Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số kinh nghiệm dạy ngoại khóa cho học sinh trường ptdtbt thcs xuân lẹ về vấn...

Tài liệu Một số kinh nghiệm dạy ngoại khóa cho học sinh trường ptdtbt thcs xuân lẹ về vấn đề biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu

.DOC
22
101
52

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY NGOẠI KHÓA CHO HỌC SINH TRƯỜNG PTDTBT THCS XUÂN LẸ VỀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Người thực hiện: Hồ Văn Lâm Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường PTDTBT THCS Xuân Lẹ SKKN thuộc môn: Sinh học THANH HÓA NĂM 2019 1 MỤC LỤC 1. Mở đầu...............................................................................................Trang 2 1.1. Lí do chọn đề tài ............................................................................Trang 2 1.2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................Trang 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................Trang 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................Trang 2 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm...................................Trang 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm......................................................Trang 3 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.........................................Trang 3 2.2. Thực trạng của vấn đề...................................................................... Trang 4 2.3. Giải pháp thực hiện..........................................................................Trang 5 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ..............................................Trang 18 3. Kết luận, kiến nghị ...........................................................................Trang 12 3.1. Kết luận............................................................................................Trang 18 3.2. Kiến nghị………. …………............................................................Trang 19 CÁC TỪ VIẾT TẮT - THCS Trung học cơ sở - GV Giáo viên - HS Học sinh 1 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Biến đổi khí hậu trong những năm gần đây đã và đang là vấn đề nhức nhối ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Biến đổi khí hậu gây nhiều thiệt hại về người và tài sản, gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan không theo quy luật. Theo một nghiên cứu của Liên Hợp Quốc, biến đổi khí hậu đã làm thiệt hại cho kinh tế Thế giới ước tính đến 300 tỷ USD mỗi năm. Cụ thể, có đến 90% số vụ thảm họa toàn cầu có nguyên nhân bắt nguồn từ thời tiết. Có đến 606.000 người đã thiệt mạng do các thảm họa về thời tiết gây nên trong vòng hơn 20 năm qua, cùng với 4,1 tỷ người khác đang bị thương, phải bỏ nhà cửa đi sơ tán, đang trong tình trạng cần viện trợ khẩn cấp. Lũ lụt và hạn hán gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản, mất mùa gây ra nạn đói nghèo, ô nhiễm môi trường nặng nề, gây ra dịch bệnh. Hiện tại đã có tài liệu nghiên cứu vấn đề này nhưng vẫn chưa cụ thể vào từng bài dạy mà vẫn còn chung chung, hoặc khi áp dụng vẫn còn khó khăn vì thực tế giảng dạy vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó trong quá trình giảng dạy tôi đã tích hợp vấn đề trên và đúc rút ra một số kinh nghiệm giảng dạy ngoại khóa cho học sinh trường PTDBT THCS Xuân Lẹ về vấn đề Biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu. 1.2. Mục đích nghiên cứu Thấy được vai trò của vấn đề trên Tôi đã “Nghiên cứu và ứng dụng đưa nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào giảng dạy môn học ở cấp Trung học cơ sở” giúp học sinh nắm được tính cấp thiết của việc ứng phó với biến đổi khí hậu và bản thân các em có hành động cụ thể để ứng phó với biến đổi khí hậu. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Trong năm học 2017- 2018 Tôi đã áp dụng tài liệu vào giảng dạy đặc biệt đã rút ra một số kinh nghiệm khi giảng dạy ngoại khóa cho học sinh trường PTDTBT THCS Xuân Lẹ về vấn đề Biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu. 1.4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế - Phương pháp thu thập thông tin - Phương pháp thống kê 2 - Phương pháp xử lí thông tin 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Từ khi tôi áp dụng đề tài này vào trong thực tiễn giảng dạy (bắt đầu từ năm học 2017-2018) tôi thấy kết quả học tập, và ý thức của học sinh về bảo vệ môi trường được nâng cao. Nội dung đề tài mới, ít người áp dụng vào hoạt động dạy học ngoài giờ lớp, mang lại hiệu quả giáo dục ý thức cao cho học sinh 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.1.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế – xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người. 2.1.2. Những biểu hiệu của sự biến đổi khí hậu - Sự nóng lên của trái đất: Nhiệt độ không khí của trái đất đang nóng dần lên, từ năm 1850 đến nay nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74 0C, trong đó nhiệt độ tại 2 cực của trái đất tăng gấp 2 lần so với số liệu trung bình toàn cầu; và theo dự báo nhiệt độ trung bình của trái đất có thể tăng lên 1,1 - 6,4 0C tới năm 2100, đạt mức chưa từng có trong lịch sử 10.000 năm qua. Ở Việt Nam trong vòng 50 năm (1957 - 2007) nhiệt độ không khí trung bình tăng khoảng 0,5 - 0,70C, sẽ tăng từ 1 - 2 0C vào năm 2020 và từ 1,5 - 2 0C vào năm 2070. - Sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn ở các vùng thấp ven biển và xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương. Ở Việt Nam, tốc độ dâng lên của mực nước biển khoảng 3mm/năm (giai đoạn 1993 - 2008) tương đương với tốc độ dâng lên của đại dương thế giới. Dự báo đến giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 30cm và đến cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng lên 75cm so với thời kỳ 1980 - 1999. - Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên Trái Đất. - Sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ lớn như bão, mưa lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và tài sản. - Tại xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân khí hậu đã biến đổi so với trước đây như: nhiệt độ tăng 1-2 độ C so với 5 năm trước, gây ra các hiện tượng sạt lở 3 đất, nước và đất đá sói mòn làm ngập ruộng vườn diễn ra hằng năm vào mùa mưa... 2.1.3. Đặc điểm của biến đổi khí hậu toàn cầu - Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, không thể đảo ngược được; - Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực có liên quan đến sự sống và hoạt động của con người; - Cường độ ngày một tăng, hậu quả ngày càng nặng nề và khó lường trước; - Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên trong lịch sử phát triển của mình. 2.1.4. Nguyên nhân của biến đổi khí hậu Gồm có 2 nguyên nhân. - Nguyên nhân khách quan (do sự biến đổi của tự nhiên) bao gồm: sự biến đổi các hoạt động của mặt trời, sự thay đổi quỹ đạo trái đất, sự thay đổi vị trí và quy mô của các châu lục, sự biến đổi của các dạng hải lưu, và sự lưu chuyển trong nội bộ hệ thống khí quyển. - Nguyên nhân chủ quan (do sự tác động của con người) xuất phát từ sự thay đổi mục đích sử dụng đất và nguồn nước và sự gia tăng lượng phát thải khí CO2 và các khí nhà kính khác từ các hoạt động của con người. 2.2. Thực trạng của vấn đề * Về phía giáo viên Để thực hiện có hiệu quả việc tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với biến đổi khí hậu giáo viên cần xác định: - Mục tiêu. - Nguyên tắc. - Nội dung, phương pháp, hình thức. - Địa chỉ. Tuy nhiên dù giáo dục nội dung nào trong giảng dạy người giáo viên cũng phải thực hiện nghiêm túc kiến thức cơ bản của môn học, không kéo dài thời gian trên lớp và làm nặng nề giờ học. Theo cấu trúc chương trình sách giáo khoa Sinh học nói chung phần có liên quan tới môi trường thường đưa vào mục cuối của bài nên người giáo viên hay chú tâm vào những nội dung chính của bài, nếu còn thời gian mới liên hệ đến phần cuối hoặc bỏ qua phần liên hệ thực tế cho các em. * Về phía học sinh. - Hiện nay đa số học sinh THCS chưa có kỹ năng thu nhận thông tin từ mọi phương tiện làm vốn kiến thức để vận dụng kiến thức thực tế vào bài học. 4 - Ít được tiếp xúc với thực tế nên chưa đánh giá hết mức độ ứng phó với biến đổi khí hậu. - Bản thân một số học sinh là đối tượng trực tiếp ứng phó với biến đổi khí hậu.` 2.2.1. Sự nóng lên của Trái Đất - Nhiệt độ tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái tự nhiên, làm suy giảm đa dạng sinh học, làm ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm vật nuôi, cây trồng. - Sự thay đổi và chuyển dịch của các đới khí hậu, đới thảm thực vật tự nhiên dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật. - Nhiệt độ tăng dần đến sự thay đổi các yếu tố thời tiết khác phá hoại mùa màng, có ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, công nghiệp, du lịch... - Con người có thể tận dụng những hệ quả của sự nóng lên của Trái Đất 2.2.2. Tác động của nước biển dâng - Làm tăng diện tích ngập lụt có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, các đô thị, các công trình xây dựng giao thông vận tải cũng như nơi cư trú của con người; đặc biệt ở các vùng đồng bằng ven biển. - Làm tăng độ nhiễm mặn nguồn nước, làm thay đổi các hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái nông nghiệp. 2.2.3. Làm tăng cường các thiên tai - Bão, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán xảy ra bất thường và có sức tàn phá lớn. - Xuất hiện các đợt nóng, lạnh quá mức, bất thường gây tổn hại đến sức khỏe con người, gia súc và mùa màng. - Tình trạng hoang mạc hóa có xu hướng gia tăng. 2.3. Giải pháp thực hiện Ngoại khoá là hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp, không quy định bắt buộc trong chương trình, là hình thức tổ chức dựa trên sự tự nguyện tham gia của những học sinh có hứng thú, yêu thích bộ môn và ham muốn tìm tòi, sáng tạo các nội dung học tập, dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm bổ sung, củng cố, mở rộng và nâng cao những kiến thức - Kĩ năng bộ môn đã được học trong chương trình nội khoá, đồng thời góp phần giáo dục HS một cách toàn diện. Chính vì vậy hoạt động ngoại khoá được xem là một hình thức dạy học quan trọng, mang lại hiệu quả cao, là một trong những con đường để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (theo Điều 5, khoản 5 2, chương 1 Luật Giáo dục Việt Nam - 2005). Hoạt động ngoại khoá được phân biệt với các hình thức tổ chức dạy học khác bởi những đặc điểm chủ yếu sau : - Là hoạt động ngoài giờ lên lớp, không được quy định trong chương trình nội khoá. - Là hoạt động tự nguyện của cá nhân hay một nhóm học sinh có cùng hứng thú, sở thích và mối quan tâm về một hay nhiều vấn đề nào đó trong nội dung học tập. - GV không trực tiếp hoạt động cùng HS nhưng là người hướng dẫn tổ chức, tư vấn và có thể trong những trường hợp cần thiết còn là người chỉ đạo, điều khiển các hoạt động ngoại khoá của HS. - Nội dung ngoại khoá thường liên quan với nội dung học tập trong chương trình, phù hợp với hoàn cảnh của địa phương và đặc điểm của các đối tượng tham gia hoạt động. - Không bị khống chế về thời gian như trong các bài học chính khoá - Hoạt động dưới các hình thức phong trào tập thể có sự ủng hộ và giúp đỡ của cộng đồng, nhà trường, GV, tổ chức Đoàn - Đội… - Hình thức hoạt động tổ chức theo phương thức lựa chọn. - Không tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả của các hoạt động ngoại khoá bằng các hình thức như trong giờ học nội khoá (như cho điểm) mà nên dựa vào các yếu tố sau: + Sản phẩm của buổi ngoại khoá. + Tính tích cực và tự lực sáng tạo của HS. + Kết quả được đánh giá công khai. + Không cho điểm nhưng phải có hình thức động viên, khích lệ kịp thời như biểu dương, khen thưởng. Ngoại khoá là một hình thức dạy học đặc thù, dựa trên tinh thần tự nguyện chứ không bắt buộc. Do vậy, để hoạt động ngoại khoá thực sự phát huy được vai trò to lớn trước hết phụ thuộc vào hứng thú, sự say mê của HS, sự nhiệt tình và lòng yêu nghề cũng như năng lực tổ chức sáng tạo của người thầy. Trong số các môn học, môn Sinh học là một trong những môn học có thể tổ chức được nhiều hoạt động ngoại khóa với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực. Trong các nội dung có thể tổ chức ngoại khóa thì nội dung về biến đổi khí hậu được quan tâm nhiều nhất. Đây là một nội dung không mới, nhưng không bao giờ là cũ đối với người học. Trước những sự biến đổi khí hậu đang diễn ra hiện nay, việc hình thành cho học sinh những kiến thức, kĩ năng cần thiết, đặc biệt là thái độ ứng xử và hành vi của học sinh là hết sức cần thiết. Qua kinh nghiệm nhiều năm dạy học Tôi xin gợi ý một số hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa và ví dụ minh họa về hoạt động ngoại khóa chủ 6 đề “Biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu” mà giáo viên có thể tham khảo như sau: Hình thức thứ nhất: Báo cáo ngoại khoá về vấn đề Môi trường - Mục tiêu: Giúp cho HS: + Mở rộng hiểu biết về môi trường (tài nguyên thiên nhiên, sự thay đổi của khí hậu, phát triển nông thôn, đô thị hoá bền vững). + Rèn luyện cho HS phương pháp thu thập tài liệu, khả năng diễn đạt bằng lời nói. - Nội dung báo cáo: + Các vấn đề về môi trường trên thế giới, của Việt Nam và ở địa phương. + Các biện pháp bảo vệ môi trường như bảo vệ rừng, bảo vệ đất đai, bảo vệ nguồn nước sạch, xử lí và phân loại rác thải. - Cách thức tiến hành: Người báo cáo có thể là các nhà văn hoá, môi trường hoặc các nhà kinh tế; các thầy cô giáo hoặc giao cho HS tự chuẩn bị. Nếu HS báo cáo, GV có thể hướng dẫn các em thu thập tư liệu từ báo chí, ti vi, mạng Internet, từ thực tế địa phương. Khi tiến hành báo cáo, để hấp dẫn người nghe, báo cáo viên nên chuẩn bị tranh ảnh, băng hình, máy tính, màn chiếu để hỗ trợ cho bài nói. Sau khi nghe báo cáo, GV nên tổ chức cho HS viết thu hoạch về nhận thức cũng như cảm xúc của mình đối với vấn đề được nghe. Hình thức thứ hai: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu môi trường của địa phương, đất nước - Mục tiêu: Giúp cho HS: + Quan tâm đến những vấn đề môi trường, phát triển các ngành nghề ở địa phương. + Phát triển năng lực tiềm ẩn trong các em như khả năng viết, vẽ, sáng tác, tổ chức các hoạt động tập thể. - Nội dung thi: Tìm hiểu thực trạng môi trường và việc phát triển kinh tế ở địa phương. Đây là một hình thức giúp HS thể hiện xúc cảm, thái độ trước những vấn đề môi trường của địa phương. - Thành phần dự thi: Cá nhân, nhóm, đơn vị lớp. - Sản phẩm thi: Thơ ca, nhạc, kịch, tiểu phẩm, tranh vẽ, bài viết… 7 - Thời gian tổ chức thi: Ngày thành lập Đoàn (26/3), Tuần lễ vệ sinh nước sạch và môi trường( 29/4 – 6/5), ngày môi trường thế giới (5/6)… - Lập ban giám khảo đánh giá cuộc thi gồm GV và đại diện các lớp (các chi đoàn). Hình thức thứ ba: Tổ chức nghiên cứu môi trường của địa phương - Mục tiêu: + Rèn luyện cho HS kĩ năng nghiên cứu, điều tra về vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường. - Nội dung nghiên cứu: Tuỳ theo tình hình thực tế của từng địa phương, GV có thể chọn vấn đề và tổ chức cho HS nghiên cứu. Việc nghiên cứu có thể tiến hành theo nhóm trên tinh thần tự nguyện. Mỗi nhóm nghiên cứu một vấn đề và được tiến hành trong suốt năm hoặc theo học kì. Đối với HS miền núi có thể tổ chức cho các em quan sát, điều tra về: + Tình hình xói mòn đất ở địa phương (xác định những nơi gây xói mòn, xác định nguyên nhân và biện pháp phòng chống). + Tình hình cháy rừng: Diện tích rừng bị cháy, thời gian rừng bị cháy, các nguyên nhân gây cháy rừng, biện pháp phòng chống. + Các hệ sinh thái tự nhiên ở vùng đồi - núi: Diện tích, các loài thực vật, các loài động vật, các loại côn trùng và quan hệ giữa chúng với nhau trong hệ sinh thái. Đối với HS đồng bằng, miền núi có thể tổ chức cho các em tìm hiểu, điều tra: + Tình hình lũ lụt: Ghi chép, theo dõi hàng tuần mực nước của một con sông sau cơn mưa to hay bão, vẽ lược đồ các kênh thoát nước. + Ô nhiễm các sông, hồ: Quan sát tình trạng sông ngòi, hồ về màu sắc, độ đục, mức độ xuyên thấu của ánh sáng, các chất thải từ 2 bờ sông đổ vào sông. Phân tích các mẫu nước theo các chỉ số đơn giản (chỉ số vô cơ như độ pH, độ đục, chỉ số hữu cơ như vi sinh vật, tảo). Tìm hiểu xem họ có tắm giặt ở đây không? Có đánh bắt được nhiều cá không? Có đất canh tác ven sông, có các nhà máy xí nghiệp ở gần sông không? Trên cơ sở quan sát, phân tích và tìm hiểu, rút ra nguyên nhân gây ô nhiễm và các biện pháp phòng chống, các hoạt động của HS tham gia vào việc bảo vệ nguồn nước. Đối với HS thành phố có thể nghiên cứu các chủ đề sau: + Rác thải: Khảo sát các hộ gia đình về việc đổ rác, các loại rác thải, biện pháp giảm thiểu rác thải và tái chế rác thải. Khói ở các nhà máy: Quan sát độ cao cột khói, hướng gió, mùi liên quan tới sản phẩm của nhà máy. 8 Hình thức thứ tư: Tổ chức tham quan về môi trường - Mục tiêu: Giúp cho HS: + Hiểu biết về thiên nhiên, mở rộng tầm nhìn về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của một nơi nào đó. + Giáo dục cho HS tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước + Giáo dục cho HS bảo vệ các thành quả về môi trường do con người xây dựng và phát triển. - Nội dung tham quan: + Các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, các khu vực ô nhiễm môi trường, cải thiện môi trường tốt. + Qua các đợt tham quan, dã ngoại này, HS có dịp hiểu biết thêm về con người. Nhà giáo người Nga K.Đ Usinxki đã rất có lí khi đưa ra nhận xét sau: “Cảnh đẹp có tác dụng lớn lao đối với tâm hồn trẻ em và lời nói của nhà giáo dục khó có thể cạnh tranh được với những cảnh đẹp đó, rằng: Một ngày trẻ em được băng qua những khu rừng và những cánh đồng có giá trị bằng nhiều tuần lễ ngồi trên ghế nhà trường”. - Cách tiến hành: + GV phải lựa chọn địa điểm tham quan cẩn thận. + Thông báo cho HS trước để HS chuẩn bị tư trang. + Trong khi tham quan, hướng dẫn HS chú ý đến đối tượng tham quan như phát hiện xấu phá hoại môi trường (đốn chặt rừng bừa bãi…). GV cần nhắc nhở HS không thải rác ra nơi tham quan, đốt lửa trại trong rừng, gây huyên náo, ảnh hưởng đến động vật rừng. + Sau khi tham quan, GV yêu cầu HS viết báo cáo theo dàn ý cho sẵn: • Đặc điểm môi trường nơi tham quan. • Những vấn đề cần chú ý phòng chống, bảo vệ. Hình thức thứ năm: Tổ chức cho HS tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường ở nhà trường và địa phương - Mục tiêu: Giúp cho HS vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã học vào thực tế, tạo cho các em tình cảm, thái độ đối với môi trường. - Nội dung: Tổ chức trồng cây xanh, phân loại rác thải trước khi đưa vào nơi qui định, tham gia phong trào tuần lễ “Vệ sinh môi trường”, “Chiến dịch làm sạch thế giới”, lập các dự án bảo vệ môi trường ở trường học. Thông qua lập dự án tạo cho HS một thói quen đặt mình vào vị trí của những người luôn quan tâm và có 9 hành động tích cực đối với môi trường. Nó tạo cảm xúc, óc tưởng tượng, phát huy khả năng, kinh nghiệm của HS. Nếu dự án được thực hiện nó sẽ tạo sự thay đổi trong môi trường trường học, địa phương của HS. Qui trình thiết kế một dự án như sau: + Bước 1: Phân tích hiện tượng, bối cảnh của dự án. Tính cấp thiết của dự án. + Bước 2: Mục tiêu của dự án. + Bước 3: Các sản phẩm dự kiến cần đạt được. + Bước 4: Phương thức tiến hành. • Chuẩn bị phương tiện, tài liệu. • Chuẩn bị nguồn lực. • Bố trí thời gian, địa điểm. + Bước 5: Thực hiện dự án. + Bước 6: Đánh giá dự án (Đối chiếu với mục tiêu đặt ra) Hình thức thứ sau: Tổ chức câu lạc bộ môi trường, câu lạc bộ phát triển bền vững Câu lạc bộ môi trường, câu lạc bộ phát triển bền vững với các hoạt động đa dạng: thảo luận, tranh luận các vấn đề văn hoá, môi trường và phát triển kinh tế; văn nghệ (đố vui, chuyện kể, dạ hội với các chủ đề khác nhau) như hoà bình và an ninh, sức khoẻ; sự thay đổi của khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai; giảm nghèo, kinh tế thị trường. Tuỳ theo lứa tuổi của HS, tương ứng với nội dung học tập của HS, mỗi nhóm HS tham gia phải chuẩn bị tư liệu để thuyết minh về những vấn đề đó, chẳng hạn vấn đề này xảy ra ở đâu? Nguyên nhân xảy ra? Xảy ra vào thời điểm nào? Nội dung của vấn đề đó. Những ai có trách nhiệm giải quyết vấn đề này? Các biện pháp giải quyết chúng? Tuy có nhiều hình thức ngoại khóa biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu như trên nhưng sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi một hình thức ngoại khóa có nội dung riêng được đặc trưng bởi phương pháp tiến hành và cách thức tổ chức thích hợp, song giữa các hình thức ngoại khóa có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong nhiều trường hợp, hình thức ngoại khóa này có thể thực hiện trong hình thức tổ chức khác hoặc được dùng ngay cả trong dạy học nội khóa. Ví dụ minh họa: BÁO CÁO NGOẠI KHOÁ VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ MANG TÍNH TOÀN CẦU I- Tên hoạt động ngoại khóa - Báo cáo ngoại khóa với chủ đề: “Ô nhiễm môi trường ở địa phương”. - Đối tượng tham gia: HS lớp 9 - THCS 10 II- Mục tiêu - Giúp cho HS hiểu rõ hơn về các vấn đề mang tính toàn cầu sau khi học xong bài “Ô nhiễm môi trường” (Sinh học 9), những thách thức, nguy cơ đối với thế giới hiện đại và vai trò của mỗi cá nhân, của cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề đó vì một tương lai bền vững. - Cung cấp cho HS những kiến thức, các biện pháp và kĩ năng tham gia giải quyết sự ô nhiễm môi trường, có thái độ đúng đắn khi đứng trước các vấn đề đó của đất nước, của địa phương. III- Nội dung, hình thức và thời gian thực hiện 1) Nội dung bài giảng - Đề cập đến thực trang, nguyên nhân, hậu quả và những giải pháp khắc phục về vấn đề ô nhiễm môi trường địa phương hiện nay. - Vai trò của mỗi cá nhân trong cộng đồng, đặc biệt là của mỗi HS trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương, đất nước. a) Ô nhiễm môi trường hiện nay- những con số đáng báo động Mới đây năm 2018, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo tổng hợp tại Hội nghị toàn quốc bảo vệ môi trường. Cụ thể, hàng năm, cả nước tiêu thụ hơn 100.000 tấn hóa chất bảo vệ thực vật; phát sinh hơn 23 triệu tấn rác thải sinh hoạt, hơn 7 triệu tấn chất thải rắn công nghiệp, hơn 630.000 tấn chất thải nguy hại trong khi việc xử lý chất thải, nước thải còn rất hạn chế. Tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay đang ở mức báo động Đặc biệt, trên cả nước hiện có 283 khu công nghiệp với hơn 550.000m3 nước thải/ngày đêm; 615 cụm công nghiệp nhưng trong đó chỉ khoảng hơn 5% có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hơn 500.000 cơ sở sản xuất trong đó có nhiều loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường, công nghệ sản xuất lạc hậu. Bên 11 cạnh đó, nước ta có hơn 5.000 doanh nghiệp khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng; hơn 4.500 làng nghề. Hơn 13.500 cơ sở y tế hàng ngày phát sinh hơn 47 tấn chất thải nguy hại và 125.000 m3 nước thải y tế. Cả nước hiện có 787 đô thị với 3.000.000 m3 nước thải ngày/đêm nhưng hầu hết chưa được xử lý và đang lưu hành gần 43 triệu môtô và trên 2 triệu ôtô. Đây là những con số thống kê cho thấy nguy cơ và hiện tượng ô nhiễm môi trường đang ở mức báo động. b) Thực trạng ô nhiễm môi trường hiện nay * Ô nhiễm môi trường đất Đây được xem là hậu quả của sự tác động của con người. Theo đó, các nhân tố sinh thái chịu sự ảnh hưởng đã vượt qua những giới hạn của các quần xã sinh vật sống trong đất. Hiện nay, với nhịp độ gia tăng dân số, tốc độ phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp. Chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm. Riêng chỉ với ở Việt Nam, thực tế suy thoái tài nguyên đất là rất nghiêm trọng. Rác thải không được sử lí * Ô nhiễm môi trường nước Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều tiêu cực của các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm độ đa dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất Nước bị ô nhiễm là do sự phú dưỡng xảy ra chủ yếu ở các khu vực nước ngọt và các vùng ven biển, vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột 12 ngột, các khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu. Một đoạn sông bị ô nhiễm nặng nề * Ô nhiễm môi trường không khí Ô nhiễm môi trường không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí. Điều này làm cho không khí không sạch hoặc có mùi khó chịu, giảm thị lực khi nhìn xa do bụi. Tinh trạng ô nhiễm môi trường không khí hiện nay c) Các nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường hiện nay * Ý thức của người dân Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ ơ của người dân. Nhiều người cho rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm 13 của nhà nước, của các cấp chính quyền...trong khi số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì cũng "chẳng ăn thua", và ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng đến mình nhiều. Và chính những suy nghĩ này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cũng như tư duy bảo vệ môi trường của các thế hệ trẻ về sau. Việc phá hoại môi trường của một người chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng nếu gọp nhiều người lại thì rất lớn. Một tờ giấy, vỏ hộp sữa, túi ni-lông,... tuy nhỏ nhưng tích tụ lại lâu ngày sẽ gây ô nhiễm, mất mỹ quan, rác thải đọng lại trong các lô-cốt gây ra tình trạng cống thoát nước bị nghẹt mỗi khi mưa lớn hay thủy triều lên. Người dân thiếu ý thức trong việc bảo vệ môi trườnglàm ảnh hưởng đến các loài sinh vật * Các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, quan liêu, thiếu chặt chẽ Nguyên nhân thứ hai gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi trường đáng kể. Giao thông ở đường phố Việt Nam 14 Số người ngày càng lớn, mật độ xe càng tăng nhanh qua năm tháng nhưng tỷ lệ đường được đầu tư không theo kịp. Tình trạng kẹt xe xảy ra hằng ngày chính là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn. * Những hạn chế, bất cập trong bảo vệ môi trường Theo thống kê của Bộ Tư Pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất,... Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế... trong việc bảo vệ môi trường. Một bức ảnh nhỏ nhưng cho thấy tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam ô nhiễm đến mức nào Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế. d) Giải pháp khắc phục Người dân nâng cao ý thức về bảo vệ môi trường, vứt rác đúng nơi quy định, không xả rác bừa bãi. Giáo dục, nâng cao nhận thức cho các bé về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, nên hạn chế sử dụng các hóa chất tẩy rửa khi xử lý nghẹt cống thoát nước, vì như thế sẽ vô tình đưa vào môi trường một chất thải nguy hại mới, đồng thời cũng làm nguồn nước bị nhiễm độc. Thay vào đó, hãy áp dụng cách thông bồn cầu, cách xử lý ống thoát nước bị tắc bằng vi sinh. 15 Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính chúng ta Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó có những chế tài xử phạt phải thực sự mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tổ chức giám sát chặc chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp hơn. Tại các khu du lịch, khu đông dân cư, tuyến đường lớn,... nên bổ sung thêm nhiều thùng rác và các nhà vệ sinh công cộng. Cuối cùng, phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội tạo ra sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường. Tóm lại, tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam tuy nghiêm trọng nhưng vẫn còn có thể cứu vãn nếu mỗi người dân biết góp sức của mình, chung tay bảo vệ môi trường. Hãy hô vang khẩu hiệu "Vì môi trường xanh - sạch đẹp" và cũng là vì cuộc sống của chính chúng ta cũng như các thế hệ sau. 2) Hình thức tổ chức - HS nghe báo cáo về những nội dung trên, nêu những thắc mắc và sẽ được giải quyết ngay trong buổi thuyết trình. Sau đó mỗi HS sẽ viết một bài thu hoạch kết quả qua buổi nghe báo cáo đó. 3) Thời gian - Tiến hành 45 – 60 phút. IV- Các bước tiến hành 1) Chuẩn bị - Trước hết GV bộ môn cần trình bày với ban giám hiệu nhà trường về kế hoạch làm việc của mình để nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ về mặt tổ chức cũng như cơ sở vật chất. Đối với HS: GV thông báo kế hoạch và hướng dẫn HS tìm hiểu trước nội dung có liên quan để thuận lợi cho việc tiếp thu vấn đề một cách nhanh chóng và có hiệu quả 16 - Lựa chọn người báo cáo chuyên đề: người báo cáo có thể là GV hoặc giao cho HS thu thập tài liệu và báo cáo. - Lựa chọn nội dung báo cáo: căn cứ vào trình độ nhận thức của HS và yêu cầu của chương trình học, thực tế nhà trường, tính cấp thiết của vấn đề để lựa chọn nội dung báo cáo cho phù hợp. Trong hoạt động này, tuỳ thuộc vào từng trường cụ thể mà GV có thể chọn nội dung báo cáo cho phù hợp. Ví dụ: ở các trường nông thôn có thể chọn vấn đề bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường,... các trường miền núi có thể chọn vấn đề nghèo đói, suy giảm đa dạng sinh học,... các trường ở thành thị có thể chọn vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm tầng ôzôn, ô nhiễm môi trường... - Chuẩn bị thu thập thông tin, số liệu, tài liệu liên quan đến chuyên đề thông qua sách vở, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng (ti vi, Internet...). Lưu ý:thông tin phải có sự chọn lọc, tránh dài dòng, lan man sang các vấn đề khác. - Chuẩn bị đề cương báo cáo. - Chọn địa điểm, thời gian báo cáo. - Chuẩn bị cơ sở vật chất và phương tiện báo cáo (máy chiếu, hình ảnh, âm thanh, video...). - Nên chuẩn bị một số tiết mục văn nghệ để biểu diễn đan xen trong buổi báo cáo. 2) Triển khai - Người báo cáo tự giới thiệu, nêu mục đích của buổi thuyết trình, nêu bố cục phần trình bày và một số yêu cầu khi nghe báo cáo. - Bắt đầu trình bày (theo đề cương mà người báo cáo đã chuẩn bị). - Xen kẽ các tiết mục văn nghệ để tạo không khí bớt căng thẳng kết hợp cho các em thảo luận và giải đáp câu hỏi, thắc mắc về những vấn đề mà báo cáo viên vừa trình bày. V- Củng cố, đánh giá 1) Củng cố - Sau buổi báo cáo, GV cho HS viết bài thu hoạch tổng kết những nội dung đã được tiếp thu. Nhận xét, rút kinh nghiệm định hướng cho những buổi báo cáo chuyên đề tiếp theo. 2) Đánh giá: - Đánh giá mức độ thành công của buổi báo cáo dựa vào các tiêu chí. - Cung cấp đầy đủ nội dung của chủ đề báo cáo. 17 - Đạt được mục đích tuyên truyền. - Nhận thức, thái độ và hành vi của HS sau khi tham gia buổi báo cáo. VI- Gợi ý cho người sử dụng - Có thể tổ chức cho tất cả HS trong toàn trường và những ai quan tâm đến các vấn đề toàn cầu. - Nếu tổ chức hình thức này cho nhiều lớp thì nên cho mỗi lớp viết báo cáo về một vấn đề. - Thời điểm tổ chức nên tiến hành vào các dịp kỉ niệm như ngày Môi trường thế giới, ngày dân số thế giới,... trước toàn trường hoặc đối với HS lớp 9 sau khi học xong bài “Ô nhiễm môi trường”. - Có thể tiến hành theo định kì, tuỳ từng nội dung phục vụ cho các học phần chính khoá. - Cần tranh thủ sự ủng hộ của các Cơ quan, Ban ngành ở địa phương, Ban giám hiệu, Đoàn thể giúp đỡ về mặt vật chất, kinh phí chi buổi báo cáo. - Có thể giao cho HS chuẩn bị báo cáo. Việc làm này sẽ giúp HS tích cực hơn thông qua việc thu thập, tổ chức hoạt động. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm áp dụng đối với học sinh lớp 9 trong nhà trường Kết quả học tập của học sinh khi chưa áp dụng phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các bài trong trương trình sinh học 9 Số lần Giỏi Khá T. Bình Yếu, kém kiểm tra Số bài kiểm tra SL % SL % SL % SL % Lần 1: 41 8 19,5 13 31,7 20 48,8 0 0 Lần 2: 41 15 36,5 14 34,1 12 29,4 0 0 Từ thực trạng trên, để công việc đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp và giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các bài trong trương trình sinh học 9 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận Việc đưa kiến thức về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu là vấn đề mới trong giáo dục. Nên việc việc thực hiện là hết sức khó khăn đối với mỗi cán bộ, giáo viên, nhất là đối với với việc đưa vào chương trình giáo dục ở các cấp học học Trung học cơ sở vì để tiếp thu kiến thức về việc ứng phó 18 với biến đổi khí hậu đòi hỏi đối tượng tiếp thu phải có những nhận thức và kỹ năng sống nhất định. Thông qua việc nghiên cứu các tài liệu tham khảo và kinh nghiệm giảng dạy. Bản thân đã cố gắng chắt lọc những hiểu biết cơ bản nhất về bảo vệ môi trường, về biến đổi khí hậu và ứng phó với biến đổi khí hậu để lồng ghép vào giảng dạy với một số tiết học của bản thân nhằm vừa đáp ứng được yêu cầu của ngành, vừa đảm bảo sự phù hợp với trình độ và khả năng tiếp thu của học sinh. Bài viết của tôi còn nhiều vấn đề chưa khai thác hết mong các đồng chí và đồng nghiệp đóng góp ý kiến thêm để tôi có phương pháp dạy tốt nhất cho học sinh. 3.2. Kiến nghị. * Đối với các cấp quản lý giáo dục : Nên thường xuyên tổ chức những đợt thực tập để thảo luận, rút kinh nghiệm, tìm ra những bài học quý báu nhất cho việc giảng dạy các bài ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. * Đối với các giáo viên dạy bộ môn: - Thường xuyên trau dồi kiến thức, tự rút kinh nghiệm qua các bài dạy. - Chú trọng lồng ghép các vấn đề biến đổi khí hậu vào các bài dạy học theo chương trình và chuẩn kiến thức kĩ năng. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh hóa, ngày 26 tháng 02 năm 2019. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết sáng kiến Hồ Văn Lâm 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất