được các
đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Về mặt lý trí của lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp nói riêng và lỗi cố ý nói chung
có sự giống nhau đó là đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tuy
nhiên, ở lỗi cỗ ý gián tiếp, khi lựa chọn thực hiện hành vi phạm tội chủ thể thấy trước được
hậu quả nguy hiểm và đã chấp nhận khả năng hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra còn ở lỗi vô ý vì
quá tự tin, chủ thể cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhưng đã
loại trừ khả năng đó, cho rằng khả năng đó không xảy ra hoặc sẽ ngăn ngừa được.
1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
Sự khác nhau trực diện cơ bản giữa lỗi vô ý và sự kiện bất ngờ đó là sự khác nhau giữa
việc gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp có lỗi (lỗi vô ý) và gây hậu quả nguy hiểm
trong trường hợp không có lỗi (sự kiện bất ngờ).
Xét về bản chất của các hình thức lỗi vô ý trong đó có lỗi vô ý do cẩu thả và sự kiện bất
ngờ, bên cạnh những điểm giống nhau, giữa chúng còn tồn tại những điểm khác nhau cơ
bản. Lỗi vô ý do cẩu thả giống với sự kiện bất ngờ ở chỗ: chủ thể thực hiện hành vi đều
không thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.
Nhưng trong trường hợp vô ý do cẩu thả thì chủ thể không thấy trước hậu quả nguy hiểm là
5
do cẩu thả, còn trong sự kiện bất ngờ, chủ thể không thấy trước hậu quả là do hoàn cảnh
khách quan hoặc do khả năng chủ quan.
1.3. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt
1.3.1. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm
1.3.1.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc xác định tội phạm
Vai trò của lỗi còn được nâng lên thành nguyên tắc luật định, đó chính là nguyên tắc có
lỗi. Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
nguy hiểm cho xã hội của mình và về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra.
Nếu không có lỗi thì chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, cho dù hành vi đó đã gây
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong nhiều trường hợp lỗi vô ý có vai trò trực tiếp xác định
tội phạm, có nghĩa rằng lỗi vô ý là một yếu tố không thể thiếu được trong cấu thành tội phạm
đó, chỉ với lỗi vô ý thì hành vi mới cấu thành tội phạm. Trong tổng số 272 cấu thành tội phạm
tại Bộ luật hình sự hiện hành, có 20 cấu thành tội phạm thể hiện rõ dấu hiệu lỗi cố ý hay lỗi
vô ý, trong đó có 8 cấu thành tội phạm được mô tả là lỗi vô ý.
1.3.1.2. Vai trò định tội danh của lỗi vô ý
Quá trình định tội danh thường có ba giai đoạn, vai trò của lỗi vô ý trong từng giai đoạn
này là khác nhau:
- Đầu tiên, người tiến hành tố tụng phải làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng nhất của
hành vi. Khi đó, vấn đề tiên quyết cần phải trả lời đó là: hành vi đang được xem xét có dấu
hiệu tội phạm hay không? Vì vậy, dấu hiệu lỗi trong giai đoạn này đóng một vai trò quan
trọng, đối với những hành vi thể hiện rõ ràng thái độ của người thực hiện là cố ý thì chúng ta
chuyển sang giai đoạn thứ hai. Còn lại, chúng ta phải xác định rõ hành vi đó là cố ý hay vô ý,
tránh nhầm lần giữa vô ý với không có lỗi, giữa lỗi hình sự với lỗi hành chính, lỗi dân sự. Từ
đó kết luận hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật hành
chính, pháp luật dân sự.
- Nếu hành vi đó có dấu hiệu của tội phạm thì trong giai đoạn thứ hai, người tiến hành tố
tụng phải xác định được hành vi thuộc loại tội nào trong bộ luật hình sự. Xác định rõ tội phạm
này là tội do lỗi cố ý hay vô ý.
- Trong giai đoạn thứ ba, người tiến hành tố tụng phải chỉ rõ cấu thành tội phạm nào được
áp dụng đối với hành vi đang xem xét: cấu thành tội phạm cơ bản, tăng nặng hay đặc biệt tăng
nặng của một điều luật, xác định xem có hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra không? người
thực hiện hành vi cố ý hay vô ý gây ra hậu quả đó? Để từ đó xác định đúng cấu thành tội
phạm cần áp dụng.
1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt
1.3.2.1. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quy định hình phạt
Vai trò của lỗi nói chung và của lỗi vô ý nói riêng đối với việc quy định hình phạt thể
hiện trước hết ở phương diện lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng, là cơ sở gián tiếp để quy
định hình phạt trong luật hình sự, bởi lẽ như đã trình bày ở phần 1.3.1.1 lỗi nói chung và lỗi
vô ý nói riêng là một yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm thì phải có lỗi, không có lỗi sẽ
không có tội phạm.
1.1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý trong việc quyết định hình phạt
Nếu so sánh những hành vi phạm tội gây hậu quả giống nhau trong điều kiện, hoàn cảnh
như nhau thì hành vi được thực hiện do lỗi cố ý thường được nhà làm luật quy định có tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi do lỗi vô ý và hình phạt áp dụng đối với
tội do lỗi cố ý cũng nghiêm khắc hơn.
Các hình thức của lỗi vô ý cũng có vai trò trong việc quyết định hình phạt công bằng, hợp
lý và đúng pháp luật. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các điều kiện giống nhau thì tội phạm
được thực hiện do lỗi vô ý vì quá tự tin nguy hiểm hơn tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý do
6
cẩu thả. Và hình phạt áp dụng đối với tội do lỗi vô ý vì quá tự tin sẽ nặng hơn tội do lỗi vô ý
do cẩu thả.
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ Nhà nước
phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)
Pháp luật hình sự thời kỳ này có đề cập đến hình thức lỗi vô ý nhưng không nhắc đến
khái niệm của nó và không quy định tội nào thực hiện với lỗi vô ý mà chỉ quy định về sự phân
hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong một số trường hợp phạm tội do lỗi vô ý, trong đó
trách nhiệm hình sự đối với tội do lỗi cố ý nặng hơn so với lỗi vô ý.
Tiếp đó là Bộ luật Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Bộ luật Gia Long. Giống như pháp
luật hình sự nhà Lê, pháp luật hình sự nhà Nguyễn cũng đề cập đến các loại tội với lỗi cố ý và
vô ý, trách nhiệm hình sự đối với các loại tội do lỗi cố ý được quy định nặng hơn đối với các
loại tội với lỗi vô ý.
2.1.2. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
Định nghĩa pháp lý về lỗi, lỗi vô ý chưa được chính thức ghi nhận trong văn bản luật hình
sự. Các quy định liên quan đến lỗi vô ý không được tập hợp một cách thống nhất, chúng nằm
rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí cả ở văn bản pháp luật phi hình sự. Đáng
chú ý là trong báo cáo tổng kết có tính chất hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của ngành Tòa
án đã có sự phân biệt vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.
2.1.3. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể từ khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Định nghĩa pháp lý của các hình thức lỗi vô ý lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại
Điều 10 Bộ luật hình sự năm 1985. Và với hơn 20 điều luật về tội phạm do lỗi vô ý ở Phần
các tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985 đã phần nào thể hiện được một cách hệ thống các tội
do lỗi vô ý cần được điều chỉnh tại thời điểm lúc bấy giờ.
2.2. Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành
2.2.1. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành
Trước tiên các hình thức lỗi vô ý được quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự hiện hành.
Theo đó, căn cứ vào yếu tố lý trí và ý chí, lỗi vô ý được chia thành hai hình thức lỗi vô ý vì
quá tự tin (Khoản 1 Điều 10) và lỗi vô ý do cẩu thả (Khoản 2 Điều 10).
Ngoài ra, lỗi vô ý còn được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp ở các điều luật khác tại Phần
chung của Bộ luật hình sự như: khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự); tuổi
chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 2 Điều 12); tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Khoản 1 Điều
49); giai đoạn phạm tội (Điều 17); đồng phạm (Khoản 1 Điều 20); không tố giác tội phạm
(Khoản 1 Điều 22);
2.2.2. Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
Thứ nhất, trong tổng số 24 chương trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, chỉ có 7
chương quy định các tội phạm thực hiện bằng lỗi vô ý. Trong tổng số 272 điều luật về tội
phạm thì cũng chỉ có 51 điều luật quy định tội phạm vô ý, chiếm tỷ lệ 18,8%.
Thứ hai, tỷ lệ số khung hình phạt của tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý trên tổng số
khung hình phạt trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự chiếm tỷ lệ thấp là 20,4%, cao nhất
vẫn là chương XIX quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (chiếm 55,6%
của chương đó).
7
Thứ ba, nhìn chung Bộ luật hình sự hiện hành đã có những bước phát triển đáng kể về
mặt lập pháp so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi xây dựng các quy phạm có liên quan đến
lỗi vô ý.
Thứ tư, đa số cấu thành tội phạm cơ bản của các tội do lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện
hành đều được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm vật chất.
Thứ năm, các tội do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định về dấu
hiệu lỗi vô ý dưới nhiều cách thức khác nhau.
Thứ sáu, hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong tội do lỗi cố ý thường thấp hơn
hậu quả được nêu trong tội do lỗi vô ý.
Thứ bảy, dấu hiệu lỗi vô ý không những được thể hiện ở cấu thành tội phạm cơ bản mà nó
còn được quy định trong các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc đặc biệt tăng nặng trách
nhiệm hình sự và khoa học luật hình sự gọi là “hỗn hợp lỗi”.
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi
vô ý
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự là mới chỉ đề cập đến khái niệm của các
hình thức lỗi vô ý mà chưa quy định được khái niệm chung về lỗi vô ý. Và quy định này cũng
chỉ dừng lại ở việc mô tả các cấu trúc tâm lý của những trường hợp có lỗi vô ý mà không nêu
được bản chất chung của chúng.
Thứ hai, Phần chung Bộ luật hình sự không có quy phạm nào khẳng định rứt khoát về
nguyên tắc phải có dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm được quy định trực tiếp trong
Bộ luật hình sự thì hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện do lỗi vô ý tương ứng với
các điều luật đó mới bị coi là tội phạm.
Thứ ba, số lượng điều luật trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự có quy định trực tiếp,
rõ ràng dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm là không nhiều.
Thứ tư, Bộ luật hình sự hiện hành đang tồn tại tình trạng quy định ghép hai hình thức lỗi
khác nhau vào trong một cấu thành tội phạm cơ bản của cùng một điều luật, cùng một khung
hình phạt.
Thứ năm, việc mô tả dấu hiệu lỗi vô ý trong cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự còn
chung chung, không rõ ràng, không thống nhất theo một hình thức nhất định.
Thứ sáu, một số tội danh do lỗi vô ý trong Phần các tội phạm đang có sự nhầm lẫn trong
việc quy định dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Cụ thể, trong vài trường hợp, dấu hiệu
hậu quả của tội do lỗi vô ý lại được quy định với mức cao hơn dấu hiệu hậu quả của tội do lỗi
cố ý.
Thứ bảy, Bộ luật hình sự chưa có khái niệm “hỗn hợp lỗi”.
Thứ tám, có những tội danh nhà làm luật chỉ quy định về hành vi được thực hiện đối với
lỗi cố ý mà không quy định về lỗi vô ý.
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
3.1. Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010
Về tổng số vụ án do lỗi vô ý được xét xử: trong sáu năm trở lại đây (2005 – 2010) tội
phạm do lỗi vô ý được phát hiện và đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vụ án được
đưa ra xét xử (chỉ chiếm khoảng 9,53%) và có xu hướng giảm dần nhưng không nhiều (năm
2005 có 5573 vụ, năm 2010 có 5513 vụ).
8
Về cấu trúc các loại tội phạm do vô ý bị đưa ra xét xử: chiếm đa số trong tổng các vụ án
về tội do lỗi vô ý được đưa ra xét xử trong sáu năm vừa qua (2005 – 2010) là tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202) - chiếm 94,61%, tiếp đó là
tội vô ý làm chết người (Điều 98) - chiếm 1,43%, tội vi phạm quy định về điểu khiển phương
tiện giao thông đường thủy (Điều 212) - chiếm 1,32%, còn lại các tội vô ý khác chỉ chiếm
2,64%.
Đối với việc chứng minh lỗi vô ý trong vụ án hình sự, trong thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử thường xảy ra nhầm lẫn giữa lỗi vô ý vì quá tự tin với lỗi vô ý do cẩu thả dẫn đến
việc không thấy được tính nguy hiểm ở mức cao hơn do lỗi vô ý vì quá tự tin; nhầm lẫn
giữa lỗi vô ý vì quá tự tin với lỗi cố ý gián tiếp dẫn đến việc định tội danh sai giữa tội do lỗi
vô ý và tội do lỗi cố ý; hoặc nhầm lẫn giữa lỗi vô ý với trường hợp không có lỗi dẫn đến
việc định tội danh oan cho người thực hiện hành vi.
3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý đối với
các loại tội phạm cụ thể
3.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội vô ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XII Bộ luật
hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng số vụ án đưa ra xét
xử về các tội vô ý trong Chương XII Bộ luật hình sự là 632 vụ (chiếm tỷ lệ 0,17%) và tổng số
bị cáo là 722 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,11%). Tỷ lệ này cao nhất vào năm 2010 với 0,21% số vụ án
và 0,14% số bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị cáo được đưa ra xét xử về tội vô ý làm chết người
(Điều 98) là nhiều nhất, có 502 vụ và 584 bị cáo, đã xét xử 420 vụ và 481 bị cáo, trả lại hồ sơ
cho Viện kiểm sát là 56 vụ và 72 bị cáo.
Việc định tội danh của loại tội này thường có một số sự nhầm lẫn:
Thứ nhất, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với các tội gây hậu quả chết người
nhưng lại vi phạm các quy tắc an toàn trong một số lĩnh vực cụ thể khác.
Thứ hai, nhầm lẫn giữa tội vô ý làm chết người với tội do lỗi cố ý có cấu thành tội phạm
tặng nặng với tình tiết “làm chết người”.
3.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm
vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì tổng số vụ án đưa ra xét
xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XIV Bộ luật hình sự là 90 vụ (chiếm tỷ lệ 0,02%) và tổng
số bị cáo là 177 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,03%). Số lượng vụ án cao nhất là năm 2006 với 23 vụ và
45 bị cáo, thấp nhất là năm 2007 với 9 vụ và 13 bị cáo. Trong đó, số vụ án và số bị cáo được
đưa ra xét xử về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước
(Điều 144) là nhiều nhất, gồm 58 vụ, chiếm 64,44%, đã xét xử 33 vụ và 62 bị cáo, trả lại hồ
sơ cho Viện kiểm sát là 18 vụ và 52 bị cáo.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản của Nhà nước còn tồn tại, đó là: người thực hiện hành vi đã làm hết trách nhiệm nhưng
thiệt hại về tài sản vẫn xảy ra, khi đó họ vẫn bị coi là phạm tội này.
3.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm
vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử trong giai đoạn năm 2005 2010, thì tổng số vụ án đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong Chương XIX Bộ luật hình sự là
34326 vụ (chiếm tỷ lệ 9,31%) và tổng số bị cáo là 35891 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,65%). Tỷ lệ
này cao nhất vào năm 2007 với 10,12% số vụ án và 6,23% số bị cáo. Trong đó số vụ án và số
bị cáo được đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ (Điều 202) là nhiều nhất, gồm 33245 vụ, chiếm 96,85%. Ngược lại, trong sáu năm
qua, một số tội quy định tại Điều 209, 216, 218, 226, 228, 237 không được áp dụng để xét xử
9
một hành vi khách quan nào. Hoặc có những điều luật có thực tiễn xét xử nhưng nhất rất ít
như: Điều 219 được áp dụng một lần vào năm 2006; Điều 222, 234 được áp dụng một lần vào
năm 2005, Điều 239 được áp dụng hai lần vào năm 2008;… Từ đó cho thấy thực tiễn áp dụng
pháp luật các tội do lỗi vô ý tại chương này không đều.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hay có sự nhầm lẫn giữa dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cơ bản tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của loại tội này, nhầm lẫn giữa vi phạm pháp luật hành
chính với vi phạm pháp luật hình sự, nhầm lẫn giữa lỗi hành chính với lỗi hình sự.
Ngoài ra, trong thực tiễn áp dụng còn tồn tại trường hợp “lỗi từ hai phía”- là khi xuất hiện
hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây ra hậu quả
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, nhưng hậu quả này xảy ra có một
phần lỗi của người bị hại.
3.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm
vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XX Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử từ năm 2005 đến 2010 chỉ có
1 vụ án (chiếm tỷ lệ 0,0003%) và 1 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,0002%) được đưa ra xét xử về tội do
lỗi vô ý trong Chương XX Bộ luật hình sự (rất ít so với các Chương khác). Đó là vụ án được
đưa ra xét xử với tội danh: vô ý làm lộ bí mật Nhà nước (Điều 264), chiếm tỷ lệ 0,0016% trên
tổng số vụ án của năm 2007. Vụ án này đã được xét xử và không bị trả lại hồ sơ cho Viện
kiểm sát.
3.2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm
về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý (Chương XXI Bộ luật hình sự)
Tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì có 124 vụ án (chiếm tỷ lệ
0,034%) và 321 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,051%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong
Chương XXI Bộ luật hình sự. Các vụ án đều được đưa ra xét xử với tội danh: thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), không có vụ nào được đưa ra xét xử với tội danh
vô ý làm lộ bí mật công tác (Điều 285) hoặc tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287).
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hay bị
nhầm lẫn với các tội danh khác như: tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản của Nhà nước (Điều 144), tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ
hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 235), hoặc tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ
trốn (Điều 301).
3.2.6. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm
vô ý xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì chỉ có 6 vụ án (chiếm tỷ
lệ 0,002%) và 8 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,001%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong
Chương XXII Bộ luật hình sự. Các vụ án này đều được đưa ra xét xử với tội danh: thiếu trách
nhiệm để người giam, giữ bị trốn (Điều 301). Số lượng các vụ án này tăng giảm không đều.
Năm 2006 và 2010 không có tội do lỗi vô ý nào thuộc chương này bị đưa ra xét xử.
Điều 301 thực chất là quy định hai tội khác nhau xuất phát từ đối tượng tác động của hành
vi khách quan, đó là: tội thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn và tội thiếu trách nhiệm để
người bị giữ trốn. Tuy nhiên, chủ thể áp dụng pháp luật thường hay nhầm lẫn về việc định tội
danh: người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam trốn hoặc
để người bị giữ trốn nhưng lại xác định tội danh của họ là phạm tội “thiếu trách nhiệm để
người bị giam, giữ trốn”.
3.2.7. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về các tội do lỗi
vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân (Chương XXIII Bộ luật hình sự)
Trong tổng số 368761 vụ án và 634874 bị cáo đưa ra xét xử, thì chỉ có 4 vụ án (chiếm tỷ
lệ 0,0003%) và 4 bị cáo (chiếm tỷ lệ 0,0002%) được đưa ra xét xử về tội do lỗi vô ý trong
10
Chương XXIII BLHS. Các vụ án này đều được đưa ra xét xử với tội danh: tội vi phạm các
quy định về sử dụng vũ khí quân dụng (Điều 333 BLHS). Năm 2006 và 2007 không phải xét
xử vụ nào thuộc chương này (xem phụ lục 13).
3.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định
về tội vô ý theo Bộ luật hình sự hiện hành
Thứ nhất, do có sự chưa hoàn thiện của BLHS quy định về các tội phạm vô ý như đã trình
bày ở Mục 2.3. của Chương 2.
Thứ hai, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật của cỏc cơ quan cú thẩm quyền cũn
hạn chế, khụng kịp thời.
Thứ ba, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xét xử và áp dụng cỏc
quy định về lỗi vụ ý trong BLHS, trước hết thuộc về đội ngũ thẩm phán những người có trách
nhiệm chính trong công tác xét xử và giải quyết các vụ án.
Thứ tư, điều kiện, phương tiện làm việc của các tòa án còn thiếu thốn nhiều, chế độ chính
sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nhìn chung còn rất hạn hẹp.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
4.1. Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi
vô ý
4.1.1. Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành về lỗi vô ý
4.1.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
Thứ nhất, sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội làm cho các quan hệ quốc tế ngày
càng mở rộng.
Thứ hai, yêu cầu chung của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Bộ
luật hình sự hiện hành.
Thứ ba, từ thực tiễn xét xử cho thấy Bộ luật hình sự hiện hành còn nhiều bất cập trong
việc quy định các quy phạm liên quan đến lỗi vô ý.
4.1.1.2. Những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý
Thứ nhất, chỉ nên sửa đổi, bổ sung những nội dung cấp thiết, không còn phù hợp với sự
phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, bảo đảm tính khả thi và sự thống nhất của Bộ luật
hình sự với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải được quán triệt và
thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Thứ ba, các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến lỗi vô ý phải đảm bảo được tính hiệu
quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi
vô ý
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 10 Bộ luật hình sự hiện hành.
Thứ hai, khi một số tội danh không được quy định hình thức lỗi vô ý trong điều luật
nhưng thực tiễn xét xử vẫn đang áp dụng nó như là tội do lỗi vô ý thì chúng tôi kiến nghị cần
11
phải quy định rõ ngay trong tên gọi và trong cấu thành tội phạm của tội đó để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng Bộ luật hình sự trên thực tế.
Thứ ba, trường hợp một số điều luật trong Bộ luật hình sự quy định hai dấu hiệu lỗi khác
nhau vào cùng một cấu thành tội phạm cơ bản thì nhà làm luật nên tách thành hai tội độc lập,
mỗi tội tương ứng với một dấu hiệu lỗi, đồng thời quy định mức hình phạt phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội.
Thứ tư, những tội danh quy định chung chung, trừu tượng, không cụ thể dấu hiệu lỗi vô ý
trong cấu thành tội phạm hoặc giữa các cấu thành tội phạm chưa có sự thống nhất về cách mô
tả dấu hiệu lỗi này của hành vi khách quan thì nhà làm luật nên quy định thật rõ ràng, thống
nhất các hình thức lỗi trong từng điều luật.
Thứ năm, khi hậu quả của tội do cố ý lại lớn hơn hậu quả của tội do vô ý, chúng tôi kiến
nghị rằng nên thay đổi mức thiệt hại của một trong hai loại tội sao cho hành vi nào có tính
chất nguy hiểm hơn thì phải quy định mức độ thiệt hại thấp hơn.
Thứ sáu, về “hỗn hợp lỗi” thì nhà làm luật nên chăng xây dựng thêm một điều luật về khái
niệm, trách nhiệm hình sự liên quan đến vấn đề này.
Thứ bảy, một số tội trong Bộ luật hình sự chỉ được quy định với hình thức lỗi cố ý mà
không quy định hình thức lỗi vô ý. Chúng tôi kiến nghị rằng nên bổ sung quy định hành vi
này được thực hiện do lỗi vô ý cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
4.2.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
4.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách
nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán
Tòa án cấp huyện
4.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách
nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán
Tòa án cấp huyện
4.2.3. Tăng cường sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự với nước ngoài
KẾT LUẬN
Trải qua gần 12 năm áp dụng, BLHS hiện hành đã dần đi vào cuộc sống của nhân dân và
thực sự phát huy tác dụng, thể hiện là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức.
Để thực sự là cán cân pháp lý, phân định rõ ràng giữa tội phạm và phi tội phạm, từ đó đưa
ra những chính sách pháp luật hình sự một cách đúng đắn nhất thì BLHS đã và đang được xây
dựng, hoàn thiện dựa trên những nguyên tắc tiến bộ nhất mà pháp luật thế giới công nhận.
Một trong những nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc TNHS trên cơ sở có lỗi. Thừa nhận
nguyên tắc này chính là thừa nhận, tôn trọng quyền tự do của con người. Ở mức độ đáng kể,
lỗi cho thấy tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đồng thời nó góp phần cá thể hóa
TNHS. Do đó, việc phân loại lỗi thành lỗi cố ý và lỗi vô ý là cần thiết để làm cơ sở pháp lý
cho việc định tội danh, quyết định hình phạt một cách chính xác, công bằng và hợp lý. Ngoài
ra, việc xác định chính xác lỗi vô ý vì quá tự tin hay vô ý do cẩu thả có vai trò quan trọng
trong việc quyết định hình phạt. Bởi vì, trong những điều kiện, hoàn cảnh như nhau, phạm tội
do lỗi vô ý vì quá tự tin phải được đánh giá là nguy hiểm hơn so với phạm tội với lỗi vô ý do
cẩu thả.
12
Với 272 điều luật trong Phần các tội phạm, thì BLHS đã có 51 điều luật quy định về tội
do lỗi vô ý và rất nhiều điều luật quy định CTTP tăng nặng, đặc biệt tăng nặng liên quan đến
dấu hiệu lỗi vô ý. Mặc dù được quy định bằng rất nhiều cách thức khác nhau nhưng các điều
luật này đã phần nào thể hiện được mục đích, nhiệm vụ của BLHS, góp phần không nhỏ vào
việc giữ vững an ninh trật tự xã hội nói chung.
Thực tiễn xét xử trong vòng sáu năm trở lại đây (2005-2010) cho ta thấy, tội phạm do lỗi
vô ý được phát hiện và đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vụ án được đưa ra xét xử
(chỉ chiếm khoảng 9,53%) và có xu hướng giảm dần. Trong đó, chiếm đại đa số là các tội do
lỗi vô ý thuộc chương Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (khoảng 95%
trên tổng các tội do lỗi vô ý). Theo bản báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của ngành
Tòa án thì nhìn chung Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế, văn hóa và xã hội và qua thực tiễn áp dụng,
BLHS đã và đang bộc lộ những hạn chế nhất định. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan đã làm cho hiệu quả áp dụng của BLHS chưa được cao. Do vậy, chúng ta cần phải
nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức trong việc áp dụng đúng các quy định của pháp
luật hình sự, đồng thời, phải nhanh chóng hoàn thiện BLHS nói chung và các quy định của Bộ
luật về lỗi vô ý nói riêng. Xóa bỏ tình trạng áp dụng, xét xử oan, sai hoặc không công bằng
đối với người phạm tội.
Xuất phát từ những yêu cầu trên đây, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan tâm hơn nữa tới
công tác bảo vệ pháp luật hình sự. Có những chính sách hợp lý nhằm kiện toàn bộ máy của cơ
quan tiến hành tố tụng, nâng cao cơ sở vật chất, tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho các cơ quan
này. Đảm bảo các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự có tội phạm do lỗi vô ý nói riêng
được giải quyết một cách triệt để, góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, tạo điều kiện cho đất
nước phát triển ngày càng vững mạnh, phồn vinh.
References
1.
X.X A-lếch-xây-ép (1986), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, (Đồng Ánh Quang
dịch), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
2.
Nguyễn Văn Báu (2000), Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
3.
Phạm Văn Beo (2009), "Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ (Quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm)", Tòa án nhân dân,
(23).
4.
Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa và
NXB Tư pháp, Hà Nội.
5.
Lê Cảm (1998), "Hoàn thiện chế định lỗi trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành: Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn", Tòa án nhân dân, (12).
6.
Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền (Một số vấn đề cơ bản của Phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
7.
Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật Hình sự (tập I), Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
8.
Lê Cảm (2004), "Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện pháp
luật hình sự Việt Nam", Tòa án nhân dân, (11).
9.
Lê Cảm (2004), "Lý luận về cấu thành tội phạm trong khoa học luật hình sự", Luật học,
(2).
13
10. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Cảm (2005), "Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (trên cơ sở Bộ
luật hình sự)", Tạp chí Tòa án nhân dân, (7).
12. Lê Cảm (2005), "Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm (trên cơ sở Bộ
luật hình sự)", Tạp chí Tòa án nhân dân, (8).
13. Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
14. Lê Đăng Doanh (1999), Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
15. Lê Đăng Doanh (2008), "Một số bất cập trong quy định về các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế trong Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân, (6).
16. Vũ Phúc Du (2006), Hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
17. Lê Duẩn (1963), Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/2002/NQ-TW ngày 02/1 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/02 về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW ngày 06/5 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
22. Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
23. Đỗ Đức Hồng Hà (2006), "Việc định tội danh đối với các trường hợp phạm tội gây hậu
quả chết người", Kiểm sát, (20).
24. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa , Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
25. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
26. Nguyễn Ngọc Hòa (1997), Luật hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Nguyễn Ngọc Hòa (2006), "Kĩ thuật xây dựng cấu thành tội phạm và việc hoàn thiện Bộ
luật hình sự", Tòa án nhân dân, (4).
28. Nguyễn Ngọc Hòa (2008), (2010), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
29. Hoàng Việt Luật lệ (1994), Nxb Văn hoá - Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Phạm Thị Hồng (1997), Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến
sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
14
31. Phạm Quang Huy (2002), Ranh giới giữa tội phạm và không phải tội phạm trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
32. Khoa Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình triết học
Mác - Lênin - Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
33. Kudriavtxev VN (1972), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Pháp lý, Matxcơva.
34. Phạm Văn Lãng (2009), "Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của
nhà nước trong hoạt động ngân hàng", Ngân hàng, (19).
35. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 3, NXB Tiến bộ, Maxcowva.
36. Nguyễn Quang Lộc (2009), "Có cần xử lý Nguyễn Văn A về tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không?", Tòa án nhân dân, (15).
37. Lê Văn Luật (2005), "Nguyên tắc lỗi trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ", Tòa án nhân dân, (6).
38. Minh Lương (2009), "Một số ý kiến về việc sửa đổi Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân,
(2).
39. Nguyễn Đức Mai (2008), "Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm", Luật học, (7).
40. Nguyễn Đức Mai (2009), "Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật
tự an toàn giao thông đường bộ", Tòa án nhân dân, (22).
41. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - xã hội, Hà
Nội.
42. Hồ Chí Minh (2009), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
43. Nguyễn Trọng Nghĩa (2008), "Trần Văn B phạm tội thiếu trách nhiệm để người bị giam
trốn", Tòa án nhân dân, (2).
44. Đào Bảo Ngọc (2002), Vấn đề lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam và ý nghĩa của nó
trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
45. Cao Thị Oanh (2002), "Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm", Tạp chí Luật học, (2), tr.
32-38.
46. Cao Thị Oanh (2003), "Phân loại cấu thành tội phạm và một số vấn đề trách nhiệm hình
sự", Luật học, (4).
47. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập I) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập II) Các tội xâm phạm sở hữu, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
49. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập V) Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập VII) Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
15
51. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập VIII) Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính, các tội phạm về môi trường, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm (tập X) Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh.
53. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
54. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
55. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
56. Quốc hội (2008), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội.
57. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
58. Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phạm Thái Quý (2008), "Những trăn trở từ thực tiễn xét xử các vụ án về tai nạn giao
thông đường bộ", Tòa án nhân dân, (22).
60. Ngọ Duy Thi (2008), Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
61. Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
62. Trần Quang Tiệp (1999), "Một số vấn đề lỗi trong luật hình sự", Nhà nước và pháp luật,
(11).
63. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
64. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác năm 2003 và phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 2004 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
65. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 2006 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
66. Tòa án nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 2008 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
67. Tòa án nhân dân tối cao (2009), Dự thảo Đề án thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa
án phúc thẩm, Tòa án thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
tối cao, Hà Nội.
68. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo tổng kết công tác năm 2009 và phương hướng
nhiệm vụ công tác năm 2010 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
69. Trịnh Quốc Toản (2009), Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
70. Trịnh Quốc Toản (2010), "Những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sụng
trong Bộ luật hình sự và nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dung",
Khoa học, (26).
71. Trung tâm Từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
72. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập I), Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
16
73. Nguyễn Văn Tùng (2000), "Việc áp dụng Điều 144 Bộ luật hình sự", Tòa án nhân dân,
(6).
74. Đào Trí Úc (1999), "Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về trách nhiệm cá
nhân và về lỗi trong việc xử lý trách nhiệm hình sự", Nhà nước và pháp luật, (9).
75. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
76. A.A. Xmiecnốp (1975), Tâm lý học, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17
- Xem thêm -