Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện nền kinh tế mở.
Sự chuyển mình sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước,
kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp không còn giữ
được thế độc quyền như trước, mà để tồn tại cũng như thể hiện được vai trò
chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân các doanh nghiệp phải xác định
được chỗ đứng của mình, nắm bắt được sự tác động của môi trường kinh
doanh và mọi thời cơ để kinh doanh có hiệu quả.
Để thích nghi với cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải tìm ra đáp án
của 3 vấn đề kinh tế lớn đó là: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Sản
xuất cho ai ? phù hợp với năng lực và ngành nghề của mình . Điều quan trọng
nhất là làm thế nào để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Đó
là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp. Đó cũng chính là lí do tại sao
mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một phương án sản xuất tối ưu.
Có thể nói, kế hoạch hoá là một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để doanh
nghiệp xây dựng chiến lược phát triển của mình và trong đó việc lập kế hoạch
sản xuất của doanh nghiệp đóng góp một phần quan trọng vào thành công của
doanh nghiệp.
Công ty thi công cơ giới 1 - CIENCO 1 là một doanh nghiệp trong lĩnh
vực xây dựng các công trình giao thông và kinh doanh các sản phẩm phục vụ
thi công, xây dựng các công trình giao thông, sửa chữa máy móc thiết bị xây
dựng . Trong những năm qua công ty đã có những thành công trong sản xuất
kinh doanh. Đó là sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty
mặt khác cũng là do lãnh đạo công ty đã hiểu được công tác lập kế hoạch sản
xuất, thi công và tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng như thế nào đối với
hoạt động sản xuất, xây dựng, kinh doanh của Công ty, tuy nhiên vẫn còn
Trần Văn Cường
1
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
nhiều hạn chế. Ý thức được vai trò và tầm ảnh hưởng của công tác lập kế
hoạch đổi với sự phát triển nền kinh tế và thấp hơn là trong một tổ chức doanh
nghiệp, do đó trong quá trình thực tập tại Công ty thi công cơ giới 1 –
CIENCO 1 em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
lập kế hoạch ở Công ty thi công cơ giới 1 – CIENCO 1 ” với mục đích tích
luỹ kiến thức và tham gia góp ý về công tác lập kế hoạch ở Công ty.
Trong quá trình thực tập em xin cảm ơn Cô Giáo ThS. Võ Thy Trang và
phòng kế hoạch – thống kê Công ty thi công ty thi công cơ giới 1 - CIENCO
1 những người đã hướng dẫn tận tình và tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình thực tập và hoàn thành báo cáo thực tập của em.
Song do thời gian có hạn và sự nhận thức còn hạn chế, kinh nghiệm còn
chưa có nên bài viết của em chắc chắn còn không ít khiếm khuyết. Vì vậy em
rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô giáo, cùng các cán bộ
công nhân viên trong Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về công tác lập kế hoạch và quy
trình lập kế hoạch ở Doanh nghiệp.
- Áp dụng cơ sở lý luận vào phân tích thực trạng của công tác lập kế
hoạch tại Công ty thi công cơ giới 1 - CIENCO 1 và chỉ ra những kết quả
cũng như tồn tại trong công tác lập kế hoạch tại Công ty.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn
thiện công tác lập kế hoạch ở Công ty thi công cơ giới 1 – CIENCO 1.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty
- Các phương pháp Công ty sử dụng để xây dựng công tác lập kế hoạch.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian : các dữ liệu phân tích trong đề tài từ năm 2008 đến năm 2009.
Trần Văn Cường
2
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
- Về không gian: đề tài được tiến hành nghiên cứu tại Công ty thi công
cơ giới 1 – CIENCO 1.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chi tiết
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp SWOT
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp khái quát hóa
- Phương pháp so sánh
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục bảng, danh mục tài liệu
tham khảo khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương chính sau:
Chương 1. Lý luận chung về công tác lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng của công tác lập kế hoạch ở Công ty thi công cơ
giới 1 – CIENCO 1.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở
Công ty thi công cơ giới 1 – CIENCO 1.
Trần Văn Cường
3
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm kế hoạch kinh doanh
Kế hoạch kinh doanh là sự mô tả quá trình kinh doanh của bạn trong một
khoảng thời gian. Nó mô tả việc kinh doanh của bạn đã thành công tới đâu và
tìm kiếm những triển vọng để phát triển và thành công trong tương lai. Kế
hoạch kinh doanh của bạn sẽ mô tả mọi mặt trong công ty của bạn và sẽ là
một trong số những tài liệu quan trọng mà các nhà đầu tư, các đối tác tài
chính, các đối tác liên doanh sẽ đọc.
Một kế hoạch tốt là một tài liệu có tính sáng tạo, phản ánh bản chất của
một cơ sở và cho ta một bức tranh rõ ràng về việc cơ sở này đang đi tới đâu.
Số lượng các chi tiết và cơ cấu phụ thuộc nhiều vào bản chất của cơ sở, các
mục tiêu và mục đích, và có thể quan trọng nhất là người nghe (nhà đầu tư,
các cán bộ quản lý của công ty, các đối tác kinh doanh, v.v…). Một số bản kế
hoạch chỉ dày khoảng 10 – 15 trang trong khi những kế hoạch khác có thể dày
tới nhiều tập gồm hàng trăm trang, bao gồm nhiều tài liệu bổ sung khác.
Mọi công ty đều có những vấn đề tồn tại và điều quan trọng nhất là
không được lẩn tránh hay che giấu chúng. Kế hoạch kinh doanh cần đưa ra
một bức tranh tổng thể về các hoạt động và khả năng của công ty. Người đọc
bản kế hoạch mong đợi một ý tưởng kinh doanh rõ ràng và hiện thực, có
nhiều khả năng thành công, và những bằng chứng về năng lực quản lý để thực
hiện kế hoạch.
1.1.2 Khái niệm về lập kế hoạch
Lập kế hoạch là một loại ra quyết định đặc thù để xác định một tương lai
cụ thể mà nhà quản lý mong muốn cho tổ chức của họ. Chúng ta biết rằng
quản lý có bốn chức năng cơ bản là lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
tra. Lập kế hoạch là chức năng khởi đầu và trọng yếu đối với nhà quản lý.
Trần Văn Cường
4
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
Lập kế hoạch không phải là một sự kiện đơn thuần có bắt đầu và kết thúc
rõ ràng. Lập kế hoạch là một quá trình tiếp diễn phản ánh và thích ứng được
với những biến động diễn ra trong môi trường mỗi tổ chức. Trên ý nghĩa này
lập kế hoạch được coi là quá trình thích ứng với sự không chắc chắn bằng
việc xác định các phương án hành động để đạt được các mục tiêu cụ thể của
tổ chức. Trong quá trình hoạt động của một tổ chức, những yếu tố không chắc
chắn có nguồn gốc rất đa dạng. Loại yếu tố không chắc chắn thứ nhất gọi là
không chắc chắn về trạng thái, chúng liên quan tới một môt trường không thể
dự đoán được. Loại thứ hai là không chắc chắn về sự ảnh hưởng, tức là sự ảnh
hưởng của những biến đổi của môt trường là không dự đoán được. Một loại
yếu tố không chắc chắn nữa là không chắc chắn về hậu quả tức là không dự
đoán được hậu quả của quyết định.
Tóm lại, lập kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn các
phương thức để đạt được mục tiêu và lựa chọn các phương thức để đạt được
mục tiêu đó. Nếu không có các kế hoạch các nhà quản lý có thể không biết tổ
chức và khai thác con người cùng với các nguồn lực của tổ chức một cách có
hiệu quả thậm chí không có được một ý tưởng rõ ràng về cái họ cần tổ chức
và khai thác, không có kế hoạch nhà quản lý và các nhân viên của họ có rất ít
cơ hội để đạt được mục tiêu của mình, không biết khi nào và ở đâu phải làm
gì. Lúc này việc kiểm tra sẽ trở nên rất phức tạp ngoài ra trong thực tế những
kế hoạch tồi cũng ảnh hưởng xấu đến tương lai của toàn bộ tổ chức. Lập kế
hoạch quả thực rất quan trọng.
1.2 Nguyên tắc lập kế hoạch của các doanh nghiệp xây dựng
Khi lập kế hoạch ở các doanh nghiệp xây cần vận dụng các nguyên tắc sau:
- Kế hoạch phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường xây dựng
Mục đích cuối cùng của doanh nghiệp xây dựng là cung cấp sản phẩm
cho thị trường với chất lượng tốt và thu lợi nhuận. Vì vậy nếu kế hoạch không
xuất phát từ nhu cầu của thị trường thì kế hoạch không có tính hiện thực và
doanh nghiệp sẽ thua lỗ.
Trần Văn Cường
5
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
- Khi lập kế hoạch phải dựa trên định hướng lớn của Nhà nước và phù
hợp với qui định của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường quyền chủ động
của doanh nghiệp được bảo đảm. Tuy nhiên khi lập kế hoạch các doanh
nghiệp xây dựng (nhất là doanh nghiệp Nhà nước) vẫn phải dựa trên các định
hướng lớn của Nhà nước, vì các định hướng này bảo đảm lợi ích cho toàn
quốc gia và cộng đồng, nó đã được dựa trên các dự báo khoa học. Nếu doanh
nghiệp biết khai thác nó sẽ có thể làm lợi cho bản thân mình.
- Kế hoạch phải dựa trên khả năng thực lực của doanh nghiệp. Nếu kế
hoạch không tính đến nhân tố này thì tính hiện thực của nó thấp.
- Kế hoạch phải có mục tiêu rõ rệt, bảo đảm tính tập trung dứt điểm, thoả
mãn các yêu cầu của đơn đặt hàng của các chủ đầu tư.
- Kế hoạch phải đảm bảo tính khoa học, tính đồng bộ và bảo đảm tính
chính xác cao nhất có thể được.
- Kế hoạch phải linh hoạt, có khả năng thích ứng tốt với tình hình thay
đổi của thị trường.
- Kế hoạch phải cố gắng bảo đảm tính liên tục và có kế hoạch gối đầu.
Điều này rất phụ thuộc vào khả năng tranh thầu, vào khối lượng xây dựng của
thị trường và vào thời tiết.
- Phải phối hợp tốt giữa kế hoạch theo công trình (hợp đồng) và theo
niên lịch. Điều này rất quan trọng vì kế hoạch theo niên lịch có liên quan
đến khoản chi phí bất biến, một nhân tố quan trọng bảo đảm cho doanh
nghiệp có lãi hay bị lỗ.
- Kế hoạch phải bảo đảm tính tin cậy, tính tối ưu và hiệu quả kinh tế – xã
hội. Đặc biệt phải bảo đảm độ an toàn về tài chính thể hiện ở tính bảo đảm
nguồn vốn, bảo đảm khả năng trả nợ, khả năng thanh toán và tối thiểu phải
bảo đảm doanh thu hoà vốn.
Trần Văn Cường
6
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
1.3 Vai trò của công tác lập kế hoạch của Doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường
1.3.1 Đối với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu
pháp lệnh mà Nhà nước giao cho, cùng với các chỉ tiêu đó Nhà nước căn cứ
cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào và bao nhiêu đầu ra cho doanh
nghiệp, hay nói cách khác doanh nghiệp không tham gia vào quá trình xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chính mình, không có quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, hoàn toàn thụ động trước thị trường, không kích
thích sáng tạo, kìm hãm sản xuất.
1.3.2 Đối với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
Định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của kế hoạch sản xuất kinh
doanh mới thực sự bộ lộ rõ nét. Những kết quả đạt được sau khi đổi mới càng
khẳng định vai trò to lớn của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp.
Với cơ chế thị trường, thì thị trường với những nguyên tắc của nó sẽ trực
tiếp điều tiết mọi hoạt động của doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp trong
định hướng, xây dựng và thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu
để tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp, thị trường
sẽ là cơ sở để doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cho ai? sản xuất như
thế nào? sản xuất bằng gì? Nhà nước chỉ có vai trò điều tiết. Thị trường doanh
nghiệp và Nhà nước sẽ có mối quan hệ chặt chẽ.
Với mối quan hệ như vậy thì kế hoạch không chỉ có vai trò đối với
doanh nghiệp mà cả trong phạm vi nền kinh tế.
- Trong phạm vi nền kinh tế: kế hoạch là một trong những công cụ điều
tiết chủ yếu của Nhà nước, giúp Nhà nước xác định chiến lược, định hướng phát
triển chung làm cơ sở hoạch định các chính sách và giải pháp kinh tế.
- Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hóa là khâu đầu tiên, bộ phận
không thể thiếu trong công tác quản lý.Nếu không có kế hoạch thì không chỉ
doanh nghiệp mà bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào cũng đều bị mất phương
Trần Văn Cường
7
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
hướng, như đi trong rừng mà không có la bàn, không biết đi đâu, đích là đâu.
Hoạt động kế hoạch giúp doanh nghiệp chủ động trong việc huy động khai thác
nguồn lực một cách có hiệu quả để hoạch định và thực hiện các mục tiêu hoạt
động, dự báo các khả năng và nguồn lực, thẩm định và lựa chọn các phương án
phù hợp.
Mặt khác, kế hoạch hóa giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh
bằng cách xây dựng các kế hoạch nhằm khai thác triệt để các lợi thế so sánh,
tận dụng các lợi thế của doanh nghiệp sử dụng để hạn chế rủi ro trong kinh
doanh thông qua việc xác định những vị trí tương đối an toàn mà ở đó xác
suất rủi ro thấp nhất. Các kế hoạch dự phòng cho phép doanh nghiệp ứng đối
một cách nhanh nhậy với thay đổi của thị trường.
Ngoài ra, lập kế hoạch còn thể hiện được tham vọng của doanh nghiệp
trong tương lai nhằm đạt được mục tiêu không chỉ tồn tại mà còn ngày một
phát triển với tốc độ cao và ổn định.
1.3.3 Sự cần thiết khách quan của công tác lập kế hoạch trong cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước
Nước ta, đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và đang đặt ra rất nhiều vấn đề cả
về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần được nghiên cứu và giải quyết nhằm
khắc phục những tồn tại trong thời gian qua. Trong lĩnh vực kế hoạch hoá tồn
tại hai ý kiến trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác
này. Một số ý kiến thì phủ nhận vai trò này và một số ý kiến khẳng định vai
trò này. Nhưng từ lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng: “Công tác lập kế
hoạch là công tác không thể thiếu trong bất cứ một hoạt động nào, sự tồn tại
của kế hoạch là tất yếu khách quan”.
Bởi lẽ:
* Về mặt lý luận:
+ Do những đặc trưng của nền kinh tế thị trường và những ưu nhược
điểm của nó tất yếu phải có kế hoạch.
Trần Văn Cường
8
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
Đặc trưng của kinh tế thị trường là vận động dựa trên ba quy luật.
- Quy luật giá trị: Tức là trao đổi hàng hoá được tiến hành phù hợp với
hao phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó thể hiện qua quy luật giá cả biến
động xoay quanh giá trị.
- Quy luật cung cầu: Sự thay đổi thường xuyên giữa nhu cầu về hàng hoá
được cung cấp tạo ra một điểm cân bằng mới. Tại đó cung cầu và giá cả được
xác định đối với một loạt hàng hoá cầu > cung thì giá tăng và ngược lại cầu <
cung thì giá hạ.
- Quy luật cạnh tranh: Tức là mỗi chủ thể khi tham gia vào thị trường
phải chấp nhận sự tham gia và cạnh tranh của các đối thủ khác nhằm giành
giật thị phần và tăng doanh thu.
Như vậy, với 3 quy luật này thì nền kinh tế thị trường có những ưu
nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Nền kinh tế thị trường có tính năng động và thích nghi cao với mọi sự
thay đổi, ở đó tình hình cạnh tranh cao đòi hỏi các chủ thể cũng phải thay đổi
(về đầu từ đổi mới thiết bị, về mặt hàng, mẫu mã và đổi mới cung cách quản
lý) do đó sản xuất phát triển. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao
động, đơn vị kinh tế nâng cao tính tự chủ, tự lực và sáng tạo khi tham gian
vào thị trường. Các quan hệ kinh tế mở rộng thị trường thế giới tạo điều kiện
học hỏi, du nhập các nguồn lực với chất lượng cao hơn. Kinh tế thị trường
vừa là động lực vừa là phương tiện của sự phát triển.
Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm cần phải có sự điều tiết.
Nhược điểm:
Đó là sự tự phát trong sản xuất kinh doanh, khủng hoảng, tạm phát, mất
cân đối kinh tế ngành cùng khu vực, phân hoá giàu nghèo… không những thế,
nó còn gây hậu quả về mặt xã hội như xoá mòn phong tục tập quán truyền
thống bởi tính thực dụng và quá thiên về mục tiêu lợi nhuận. Cũng do những
đặc điểm này mà không thể để nền kinh tế theo chiều hướng thị trường quy
Trần Văn Cường
9
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
định hoàn toàn mà phải có kế hoạch để khắc phục nhược điểm, tồn tại và phát
huy ưu điểm của nó.
Kế hoạch chính là một hoạt đông chủ quan, có ý thức, có tổ chức của con
người nhằm xác định mục tiêu, phương án bước đi trình tự và cách thức tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kế hoạch hoá là yêu cầu của bản
thân quá trình lao động của con người và gắn liền với quá trình đó.
Nghị quyết Đại hội toàn quồc lần VI và VII của Đảng ta đều khẳng định:
“Mô hình kinh tế mà chúng ta đang hướng tới xây dựng không thể thiếu công
tác kế hoạch”.
+ Xuất phát từ thực tiễn và đặc điểm kinh tế Việt Nam.
Trong thời gian trước đây, nước ta thực hiện sản xuất chủ nghĩa xã hội
theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung mà cơ chế này chỉ phù hợp cho đất nước
khi còn chiến tranh, khi hết chiến tranh phải thay đổi nhưng chúng ta lại
không dẫn đến kết quả là kinh tế suy sụp, rối loạn, nhiều tiêu cực xã hội xảy
ra. Nguyên nhân chính là do kế hoạch hoá tập trung cao độ từ một trung tâm
là Nhà nước, doanh nghiệp thực hiện các chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nước
một cách chặt chẽ, cứng nhắc và không chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh, thiếu tính lao động sáng tạo. Nhận thức được điều này Đại hội Đảng
VI đã đề ra đường lối đổi mới quản lý kinh tế theo hướng “Kiên quyết xoá bỏ
tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ”.
Trong giai đoạn đều thực hiện cơ chế mới người ta tưởng rằng lúc này
hoàn toàn không cần kế hoạch mà do thị trường điều tiết hoàn toàn, cơ chế
mới không có chỗ đứng cho kế hoạch, thực tế, công tác kế hoạch ở nước ta
trong những năm trước đây bị coi nhẹ, doanh nghiệp bị cuốn hút và trôi nổi
theo thị trường, kế hoạch không những không phát huy được tác dụng là điều
tiết thị trường mà còn gây ra sự gò bó, cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong quản
lý. Biểu hiện cụ thể là những cơn sốt về xi măng, sắt, thép, nhà… sự phát
Trần Văn Cường
10
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
triển mất cân đối giữa các ngành công – nông – dịch vụ, giữa các vùng nông
thôn – thành thị làm cho lương lao động di chuyển về thành phố lớn làm ăn
một cách ồ ạt sinh nhiều tệ nạn xã hội. Nền kinh tế Việt Nam thực sự bị chao
đảo trước “cơn lốc thị trường”.
Mặt khác, kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
cho thấy họ luôn quan tâm đến công tác kế hoạch hoá cấp Công ty. Họ đánh
giá đúng vai trò, vị trí, chức năng, tổ chức nghiên cứu thực thi nhiều giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác này. Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng
hoạt động kế hoạch hoá Công ty là thực sự cần thiết nhằm hai mục đích: tấn
công (tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh nghiệp) và
dự phòng (tránh rủi ro cạm bẫy của thị trường). Các nhà kinh tế và các chuyên
gia khác cũng khẳng định chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên trong chu
trình quản lý cấp Công ty. Thực tế đã cho thấy sự thành công ở các nước như
Nhật, Đức… phải kể đến sự đóng góp của công tác kế hoạch hoá từ Trung
ương đến địa phương, từ bộ, ngành tới các doanh nghiệp kế hoạch chiến lược.
Kế hoạch tác nghiệp luôn được tiến hành và hoàn thiện hơn.
Như vậy, trong điều kiện Việt Nam công tác kế hoạch luôn tồn tại và
được cải tiến cho phù hợp với từng giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh, với
từng cấp để phát triển kinh tế.
1.4 Các loại kế hoạch
1.4.1 Theo cấp kế hoạch
Các tổ chức được quản lý bằng hai cấp kế hoạch tiêu biểu là kế hoạch
chiến lược và kế hoạch tác nghiệp. Các kế hoạch chiến lược do những nhà
quản lý cấp cao của tổ chức thiết kế nhằm xác định nhưng mục tiêu tổng thể
cho tổ chức. Các kế hoạch tác nghiệp bao gồm nhưng chi tiết cụ thể hóa của
các kế hoạch chiến lược thành những hoạt động hàng năm, hàng quý, hàng
tuần, thậm chí hàng ngày như kế hoạch nhân công, kế hoạch tiến độ, kế hoạch
nguyên vật liệu tồn kho. Mục đích đặt ra đối với kế hoạch tác nghiệp là bảo
đảm mọi người trong tổ chức đều hiểu và các mục tiêu của tổ chức và xác
Trần Văn Cường
11
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
định rõ trách nhiệm của họ liên quan như thế nào trong việc thực hiện các
mục tiêu đó và tiến hành các hoạt động đó ra sao để đạt được kết quả dự kiến.
Các kế hoạch chiến lược liên quan mối quan hệ giữa con người tổ chức với
các con người của những tổ chức kế hoạch khác. Các kế hoạch tác nghiệp lại
chỉ liên quan đến chính con người của tổ chức đó mà thôi.
Giữa hai loại kế hoạch chiến lược và kế hoạch tác nghiệp sự khác biệt
chủ yếu trên ba mặt:
- Thời gian: kế hoạch chiến lược thường cho khoảng thời gian từ 2 đến
3 năm trở lên trong một số trường hợp có thể tới 10 năm. Trong khi đó kế
hoạch tác nghiệp thường chỉ cho 1 năm trở xuống.
- Phạm vi hoạt động: kế hoạch chiến lược tác động tới các mảng hoạt
động lớn liên quan tương lai toàn bộ tổ chức. Kế hoạch tác nghiệp chỉ có một
phạm vi hạn hẹp bởi trong một hoạt động nào đó.
- Mức độ cụ thể: các mục tiêu chiến lược thường cô đọng và tổng thể.
Trong khi đó các mục tiêu của kế hoạch tác nghiệp thường cụ thể chi tiết.
1.4.2 Theo hình thức thể hiện
- Chiến lược: Là loại kế hoạch đặc biệt quan trọng đối với mỗi tổ chức.
- Chính sách: Là quan điểm phương hướng và cách thức chung để ra
quyết định trong tổ chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách
kế hoạch khác nhau cho những mảng hoạt động trọng yếu.
Tóm lại, chính sách là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung
để hướng dẫn hay khai thông cách suy nghĩ khi ra quyết định. Các chính sách
giúp cho việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và thống
nhất các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách là tài liệu chỉ dẫn
cho việc ra quyết định trong phạm vi co dãn nào đó. Chính sách khuyến khích
tự do sáng tạo nhưng vẫn trong khuôn kế hoạch một giới hạn nào đó tùy thuộc
vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức.
- Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc
điều hành các hoạt động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là
Trần Văn Cường
12
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
việc chỉ ra một cách chi tiết, biện pháp chính xác cho một hoạt động nào đó
cần phải thực hiện. Đó là một chuỗi các hoạt động cần thiết theo thứ tự thời
gian, theo cấp bậc quản lý.
- Quy tắc: giải thích rõ ràng những hành động nào có thể làm, nhưng hành
động kế hoạch nào không được làm. Đây là kế hoạch đơn giản nhất kế hoạch
không nên nhầm lẫn giữa thủ tục với quy tắc. Các quy tắc gắn với hướng dẫn
hành động mà kế hoạch không ấn định trình tự thời gian cho các hành động. Hơn
nữa các chính sách hướng dẫn cho việc ra quyết định trong khi quy tắc cũng là
sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp dụng chúng,
như vậy so với quy tắc và thủ tục chính sách có độ linh hoạt cao hơn.
- Các chương trình bao gồm một số các mục đích, chính sách, thủ tục,
quy tắc, các nhiệm vụ được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có
thể huy động và các yếu tố khác. Chương trình được hỗ trợ bằng các ngân quỹ
cần thiết. Một chương trình quan trọng thường ít khi đứng một mình thường
là một bộ phận của một hệ thống phức tạp các chương trình.
- Các ngân quỹ là bản tường trình các kết quả mong muốn được biểu thị
bằng các con số có thể coi đó là chương trình được “ số hóa “. Ngân quỹ ở
đây không đơn thuần là ngân quỹ bằng tiền mà còn có ngân quỹ thời gian,
ngân quỹ nhân công, ngân quỹ máy móc, ngân quỹ nguyên vật liệu...
1.4.3 Phân loại kế hoạch sản xuất kinh doanh xây dựng
* Phân loại theo thời gian thực hiện kế hoạch
Theo tiêu chuẩn này thường được phân thành kế hoạch dài hạn, trung hạn,
ngắn hạn (kế hoạch hàng năm) và kế hoạch tác nghiệp (kế hoạch hàng ngày và
hàng tháng). Kế hoạch dài hạn thường là kế hoạch có tính chiến lược. Trong
ngành xây dựng kế hoạch xây dựng một công trình có thể kéo dài nhiều năm.
* Phân loại theo nội dung công việc sản xuất – kinh doanh
Theo tiêu chuẩn này thường phân ra các kế hoạch như: Chương trình sản
xuất sản phẩm xây dựng (kế hoạch thi công xây dựng), kế hoạch cung ứng vật
tư, kế hoạch lao động, kế hoạch tài vụ, kế hoạch tìm kiếm hợp đồng…
Trần Văn Cường
13
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
* Phân loại theo nguồn vốn xây dựng công trình
Theo tiêu chuẩn này thường phân ra các loại kế hoạch do: nguồn vốn từ
ngân sách Nhà nước, nguồn vốn từ các chủ đầu tư (tức là từ vốn của các doanh
nghiệp) từ mọi thành phần kinh tế, từ nhân dân (nhất là xây dựng nhà ở).
Trong hợp tác quốc tế còn phân thành vốn nước ngoài cho vay (ODA),
vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và vốn đầu tư của các cơ sở hạ tầng
theo kiểu chủ đầu tư nước ngoài đứng ra xây dựng và kinh doanh, sau đó
chuyển giao cho nước chủ nhà (ký hiệu là BOT).
* Phân loại theo đối tượng kế hoạch
Theo tiêu chuẩn này ta phân ra kế hoạch theo niên lịch và kế hoạch theo
công trình xây dựng (tức là theo hợp đồng với các chủ đầu tư).
1.5 Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
1.5.1 Khái niệm chỉ tiêu kế hoạch
Các chỉ tiêu kế hoạch là các đích, các mục tiêu hoạt động có thể tính
toán, so sánh, đối chiếu và phân tích được. Các chỉ tiêu kế hoạch có đặc trưng
và khác biệt với các chỉ tiêu khác ( tài chính, hạch toán) ở chỗ đúng là các
đích và mục tiêu phác thảo cho hoạt động trong tương lai. Vì vậy, ngoài kết
quả phân tích hiện trạng khi xác định các chỉ tiêu kế hoạch còn phải căn cứ
kết quả dự đoán và dự báo.
1.5.2 Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
- Đảm bảo sự thống nhất của hệ thống chỉ tiêu trong phạm vi doanh
nghiệp, nghành kinh tế kỹ thuật, nền kinh tế.
- Nội dung của hệ thống chỉ tiêu phản ánh được một cách bao quát, toàn
diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh rõ nghĩa vụ và lợi ích của
doanh nghiệp.
- Bảo đảm sự cân đối giữa các nhiệm vụ Nhà nước giao và khả năng thực
hiện có và chắc chắn doanh nghiệp sẽ có.
- Mỗi chỉ tiêu phải thể hiện tính chính xác, cụ thể, thuận tiện cho công tác
thong tin kinh tế. thống kê, hạch toán kế toán, phân tích hoạt động kinh doanh.
Trần Văn Cường
14
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
- Các chỉ tiêu trong hệ thống phải có quan hệ chặt chẽ giữa hiệu quả và
chi phí bỏ ra.
- Hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh được sự phát triển giải quyết có hiệu
quả các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp trong từng thời kỳ phù hợp
với tình hình thị trường và đặc điểm của doanh nghiệp.
1.5.3 Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
- Nếu căn cứ vào tính chất phản anh của chỉ tiêu, các chỉ tiêu kế hoạch
có thể phân thành :
+ Các chỉ tiêu số lượng bao gồm các chỉ tiêu phản ánh hướng phấn đấu
của doanh nghiệp về mặt quy mô, số lượng… của các hoạt động. Như giá trị
tổng sản lượng, số lượng lao động các loại, giá trị tài sản cố định.
+ Các chỉ tiêu chất lượng bao gồm các chỉ tiêu phản ánh mặt chất lượng
của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ( năng suất lao động, tỷ
lệ lợi nhuận …).
- Nếu căn cứ vào đơn vị tính toán :
+ Các chỉ tiêu hiện vật : đó là các chỉ tiêu được đo lường bằng các đơn vị
hiện vật (tấn, lít, kg…) hoặc đơn vị hiện vật quy ước.
+ Các chỉ tiêu giá trị là các chỉ tiêu được đo lường bằng các đơn vị tiền
tệ ( nội tệ, ngoại tệ).
- Nếu căn cứ vào phân cấp quản lý chỉ tiêu chia thành :
+ Các chỉ tiêu pháp lệnh : Là các chỉ tiêu Nhà nước giao kế hoạch cho
doanh nghiệp Nhà nước. Đó là các chỉ tiêu được quy định thống nhất về nội
dung và phương pháp tính toán và có tính chất bắt buộc trong thực hiện. Hiện
tại các chỉ tiêu này gồm từ 1-3 chỉ tiêu pháp lệnh. Trong tương lai hệ thống
chỉ tiêu này sẽ được thay thế bằng các đơn đặt hàng có điều kiện và các bộ
luật tương ứng.
+ Các chỉ tiêu hướng dẫn : Đó là các chỉ tiêu không có tính chất bắt buộc
trong thực hiện song lại bắt buộc trong nội dung và phương pháp tính toán. Có ý
nghĩa trong tập hợp và quản lý vĩ mô. Trong điều kiện kinh tế thị trường các chỉ
Trần Văn Cường
15
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
tiêu này sẽ được áp dụng rộng rãi nhằm phục vụ hoạt động thông tin kinh tế và
phân tích các chỉ tiêu kinh tế quốc dân.
+ Các chỉ tiêu tính toán : đó là các chỉ tiêu từng doanh nghiệp tự quy
định và tính toán phục vụ công tác quản lý và kế hoạch hóa trong phạm vi
doanh nghiệp.
1.5.4 Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác lập kế hoạch trong doanh nghiệp
* Nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao
Các công trình giao thông thuộc về hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh
tế quốc dân, Nhà nước là người thay mặt xã hội đầu tư xây dựng các công
trình này. Kế hoạch mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp (dưới hình thức chỉ
tiêu pháp lệnh trực tiếp hoặc cho dự thầu) phải được coi là cơ sở đầu tiên của
kế hoạch của doanh nghiệp. Ngược lại đối với các doanh nghiệp xây dựng
giao thông thì việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng các công trình do Nhà nước
giao là nguồn sống chính của doanh nghiệp. Do vậy, ưu tiên số một trong cân
đối kế hoạch hoặc chương trình sản xuất của doanh nghiệp phải giành cho các
công trình trong kế hoạch Nhà nước.
Đi đôi với nhiệm vụ kế hoạch mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp, các
chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, các chính sách, các phương
án quy hoạch của ngành, những thông tin, hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp
trên trực tiếp v.v... đều là những căn cứ quan trọng để lập kế hoạch sản xuất.
* Nhu cầu thị trường
Nếu như kế hoạch kinh tế quốc dân là kế hoạch định hướng, kế hoạch
chỉ đạo do Nhà nước xây dựng thì kế hoạch sản xuất - tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp xây dựng là kế hoạch kinh doanh, kế hoạch làm ăn - do vậy kế
hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng phải bám sát
nhu cầu của xã hội về loại công trình mà doanh nghiệp có thể thực hiện được.
Nói các khác kế hoạch của doanh nghiệp phải gắn với thị trường, phải coi thị
trường là đối tượng, là căn cứ của mình.
Trần Văn Cường
16
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
Cũng trên yêu cầu này tính nhạy bén, tính thích ứng của kế hoạch phải thể
hiện ở chỗ nó được xây dựng trên cơ sở cái mà doanh nghiệp có thể làm được.
Đằng sau những sôi động và đa dạng của thị trường luôn tiềm ẩn những
cái tĩnh hơn, cụ thể hơn của nó, đó là khả năng ký kết các hợp đồng để thoả
mãn các nhu cầu xây dựng, ở đây hợp đồng kinh tế đã ký kết được chính là
hiện thân của nhu cầu thị trường và phải được coi là căn cứ, là xuất phát điểm
của kế hoạch của doanh nghiệp phải được hiện thực hoá, được bảo đảm bằng
cam kết của khách hàng thông qua hợp đồng. Nó là công cụ pháp lý ràng buộc
các chủ kinh doanh trong quá trình thực hiện kế hoạch.
* Chiến lược kinh doanh
Trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, mỗi doanh nghiệp xây dựng đều có
quyền tự chủ trong xây dựng các kế hoạch của mình. Ngày nay không chỉ
Nhà nước mới có chiến lược. Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng cần có chiến
lược kinh doanh của mình. Chiến lược kinh doanh là định hướng làm ăn lâu
dài, là cơ sở để tổ chức sản xuất kinh doanh, khắc phục những mất cân đối
lớn, hao lụt. Chính ở chiến lược kinh doanh mà doanh nghiệp tìm thấy lời giải
cho câu hỏi mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là gì? Doanh nghiệp sẽ làm gì,
quy mô doanh nghiệp đến đâu? Những đảm bảo cho thực hiện mục tiêu,
những phương tiện để đạt được mục tiêu là gì.
Chiến lược kinh doanh phải là căn cứ, là định hướng cho việc xây dựng
kế hoạch sản xuất hàng năm.
* Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp đều được trang bị một lực lượng lao động có tay nghề
cùng nhiều máy thi công và các máy móc thiết bị khác để thực hiện nhiệm vụ
xây dựng của mình. Lực lượng ấy với một quy trình thi công khoa học, với
trình độ tổ chức sản xuất tiên tiến sẽ sản xuất ra một khối lượng sản phẩm
(hoặc giá trị sản phẩm) lớn nhất trong một năm. Đó chính là năng lực sản xuất
của doanh nghiệp (ứng với một cơ cấu công tác xây dựng nhất định).
Trần Văn Cường
17
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
Lập kế hoạch của doanh nghiệp phải được xây dựng trên cơ sở năng lực
sản xuất của mình.
Năng lực sản xuất của doanh nghiệp không phải là cố định. Nó luôn biến
động từng năm cùng với quá trình khai thác máy móc - thiết bị hiện có, cùng
với quá trình đổi mới và hiện đại hoá máy móc thiết bị, cùng với quá trình
biến độ lao động kỹ thuật trong doanh nghiệp. Chính vì vậy kế hoạch sản xuất
hàng năm phải được cân đối với năng lực sản xuất hiện có lữ hành, máy móc
thiết bị tiền vốn của từng năm tương ứng và khả năng phát triển năng lực sản
xuất của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
* Các căn cứ khác
Cùng với những căn cứ chủ yếu trên đây, trong khi lập kế hoạch sản xuất
của doanh nghiệp, còn phải dựa vào kết quả và kinh nghiệm sản xuất của năm
trước, dựa vào các tiêu chuẩn, các định mức của Nhà nước, dựa vào các hồ sơ
thiết kế dự toán của từng công trình để tính toán.
Khi dựa vào kết quả sản xuất và kinh nghiệm của năm trước cần đặc biệt
chú ý tới khối lượng dở dang từ năm trước chuyển sang. Khối lượng này bằng
lượng chênh lệch giữa tổng giá trị dự toán với tổng giá trị đã thực hiện.
Đối với các công trình khởi công mới và khối lượng thi công lớn phải thi
công trong nhiều năm thì việc lập kế hoạch sản xuất phải căn cứ vào kế hoạch
dài hạn của doanh nghiệp, thời hạn huy động các hạng mục và sử dụng, thời hạn
xây dựng khống chế hoặc định mức % khối lượng công tác gối đầu của từng loại
công trình mà tính ra được khối lượng công tác gối đầu năm kế hoạch.
1.6 Cấu trúc của một bản kế hoạch
1.6.1 Tóm tắt sơ lược
Phần này được viết ngắn gọn xúc tích và hấp dẫn. Một bản kế hoạch hấp
dẫn sẽ dễ tổ chức thực hiện hơn điều này tùy thuộc vào phần tóm tắt. Thường
bao gồm các vấn đề sau :
- Giới thiệu về doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và ý tưởng cho kế
hoạch tương lai.
Trần Văn Cường
18
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
- Sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp, đặc trưng của sản phẩm.
- Mô tả và lượng hóa khái quát thị trường của doanh nghiệp.
- Tiềm năng tổng quát của công ty: Những điểm mạnh và giải pháp phát
huy điểm mạnh đó.
- Về quản lý: đề cập đến những đổi mới bộ máy quản lý, nhân sự kế
hoạch đào tạo.
- Nhu cầu tài chính: chỉ rõ doanh nghiệp sẽ cần một nguồn vốn là bao
nhiêu, cơ cấu vốn, thời hạn huy động, mục tiêu sử dụng.
- Kết quả dự kiến: đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản doanh thu, lợi nhuận, tỷ
lệ thu hồi vốn đầu tư.
1.6.2 Phần phụ lục
Phần này không chỉ mang tính hình thức mà phụ lục còn là một cấu trúc
giúp người đọc định vị được vấn đề cần tập trung nghiên cứu.
1.6.3 Phần giới thiệu về doanh nghiệp
Phần này giả thuyết phục được người đọc kế hoạch có một bức tranh
logic sinh động, thể hiện bản lĩnh kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời
toát lên được các triết lý được tạo dựng có tính chất bền vững. Cần nêu rõ 3
quá trình :
*Lịch sử phát triển của doanh nghiệp
Mục này cần nêu rõ:
- Thời gian thành lập, nguyên nhân thành lập.
- Sản phẩm, dịch vụ ban đầu và hiện nay.
- Tên gọi và ý tưởng trong đó.
- Hình thức pháp lý và nguyên nhân chọn hình thức pháp lý đó.
- Nguồn lực cần có và cách có chúng trong quá khứ.
- Các mối quan hệ bạn hàng chủ yếu.
- Khái quát mức độ thành công, đưa ra một số chi tiết chủ yếu.
- Các khó khăn đã phải đối phó trong quá khứ.
- Các sự kiện, nhân vật quan trọng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của công ty.
Trần Văn Cường
19
Líp K3QTKDTH
Khoá luận tốt nghiệp
GVHD: Th.S Võ Thy Trang
* Phân tích hiện trạng của doanh nghiệp
- Sản phẩm dịch vụ hiện tại.
- Sự độc đáo.
- Trình độ uy tín, năng lực điều hành của ban quản lý.
- Khó khăn đang phải đối phó.
- Các xu hướng có thể xảy ra từ kết quả trước đây hoặc từ sự phát triển
hiện tại.
- Tóm lược các điểm mạnh – yếu hiện nay theo thứ tự ưu tiên giải quyết.
* Kế hoạch cho tương lai
Các ý tưởng kế hoạch được đúc kết, định hướng cho tất cả các lĩnh vực
hoạt động của doanh nghiệp.
- Sản phẩm nào là chủ yếu trong tương lai
- Các mục tiêu tài chính.
- Phát huy điểm mạnh và xử lý điểm yếu như thế nào.
- Các nhu cầu về phương tiện vật chất.
- Các khó khăn có thể xảy ra và cách thức đối phó.
- Nhân sự và kỹ năng sẽ được xử lý như thế nào.
Hình ảnh của doanh nghiệp sẽ được hình thành theo mô hình sau:
Nhân lực
Lịch sử phát triển
Sản phẩm
Hiện trạng
Hình ảnh
doanh
nghiệp
Các nguồn lực
Kế hoạch cho
tương lai
Các kết quả
Sơ đồ 01: Hình ảnh doanh nghiệp
Trần Văn Cường
20
Líp K3QTKDTH
- Xem thêm -