Lời nói đầu
T
rong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến
năm 2000, Đảng ta cũng đã chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc
gia hướng vào việc tạo ra vốn và sử dụng vốn có hiệu quả
trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân...”(1). Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những vấn đề đang
được Chính phủ, Ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Đại hội Đảng toàn lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt đổi mới chính
sách và cơ chế kinh tế nói chung, thị trường và sản xuất kinh doanh nói
riêng. Các DNNN được quyền tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhưng cùng với nó, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt trên thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này DNNN có
những vị thế bất lợi đó là thiếu vốn, bộ máy chậm thích ứng với sự biến
đổi của thị trường, lắm tầng nấc trung gian, và nhiều sự ràng buộc lẫn
nhau, phần lớn đội ngũ cán bộ rất thụ động.
DNNN là một bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, có ý
nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên hiện nay các DNNN đang
phải đối đầu với nhiều vấn đề nan giải, trong đó vốn và hiệu quả sử
dụng vốn luôn là bài toán hóc búa với hầu hết các DNNN.
Vậy huy động vốn ở đâu? làm thế nào để huy động vốn? và đồng vốn
được đưa vào sử dụng như thế nào?. Đó là câu hỏi không chỉ các
(1)
T¹p chÝ Th«ng tin Khoa häc Ng©n hµng sè 7/1997
-1-
§Ò ¸n m«n häc
DNNN quan tâm, mà là vấn đề bức thiết với hầu hết các doanh nghiệp
hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Do đó đi tìm lời giải về vốn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho khu vực DNNN là một vấn đề
mang tính thời sự và thiết thực.
-2-
§Ò ¸n m«n häc
Để huy động vốn doanh nghiệp cũng cần phải xem xét thực trạng tình
hình tài chính, chiến lược tài trợ, chủ nguồn tài chính, cũng như kế
hoạch huy động tài chính cho chi trả.
DNNN có thể huy động vốn qua nguồn cung ứng nội bộ và huy động từ
bên ngoài.
Nguồn cung ứng nội bộ là phương thức tự cấp vốn của doanh nghiệp.
Một là, nguồn khấu hao tài sản cố định. Trong qúa trình sử dụng thì tài
sản cố định chuyển dần giá trị vào thành phẩm dưới hình thức khấu
hao. Số khấu hao này được sử dụng để khôi phục tài sản cố định nhằm
tái sản xuất hoặc sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh của doanh ghiệp.
Doanh nghiệp trích khấu hao theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp cả hao
mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tài sản. Hai là, từ các khoản
doanh nghiệp phải nộp ngân sách nhưng được nhà nước cho phép để lại
doanh nghiệp bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh. Ba là, tích luỹ tái
đầu tư, đây là phần lợi nhuận không chia để lại doanh nghiệp nhằc mục
đích đầu tư phát triển sản xuất. Có thể nói rằng phần này được các
doanh nghiệp coi là nguồn tự cung ứng tài chính quan trọng vì nó có
các ưu điểm cơ bản sau: doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm
sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng, giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực
tài chính nhờ giảm tỷ lệ nợ/vốn….Bốn là, điều chỉnh cơ cấu tài sản,
phương thức này tuy không làm tăng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng
lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên
cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Do môi trường kinh
-3-
§Ò ¸n m«n häc
doanh thường xuyên biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi nên
trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa tài sản này nhưng lại
thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời
có giải pháp bán các tài sản dư thừa, không sử dụng đến, phải trên cơ
sở thường xuyên kiểm tra tính toán và xác định lại mức tài sản lưu
động trên cơ sở ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu
kho tài sản lưu động không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại
tài sản lưu động hợp lý.
Huy động từ nguồn cung ứng nội bộ có ưu điểm lớn là hoàn toàn do
doanh nghiệp chủ động, không bị phụ thuộc vào bên ngoài, doanh
nghiệp có toàn quyền sử dụng trong dài hạn với chi phí sử dụng vốn
thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung ứng luôn được coi là một yếu tố để
người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng cho vay vốn. Tuy nhiên tự
cung ứng vốn cũng có hạn chế cơ bản là qui mô cung ứng vốn nhỏ và
nguồn bổ sung luôn có giới hạn.
Huy động vốn từ bên ngoài có thể qua các phương thức sau: Thứ nhất
là từ ngân sách nhà nước, hiện nay vốn từ ngân sách nhà nước đối với
các DNNN càng bị thu hẹp cả về quy mô của vốn và phạm vi được cấp
vốn. Đối tượng được cung cấp vốn theo hình thức này hiện nay phải là
các DNNN đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế, các lĩnh vực sản xuất
hàng hoá công cộng , hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc
không có khả năng đầu tư, các dự án có tầm quan trọng đặc biệt do Nhà
nước trực tiếp đầu tư. Thứ hai là phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên
-4-
§Ò ¸n m«n häc
thị trường. Đây là phương thức đang được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên
không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn này mà
chỉ những doanh nghiệp được phát hành cổ phiếu, trái phiếu do Nhà
nước quy định. Hình thức phát hành cổ phiếu có đặc trưng cơ bản là
tăng vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở
hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Thứ ba, là vay vốn
của các ngân hàng thương mại, hiện tại phương thức này cung ứng một
lượng vốn lớn cho DNNN. Bên cạnh đó để thực hiện hình thức này đòi
hỏi doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các
thủ tục ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn doanh nghiệp phải
tính toán trả nợ ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch. Mặt khác doanh
nghiệp vay vốn ngân hang thương mại có thể bị ngân hàng thương mại
đòi quyền kiểm soát các hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian
cho vay. Thứ tư, là tín dụng thương mại từ nhà cung cấp, đó là hình
thức chiếm dụng hợp pháp vốn của các nhà cung ứng và của khách
hàng. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu là: doanh nghiệp
mua máy móc, thiết bị theo phương thức trả chậm . Vốn khách hàng
ứng trước. Tuy nhiên, kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay đòi hỏi
doanh nghiệp phải tính toán, cân nhắc cẩn thận vì không phải chỉ tồn tại
lượng vốn nhất định khách hàng đặt cọc trước mà bên cạnh đó lại tồn
tại lượng tiền khách hàng chiếm dụng lại khi mua hàng của doanh
nghiệp nhiều khi là rất lớn. Thứ năm, là tín dụng thuê mua. Hiện nay
có hai hình thức chủ yếu là thuê tài chính và thuê hoạt động. Trong
-5-
§Ò ¸n m«n häc
kinh tế thị trường phương thức tín dụng thuê mua được thực hiện giữa
một doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh
nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá phổ biến. Thứ sáu là,
doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết với
các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Phương thức này sẽ huy
động được một lượng vốn lớn cần thiết cho một số hoạt động nào đó
mà không làm tăng nợ, nhưng phương thức này cũng có những hạn chế
nhất định, chẳng hạn như phải chia sẻ lợi nhuận cho bên liên doanh .
Ngoài ra doanh nghiệp có thể huy động vốn nước ngoài khác như vay
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân nước ngoài
hay thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và
nguồn vốn ODA.
Huy động vốn từ bên ngoài tuy cung cấp một lượng vốn lớn cho doanh
nghiệp. Nhưng lại hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp và doanh
nghiệp một phần chịu sự kiểm soát trong việc sử dụng vốn vào hoạt
động sản xuất kinh doanh.
3. về hiệu quả sử dụng vốn
3.1.quan điểm về sử dụng vốn
Để đánh giá trình độ quản trị điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Hiệu quả xản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc
độ : hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.Trong phạm vi quản trị doanh
-6-
§Ò ¸n m«n häc
nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một
phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do đó các
nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động
rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và
bắt buộc đối với mỗi doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là
yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với mỗi doanh
nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả
của hoạt động kinh doanh nói chung và quản trị sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản
ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản trị vốn làm cho đồng vốn sinh
lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá
trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu
về khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn….
Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất
kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan
giữa kết quả thu được với chí phí bỏ ra để thực hiện sản xuất kinh
doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử
dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện
quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
-7-
§Ò ¸n m«n häc
- Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để nghĩa là không để vốn
nhàn rỗi mà không sử dụng, không sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách hợp lý và tiết kiệm
- Phải quản trị vốn một cách chặt chẽ nghĩa là không để vốn bị sử dụng
sai mục đích, không để vốn thất thoát do buông lỏng quản trị.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn
chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản trị và sử
dụng vốn.
3.2. các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổnh hợp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chung
nhất người ta thường dùng một số chỉ tiêu tổng quát như: hiệu quả sử
dụng toàn bộ vốn, doanh lợi vốn, doanh lợi vốn chủ sở hữu. Trong đó:
Doanh thu
Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn = Tổng số vốn sử dụng bình quân
trongkỳ
-8-
§Ò ¸n m«n häc
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay của toàn bộ vốn, nó cho biết
một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu, vì vậy nó càng lớn
càng tốt.
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn =
Tổng số vốn sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Nó phản ánh
khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết một đồng vốn
đầu tư đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, trình độ sử
dụng vốn của người quản trị doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn càng
tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này có hạn chế là nó phản ánh một cách phiến
diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ,
trong khi hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn huy động từ bên ngoài
chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn
vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
-9-
§Ò ¸n m«n häc
Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác
như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu….
Tuy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm
hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà
phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn
của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng
bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.
3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu
sau:
Doanh thu thuần
Vốn cố định sử dụng bình quân trong
kỳ
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu thuần trong một năm.
Lợi nhuận
Sức sinh lợi của vốn cố định =
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
- 10 -
§Ò ¸n m«n häc
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có
hiệu quả.
Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để
đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ
số loại bỏ tài sản cố định….
3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng
Doanh thu thuần
các chỉ tiêu sau:
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hiệu suất sử dụng VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Lợi nhuận
Sức sinh lợi của VLĐ =
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
- 11 -
§Ò ¸n m«n häc
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ
tiêu này càng lớn càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt
quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh
doanh,VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu
vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để
xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Doanh thu thuần
Số vòng quay của VLĐ =
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ
được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ
hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.
Thời gian của một kỳ phân tích
Thời gian của một vòng luân chuyển=
- 12 -
Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
§Ò ¸n m«n häc
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng,
thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển
của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng
hiệu quả hơn.
3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN
trong cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra
nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có
những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục
đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục
tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính
quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải có những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện
hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn
vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên
khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả,
kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô
chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả
- 13 -
§Ò ¸n m«n häc
kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố
định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca
trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc
phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển.
Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác trở lên gay
gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng
dầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp. Goạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn
đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp doanh nghệp nâng cao khả năng
huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm….
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức
cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm… doanh nghiệp phải
có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục
tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh
- 14 -
§Ò ¸n m«n häc
nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường , nâng cao
đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu quả
thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn
việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng
ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng
góp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không
những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động
mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã
hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp
để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
HÁI QUÁT THỰC TRẠNG TẠO VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TRONG CÁC DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành
phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó
các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế
- 15 -
§Ò ¸n m«n häc
quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có thể điều tiết và
thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô hay
tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các ngành để sản
xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội.
DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp
nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNNcó ý
nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất
nước, trong quá trình hội nhập thương mại với các nước khu vực, với
Châu á và thế giới.
DNNN có vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và bền
vững trong phát triển kinh tế, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế
và phát triển xã hội, có trách nhiệm khắc phục và hạn chế những khuyết
tật của kinh tế thị trường. Điều đó có ý nghĩa là DNNN có vai trò chiến
lược giữ vững sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Vai trò đó được thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, các DNNN phải giữ được vai trò chủ đạo trong thực tế, nắm
giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến an ninh quốc
phòng, các ngành then chốt của nền kinh tế.
Thứ hai, các DNNN phải là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà nước sử dụng
để huy động vốn tập trung vào những ngành mang tính chiến lược của
nền kinh tế, tập trung vào những hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ
thuật quản trị… tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế. Thông qua các
- 16 -
§Ò ¸n m«n häc
DNNN cho phép Nhà nước thực hiện các chính sách, các giải pháp thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, các DNNN tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự phát triển
kinh tế bằng kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đối với nước ta
hiện nay đóng góp của các DNNN trong GDP đang ở mức khá cao thì
hiệu quả hoạt động của các DNNN có tác động rất lớn đến sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Hơn nữa hiện nay khu vực DNNN đang chiếm
giữ lượng vốn đầu tư lớn với những trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ
và nhân lực có trình độ cao thì hoạt động của các DNNN sẽ là một yếu
tố quyết định đến việc hoàn thành những chỉ tiêu kinh tế đã đề ra.
Thứ tư, các DNNN là những đơn vị đi đầu trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo hướng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong
một nền kinh tế lạc hậu với lực lượng sản xuất còn yếu kém như Việt
Nam, thì các DNNN được sử dụng như những công cụ trực tiếp nhằm
huy động các nguồn lực kỹ thuật để tiến hành quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời
là nhân tố để nâng cao chất lượng sản phẩm hướng tới xuất khẩu nhằm
hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy vai trò các DNNN là hết sức quan trọng, nhưng nhìn nhận một
cách khách quan thì DNNN chưa đủ tầm để cạnh tranh với nền kinh tế
khu vực.
2.Thực trạng vốn, tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN
- 17 -
§Ò ¸n m«n häc
2.1.Đánh giá chung
2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình
thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng
lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở.
Các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản
xuất kinh doanh hầu hết mọi sản phẩm hàng hóa, dưới hình thức chỉ
tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ này, vốn của xí
nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát,
giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn
để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không
quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất
thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch
trong hạch toán kinh doanh.
2.1.2. Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị điều tiết của nhà
nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn
đề vốn trở thành vấn đề sống còn của mỗi DNNN.
Trong thời kỳ 1986 – 1990, các DNNN được hình thành trên quy mô
rộng lớn cả ở cấp quận huyện và không có sự liên kết chặt chẽ giữa các
doanh ngiệp Trung ương và địa phương. Đến năm 1990, cả nước có
12080 DNNN. Các doanh nghiệp trong thời kỳ này có quy mô nhỏ, vốn
- 18 -
§Ò ¸n m«n häc
ít và công nghệ lạc hậu. Sự dàn trải của các DNNN làm cho nguồn vốn
đầu tư của nhà nước không thể tập trung cho các ngành trọng điểm dẫn
tới sự thiếu hụt vốn thường xuyên, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp.
Từ năm 1990 Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như Nghị định
338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg…nhằm sắp xếp và
tổ chức lại các DNNN. Qua nhiều lần sắp xếp, sát nhập và giải thể, đến
nay còn khoảng 5280 DNNN. Các DNNN đã nâng cao hơn trình độ
tích tụ và tập trung, tăng qui mô và kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy
nhiên hiện nay DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều
mặt: sức cạnh tranh còn quá yếu kém, qui mô quá nhỏ, thiếu vốn
nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi suất ngân
hàng, hiệu quả sút kém. Hầu hết các DNNN đang trong tình trạng “đói
vốn” trầm trọng. Theo báo cáo tổng kết của Bộ thương mại năm 1998,
trên 90% số doanh nghiệp không đủ mức vốn pháp định theo quy định
tại Nghị định số 50/Chính phủ ngày 28/8/1996 của Chính phủ. Và ngay
tại TP HCM, trong số 169 doanh nghiệp thương mại Nhà nước có tới
70% doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Xét chung các
DNNN hiện nay có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo
qui định tại NĐ 50/CP. Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên các
DNNN không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hóa
công nghệ, không có khả năng cạnh tranh.
2.2.Thực trạng về vốn và huy động vốn trong các DNNN.
- 19 -
§Ò ¸n m«n häc
Trong những năm gần đây vốn ở các DNNN đang có xu hướng tăng
lên. Tuy nhiên qui mô vốn còn nhỏ bé và dàn trải. Năm 1994 vốn bình
quân cho một DNNN chỉ khoảng 3,3 tỷ đồng, năm 1996 tăng lên 11 tỷ
đồng, năm 1998 tăng lên 18 tỷ đồng và hiện nay khoảng 22 tỷ đồng.
Như vậy tốc độ tăng bình quân hàng năm từ năm 1996 đến nay khoảng
19%. So với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1994 – 1998 có sự giảm
sút (giai đoạn 1994 – 1998 tăng bình quân 52,8%)
Tồng nguồn vốn kinh doanh của khu vực DNNN năm 1996 khoảng
67.100 tỷ đồng, đến năm 1998 khoảng gần 100.000 tỷ đồng và hiện nay
tăng lên gần 117.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt
dưới 15%. So với giai đoạn 1991-1994 tốc độ tăng bình quân giảm sút
nhiều (giai đoạn 1991-1994 tăng bình quân 29%)
Đối với tổng công ty nhà nước, vốn nhà nước bình quân của tổng công
ty 91 năm 1998 là 3.661 tỷ đồng (tương đương 260 triệu USD). Năm
1999 tăng lên 3900 tỷ đồng (tương đương 280 triệu USD). Năm 1998
trong số 17 tổng công ty 91 có tới 14 tổng công ty (chiếm 82%) có mức
vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân. Năm 1999 các tổng công ty
nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng 17 tổng công ty 91 đã chiếm tới
56% tổng số vốn kinh doanh.
Với tổng công ty 90 hình thành vốn còn kém xa so với các tổng công ty
91. Hơn 20% số tổng công ty 90 năm 1998 có vốn nhà nước bình quân
dưới 100 tỷ đồng, trong đó ở 13 tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho
mỗi tổng công ty chỉ được dưới 40 tỷ đồng. Sang năm1999 tình hình
- 20 -
- Xem thêm -