Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Cạnh tranh là một xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, cạnh tranh không chỉ giới hạn trong phạm
vi quốc gia mà còn vươn ra ngoài
thành cạnh tranh quốc tế, gay gắt và dữ
dội hơn nhiều. Vì vậy cạnh tranh trở
thành mối quan tâm hàng đầu, là nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự tồn tại và
phát triển của mỗi quốc gia, mỗi doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp là một tế bào của
nền kinh tế quốc dân, do đó việc thành
công của quá trình này lại chủ yếu phụ
thuộc vào năng lực cạnh tranh (NLCT)
của các doanh nghiệp. Hiện nay, NLCT của các doanh nghiệp Việt Nam đang ở
mức thấp, xét trên tất cả các tiêu chí như: qui mô kinh doanh nhỏ bé, vốn ít, công
nghệ lạc hậu, năng suất thấp, kinh nghiệm quản lý chưa cao…Việt Nam đã gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới WTO được hơn một năm, bên cạnh những kết quả đạt
được đáng khích lệ thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng vấp phải không ít khó khăn
và thách thức. Vì vậy để tồn tại và phát triển tốt hơn các doanh nghiệp Việt Nam
cần phải tìm cách nâng cao NLCT của chính mình, đây là phương cách hữu hiệu
nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay.
Tổng công ty rau quả, nông sản là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp cũng không nằm ngoài
xu hướng biến động trên. Bước vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trước khi Việt
Nam gia nhập WTO, Tổng công ty cũng đã có kế hoạch và sự chuẩn bị để thích ứng
với sự biến đổi của môi trường kinh doanh sau khi gia nhập WTO. Thực tế đã
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chứng minh sau hơn một năm gia nhập WTO hoạt động kinh doanh của Tổng công
ty đã đạt được những kết quả vượt bậc, doanh thu và lợi nhuận tăng vọt, thị phần
được mở rộng, đời sống công nhân viên được cải thiện…Tuy nhiên, qua một năm
hoạt động Tổng công ty cũng gặp không ít khó khăn và thách thức, cũng bộc lộ
nhiều hạn chế trong quản lý kinh doanh, đặc biệt là NLCT chưa được cải thiện
nhiều. Vì vậy việc nghiên cứu NLCT, các biện pháp để nâng cao NLCT của Tổng
công ty là một vấn đề cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của Tổng
công ty trong thời gian tới.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty rau quả, nông sản được tiếp xúc, tìm
hiểu và nghiên cứu về mô hình tổ chức, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh
doanh, tình hình kinh doanh của Tổng công ty, em đã nắm bắt được một phần thực
trạng hoạt động, cơ hội và thách thức mà Tổng công ty đang phải đối mặt. Trên cơ
sở những kiến thức đã học trên lớp, được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy
Phạm Văn Khôi, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng Tư vấn đầu tư,
xúc tiến thương mại, em đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông
sản” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục dích nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề lý luận về xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng NLCT của Tổng công ty rau quả, nông sản, đánh giá
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế NLCT trong xuất khẩu rau quả của
Tổng công ty rau quả, nông sản.
- Đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao NLCT trong xuất
khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả, nông sản.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Các hoạt động kinh doanh và xuất khẩu của Tổng công ty rau quả, nông sản
+ Thời gian từ năm 2003 đến 2007
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Kết hợp giữa logic, lịch sử, phân tích và tổng hợp
- SWOT: phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức
- Kế thừa những nghiên cứu đã có cũng như khảo sát thực nghiệm thu thập
thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu làm sáng tỏ chủ đề.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chƣơng 1: Lý luận chung về xuất khẩu và NLCT của doanh nghiệp nông nghiệp
Chƣơng 2: Thực trạng NLCT trong xuất khẩu rau quả của Tổng công ty rau quả,
nông sản
Chƣơng 3: Một số giải pháp nâng cao NLCT trong xuất khẩu rau quả của Tổng
công ty rau quả, nông sản
Với kiến thức và trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn đọc để luận văn
tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Khôi, cùng toàn thể
các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các cán
bộ thuộc Tổng công ty rau quả, nông sản đã tạo điều kiện hướng dẫn, giúp đỡ em
hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Huyền
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1.1.1. Xuất khẩu nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản
1.1.1.1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ vượt
qua biên giới một quốc gia thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Theo định nghĩa
này thì hoạt động xuất khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế, là hoạt động
trao đổi mua bán hàng hóa và dịch vụ cho quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm
phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ
của một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc gia.
Như vậy, xuất khẩu nông sản là hoạt động trao đổi nông sản giữa nước này với
nước khác. Cũng có thể hiểu xuất khẩu nông sản là nông sản sản xuất trong nước
được đem đi tiêu thụ ở nước ngoài.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu nông sản
Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản và là phương tiện thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Mục đích của xuất khẩu là khai thác lợi thế của từng quốc gia
trong phân công lao động quốc tế, nhằm mang lại lợi ích cho quốc gia tham gia vào
hoạt động xuất khẩu.
Với Việt Nam xuất khẩu nông sản không chỉ là bộ phận cấu thành trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là hoạt động liên quan đến cân bằng xuất nhập
khẩu quốc gia, đến cuộc sống của hàng triệu người dân nông thôn, đến khả năng
nâng cao đời sống của người dân Việt Nam. Vì vậy mà nhà nước ta luôn nhận thức
đầy đủ vai trò của xuất khẩu nông sản, hoạt động xuất khẩu nông sản đã góp phần
không nhỏ đưa nền kinh tế nước ta ngày một phát triển như hiện nay.
Vai trò của xuất khẩu nông sản thể hiện ở những điểm cụ thể như sau:
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh của mình
Mỗi quốc gia có những lợi thế khác nhau và theo thương mại quốc tế thì mỗi
quốc gia nên tập trung chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế so
sánh sau đó trao đổi với quốc gia khác. Nông sản là một trong những sản phẩm
nông nghiệp không thể thiếu được trong nhu cầu sống của con người. Tuy nhiên,
tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia mà có quốc gia thuận
lợi cho phát triển nông nghiệp nhưng lại có quốc gia không đủ điều kiện để phát
triển nông nghiệp. Do đó nảy sinh nhu cầu trao đổi nông sản giữa các quốc gia với
nhau. Nước ta được thiên nhiên rất ưu đãi để phát triển một nền nông nghiệp đa
dạng, sản phẩm phong phú, bên cạnh đó nguồn nhân lực dồi dào và giàu kinh
nghiệm… do đó xuất khẩu nông sản giúp nước ta tận dụng, khai thác được tối đa
những nguồn lực sẵn có để tạo ra được những sản phẩm có lợi thế so sánh cao.
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu cho nhập khẩu
Nguồn vốn ngoại tệ có thể thu được từ các nguồn sau: xuất khẩu, đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch... nhưng xuất khẩu là nguồn vốn
quan trọng nhất để nhập khẩu. Các loại nông sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc
tế hơn so với các hàng hóa nông nghiệp. Vì thế xuất khẩu nông sản là giải pháp
quan trọng tạo nguồn ngoại tệ cho sự phát triển đất nước. Đặc biệt đối với những
nước đang phát triển rất cần ngoại tệ để trang bị máy móc thiết bị hiện đại được
nhập từ các nước phát triển về.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển
Xuất khẩu cũng có nghĩa là bán hàng ra nước ngoài, xuất khẩu nông sản là bán
hàng nông sản ra nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa muốn bán được nhiều hàng thì
việc sản xuất hàng hóa nông sản phải theo nhu cầu của thị trường, của người tiêu
dùng. Hàng hóa sản xuất ra phải có tính cạnh tranh cao, chất lượng tốt, giá thành
cạnh tranh, mẫu mã sản phẩm đa dạng, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm. Do đó khi hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu
hàng nông sản nói riêng phát triển thì nó có tác động ngược trở lại đến sự chuyển
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng thị trường, hiện đại, chuyển từ sản xuất tự túc tự cấp sang sản xuất hàng
hóa đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết các vấn đề công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là ở nông thôn
Xuất khẩu nông sản phát triển thì kéo theo đó là ngành công nghiệp chế biến
và ngành trồng trọt phát triển, khi đó sẽ giải quyết được nhiều công ăn việc làm, cải
thiện, nâng cao thu nhập và đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nông dân và
cư dân ở nông thôn.
- Xuất khẩu có vai trò đẩy mạnh, tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại phát triển sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi để phát triển nền
kinh tế quốc dân, đặc biệt là hoạt động thương mại quốc tế. Đến lượt mình khi
thương mại quốc tế, cụ thể là xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ phát triển sẽ là
yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển. Xuất khẩu hàng
nông sản là một trong những ngành góp tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hàng xuất
khẩu của Việt Nam, do dó nó có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối
ngoại của nước ta, qua đó nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chính
Xuất khẩu thường được thực hiện dưới một số hình thức chủ yếu sau đây:
- Hình thức xuất khẩu trực tiếp: Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một nước
này cho một nước khác có nhu cầu tiêu dùng mà không qua một tổ chức trung gian
nào. Hình thức xuất khẩu này chủ yếu thông qua việc mở các văn phòng đại diện để
bán sản phẩm, giới thiệu sản phẩm hoặc đầu tư trực tiếp sang nước khác để tận dụng
các lợi thế đặc biệt của nước đó nhằm nâng cao tính cạnh tranh và lợi nhuận.
- Hình thức xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương
mại, qua đó sẽ chia sẻ bớt rủi ro cho nhà xuất khẩu trung gian. Tuy nhiên, qua hình
thức này nhà xuất khẩu trực tiếp sẽ phải sẻ chia một phần lợi nhuận cho trung gian
nên lợi nhuận của họ cũng giảm.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Hình thức gia công quốc tế: Gia công quốc tế là hoạt động mà bên đặt gia
công giao hoặc bán toàn bộ nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia
công. Bên đặt gia công phải trả cho bên gia công một khoản gọi là phí gia công.
- Hình thức tái xuất khẩu: Là xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hóa
trước đây đã nhập khẩu nhưng không gia công chế biến. Hình thức này hưởng lợi
nhuận chênh lệch từ giá mua đi với giá bán lại.
- Hình thức chuyển khẩu: Là hàng hóa được chuyển từ một nước sang một
nước thứ ba thông qua một nước khác.
- Hình thức xuất khẩu tại chỗ: Là hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài
trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Hình thức này tiết kiệm được chi phí vận
chuyển nên lợi nhuận có thể lớn.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động xuất khẩu
1.1.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
* Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu. Muốn xuất khẩu được thì phải có người tiêu dùng, cụ thể là nhu cầu và sức
mua của người tiêu dùng. Mà sức mua lại ảnh hưởng bởi các thông số kinh tế như
thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất, giá cả sản xuất… Một số yếu tố cơ bản để phản
ánh kích thước của thị trường tiềm năng đó là quy mô, cơ cấu và xu hướng phát
triển của dân số, xu hướng tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng GDP so với tốc độ tăng
dân số để dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó.
*Các yếu tố tự nhiên
Đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh sản phẩm nông nghiệp thì yếu tố tự
nhiên được coi là yếu tố quyết định đến việc phát triển hay không của lĩnh vực nông
nghiệp bởi nó quyết định đến số lượng, chất lượng, đến tính kịp thời của nông sản
hàng hóa… Điều này đặc biệt đúng với nền nông nghiệp của Việt Nam, bởi điều
kiện sản xuất kém, khoa học công nghệ hiện đại chậm được ứng dụng hoặc đã được
ứng dụng nhưng rất hạn chế, do đó việc sản xuất vẫn phụ thuộc vào điều kiện tự
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nhiên rất nhiều. Vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản
của doanh nghiệp.
*Môi trường văn hóa - xã hội
Môi trường văn hóa - xã hội là môi trường hình thành nên các giá trị, những
tiêu chuẩn, các niềm tin cơ bản, mỗi một môi trường văn hóa – xã hội khác nhau sẽ
có các đặc tính tiêu dùng khác nhau, nên sẽ có các yêu cầu khác nhau về tiêu chuẩn
của các sản phẩm. Do đó các nhà xuất khẩu khi xuất khẩu phải chọn lựa các mặt
hàng phù hợp với từng người tiêu dùng ở từng môi trường văn hóa – xã hội khác
nhau, có như vậy mới có thể xuất khẩu được nhiều nhất, hiệu quả nhất và mang lại
lợi nhuận lớn nhất cho nhà xuất khẩu.
* Môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật
Mỗi thể chế chính trị khác nhau, mỗi chính phủ hay nhà lãnh đạo, mỗi giai
đoạn phát triển khác nhau thì có chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến lĩnh vực xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Do đó các
nhà xuất khẩu của các nước khác phải tìm hiểu và nghiên cứu rất kỹ vấn đề này.
Như pháp luật của mỗi nước sẽ qui định những mặt hàng nào được và không được
xuất khẩu, nhập khẩu, những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, về bảo vệ môi
trường, môi trường pháp lý có ổn định không, thuận lợi không… Đặc biệt là định
hướng xuất khẩu của chính phủ và các công cụ quản lý của nhà nước. Nhà xuất
khẩu phải nghiên cứu yếu tố này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà xuất
khẩu.
Trong lĩnh vực xuất khẩu các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử
dụng, điều tiết hoạt động này gồm: Thuế xuất nhập khẩu, các công cụ phi thuế quan
như: hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, giấy phép xuất khẩu, những qui định
về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh…
1.1.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường bên trong
Yếu tố bên trong doanh nghiệp là những yếu tố nội tại của doanh nghiệp, là
những yếu tố mà doanh nghiệp có thể chủ động và kiểm soát được, như yếu tố về
vốn, công nghệ sản xuất, mô hình và phương thức quản lý, nguồn nhân lực…
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Một doanh nghiệp làm ăn giỏi, hiệu quả phải biết cách phát huy thế mạnh từ
tiềm lực sẵn có và hạn chế tối đa những yếu điểm và hạn chế trong hoạt động kinh
doanh.
- Vốn: Là điều kiện không thể thiếu để thực hiện quá trình sản xuất và kinh
doanh, đó là yếu tố hết sức quan trọng cấu thành và thể hiện năng lực sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Con người: Là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp không có yếu tố này thì không tồn tại doanh nghiệp.
- Công nghệ: Là yếu tố trực tiếp nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản
phẩm, tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Mô hình và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp cũng là một trong
những yếu tố góp phần quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Ngoài các yếu tố trên còn có rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến hoạt động
một doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng như: nguồn hàng,
mức độ tin cậy của nguồn cung cấp, sự cạnh tranh về giá, sự am hiểu về thị trường
và khách hàng…
Các yếu tố trên có ảnh hưởng quyết định đến khả năng khai thác và tận dụng
lợi thế từ thị trường. Nếu phát huy tốt tiềm năng của doanh nghiệp sẽ cho phép tận
dụng tối đa thời cơ với chi phí thấp để mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
1.1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
* Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị truờng, là
nghiên cứu về sức cung và cầu của thị trường hàng hóa nói. Việc nghiên cứu thị
trường được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết,
tức là đi sâu nghiên cứu cung cầu thị trường.
Nghiên cứu cung: Là nghiên cứu về khối lượng, chất lượng, chủng loại, giá cả
của hàng hóa đã đang bán trên thị trường của chính mình và của các đối thủ cạnh
tranh.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nghiên cứu cầu: Là nghiên cứu về nhu cầu tiêu dùng của thị trường, để trả lời
các câu hỏi: người tiêu dùng hàng hóa của mình là ai, chất lượng và yêu cầu của
người tiêu dùng về sản phẩm, khả năng thanh toán, quy mô của thị trường, đặc tính
của thị trường, lý do mua hàng, nhịp điệu mua hàng, ai đó có khả năng trở thành
người tiêu dùng hàng hoá của công ty, sản phẩm của công ty có kéo dài được chu kì
sống hay không?...
Ngoài ra chúng ta phải phân tích điều kiện của thị trường và nghiên cứu các
vấn đề về cạnh tranh. Nghĩa là phải phân tích cụ thể tất cả những điều kiện mà
thương mại hoá sản phẩm có thể gặp phải như: cơ chế quản lý, con người, kinh tế,
tâm lí…Bên cạnh đó cần nghiên cứu nghiên cứu các yếu tố hình thành giá, các nhân
tố tác động và dự đoán những diễn biến của giá cả thị trường.
*Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Đảm bảo được nguồn hàng ổn định với chất lượng tốt sẽ là điều kiện tạo nên
uy tín với các bạn hàng trên thế giới. Để làm được điều này doanh nghiệp phải dự
báo được xu hướng biến động của thị trường để hạn chế rủi ro trong kinh doanh, để
tạo được nguồn hàng ổn định trong khoảng thời gian hợp lí, làm cơ sở vững chắc
cho việc kí kết và thực hiện các hợp đồng.
Đồng thời tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu, đây là việc doanh
nghiệp nông nghiệp xây dựng hệ thống thu mua thông qua các đại lý và chi nhánh
của mình. Phải lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua để tạo nguồn hàng ổn định
cho xuất khẩu.
*Giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng
Căn cứ vào mặt hàng dự định xuất khẩu, đối tượng, thời gian giao dịch và
năng lực người tiến hành giao dịch mà doanh nghiệp lựa chọn phương thức giao
dịch phù hợp và thực hiện ký hợp đồng.
Đàm phán trong kinh doanh ở bất kì loại hình nào đều là một nghệ thuật.
Trong kinh doanh hợp tác làm ăn với nước ngoài các chủ thể đàm phán từ các quốc
gia khác nhau, với ngôn ngữ và tập quán khác nhau làm cho việc đàm phán trở nên
phức tạp hơn. Quá trình đàm phán về các điều kiện của hợp đồng ngoại thương là
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
cơ sở để đi đến kí kết hợp đồng. Bên cạnh đó, những tranh chấp trong thương mại
quốc tế đòi hỏi chi phí cao…Chính vì vậy, đàm phán trong kinh doanh xuất nhập
khẩu càng đòi hỏi phải kinh tế, phải áp dụng một cách khéo léo nghệ thuật đàm
phán thì mới nhanh chóng đạt được thành công như mong muốn.
Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Về thực chất, hợp đồng xuất khẩu là những thỏa
thuận và các điều kiện mua bán hàng hóa, khối lượng hàng, chất lượng hàng hóa,
giá cả, điều kiện giao nhận, các điều khoản thanh toán… Giữa doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu và các doanh nghiệp, khách hàng cụ thể. Những thỏa thuận này được
thể hiện trong các văn bản hợp đồng nhất định. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu
là căn cứ pháp luật ràng buộc, buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ của mình
cũng như được hưởng các quyền lợi nhất định. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng
xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các khoản thỏa thuận trước khi ký kết hợp
đồng xuất khẩu.
Trước khi ký kết hợp đồng cần chú ý đến các khía cạnh: Tính hợp pháp của
hợp đồng xuất khẩu; phải chú ý đến các nội dung, các điều khoản của hợp đồng vì
điều này là quan trọng nhất đối với một hợp đồng.
* Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hóa với khách hàng, mỗi một
doanh nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm
cố gắng không để xảy ra những sai sót, những thiệt hại đáng tiếc, hạn chế tối đa
những rủi ro có thể xảy ra.
* Phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu
Việc phân tích đánh giá hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là hết sức
quan trọng và cần thiết. Nó cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả thực
hiện của mỗi hợp đồng xuất khẩu cũng như mỗi giai đoạn hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Nhờ cách đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử
phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo. Để đánh giá hiệu quả
hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp sử dụng các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu
cả về mặt địmh tính và mặt định lượng.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP NÔNG NGHIỆP
1.2.1. Cạnh tranh
Trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào của đời sống kinh tế - xã hội cũng đều có
yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh là một động lực góp phần cho xã hội loài người tồn
tại và phát triển, không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Đó là qui
luật tồn tại của muôn loài. Nhưng thế nào là cạnh tranh? Cho đến nay có nhiều định
nghĩa khác nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu thông thường, cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể tìm mọi
biện pháp để vượt lên so với các đối thủ về một lĩnh vực nhất định. Trong nhiều
trường hợp quá trình này được hiểu như là sự thi đua hay ganh đua. Cạnh tranh
cũng có thể được hiểu là quá trình tạo ra sự nổi trội của chủ thể so với các đối thủ.
Đây là một quá trình sáng tạo và đổi mới có tính chất toàn diện.
Về mặt lý luận, tùy từng giai đoạn, cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu mà
có quan điểm khác nhau về cạnh tranh. Theo giáo trình “Kinh tế chính trị MácLênin” (Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2005) thì “Cạnh tranh là sự ganh đua,
sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa nhằm giành
giật những điều kiện có lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu được lợi
nhuận cao nhất”. Còn trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các
nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành ưu thế trên cùng một loại tài nguyên,
một loại sản phẩm hoặc một loại khách hàng về phía mình bằng “ mọi biện pháp, cả
nghệ thuật lẫn thủ đoạn”. Trong khi đó, P.Samuelson cho rằng: “cạnh tranh là sự
đối đầu giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị
phần”.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các quốc gia, các
ngành, các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh diễn ra ngày càng quyết liệt và
gay gắt, người ta thường nói “ thương trường như chiến trường” để miêu tả sự khốc
liệt của cạnh tranh. Trong cơ chế thị trường muốn phát triển sản xuất hàng hóa thì
phải chấp nhận cạnh tranh, vì cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nền kinh tế thị trường, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh
tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Tham gia vào cạnh tranh
gồm: chủ thể kinh tế, đối tượng tham gia cạnh tranh (các sản phẩm, hàng hoá và
dịch vụ), môi trường cạnh tranh (thị trường cạnh tranh).
* Chức năng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác,
song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực. Đối với nền
kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau:
+ Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh cung-cầu và là động lực thúc đẩy đổi mới:
Khi cung hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm
cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanh có đủ khả năng công
nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán mới tồn tại. Do vậy
cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên
tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm
trên thị trường, giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó
người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao
năng lực sản xuất của những cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực làm tăng thêm
lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã
hội.
+ Hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi hiệu quả nhất :
Mục đích của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế
để hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào” và nâng cao giá của “đầu ra” sao cho mức chi
phí thấp nhất, giành được lợi nhuận cao nhất. Như vậy trên phương diện toàn xã hội
cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở
thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong cạnh tranh tất yếu
sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh
nghiệp bị phá sản do làm ăn không hiệu quả. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển
sang nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách hiệu quả hơn.
+ Tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến động của cầu và
công nghệ sản xuất
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn quan tâm đến việc cải tiến công
nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành sản phẩm và trên cơ sở đó hạ giá bán của sản phẩm.
* Các công cụ cạnh tranh chủ yếu:
- Cạnh tranh bằng sản phẩm :
+ Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm:
Tùy theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc điểm khác nhau để lựa chọn
chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác nhau. Trên thương trường, nếu nhiều
hàng hóa có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẽ sẵn sàng
mua hàng hóa nào có chất lượng cao hơn. Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này
thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường.
+ Cạnh tranh bằng bao bì, nhãn mác của sản phẩm:
Khi sản xuất hàng hóa ngoài chất lượng sản phẩm, người sản xuất còn phải
quan tâm đến bao bì của sản phẩm. Bao bì phải đảm bảo kỹ thuật, vệ sinh, ngoài ra
còn phải thiết kế bắt mắt, đa dạng về mẫu mã… Có như vậy mới tạo ra tính cạnh
tranh cao của sản phẩm hàng hóa trên thị trường.
- Cạnh tranh bằng giá :
Giá là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh, thường được sử dụng trong
giai đoạn đầu của doanh nghiệp khi bước vào một thị trường mới. Nếu hai sản phẩm
có công dụng, chất lượng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa nào có giá
rẻ hơn.
Để đạt được mức giá bán sản phẩm thấp, có tính cạnh tranh cao thì doanh
nghiệp phải tìm cách nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ, hợp lý hóa sản xuất… Đây là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ
thực hiện trong cạnh tranh vì hạ giá ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp và
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thường được áp dụng vào cuối vòng đời của sản phẩm. Vì vậy doanh nghiệp cần
phải lựa chọn thời điểm thích hợp để tiến hành sử dụng giá cả làm công cụ cạnh
tranh.
- Cạnh tranh bằng phân phối và dịch vụ sau bán hàng:
Ngày nay các doanh nghiệp thường có một cơ cấu sản phẩm rất đa dạng,
phong phú để đáp ứng tốt nhất cho những nhu cầu khác nhau của những người tiêu
dùng khác nhau. Với mỗi sản phẩm khác nhau, mỗi nhóm khách hàng khác nhau thì
sẽ có tương ứng các hình thức và các kênh phân phối tương ứng. Việc định được
kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí dành
cho tiêu thụ sản phẩm.
Doanh nghiệp cần có hệ thống bán hàng phong phú, đặc biệt là hệ thống các
kho bãi, các trung tâm bán hàng và giới thiệu sản phẩm để cung cấp tốt nhất hàng
hóa đến tay người tiêu dùng. Bên cạnh đó cần phải có các dịch vụ bán hàng và sau
bán hàng hợp lý, hiệu quả hỗ trợ tốt nhất cho việc bán hàng, đồng thời cần kết hợp
hợp lý giữa phương thức bán hàng và phương thức thanh toán.
1.2.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp
Trong cạnh tranh nảy sinh ra kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả
năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có khả
năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh hay sức
cạnh tranh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh (NLCT) song khi nói
đến thường nhìn nhận dưới 4 cấp độ: NLCT quốc gia, NLCT của ngành, NLCT của
doanh nghiệp, NLCT của sản phẩm.
Khi nói đến NLCT của một quốc gia, người ta thường nói tới khả năng cải
thiện thu nhập, tạo việc làm cho dân cư hoặc khả năng tăng năng suất tổng hợp các
yếu tố của nền kinh tế quốc dân… thông qua các chỉ số lợi thế so sánh hữu hiệu, chi
phí nguồn lực trong nước, tỷ giá hối đoái hữu hiệu…
NLCT sản phẩm được nhận biết qua lợi thế cạnh tranh của sản phẩm đó với
các sản phẩm khác cùng loại. Một sản phẩm mà có chi phí trên một đơn vị thấp hơn,
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
sản phẩm có chất lượng cao hơn so với đối thủ cạnh tranh sản xuất sản phẩm đó thì
doanh nghiệp đã tạo ra sản phẩm có NLCT. Lợi thế của sản phẩm bao gồm các yếu
tố bên trong và các yếu tố bên ngoài tác động đến. Đó là giá cả, chất lượng, hình
thức, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng…
Theo Fafchamps, NLCT của một doanh nghiệp là năng lực của doanh nghiệp
đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên
thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất
lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp hơn
thì được coi là có năng lực cạnh tranh cao hơn.
Randall lại cho rằng NLCT của doanh nghiệp là năng lực giành được và duy
trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Phillip Laser, NLCT của một doanh nghiệp trong một lĩnh vực được xác
định bằng những thế mạnh mà doanh nghiệp có được hoặc huy động được để có thể
cạnh tranh thắng lợi.
Một quan niệm khác cho rằng “Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực
lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ trong việc sản xuất và cung ứng hàng
hóa”.
Như vậy trên thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm cụ thể khác nhau về NLCT
của doanh nghiệp. Tuy nhiên các quan niệm đều đề cập đến hai vấn đề cơ bản khi
nói về cạnh tranh là chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cho nhà sản xuất, kinh
doanh, trong đó mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất. Có thể nói rằng,
cạnh tranh của doanh nghiệp là tập hợp những hành vi nhằm giành lấy những lợi thế
để thực hiện phương án kinh doanh thu được lợi nhuận cao nhất trong những điều
kiện khách quan cụ thể nhất định.
NLCT của doanh nghiệp là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần
của chủ thể trong sản xuất kinh doanh hàng hóa với mức độ có thể đạt được hiệu
quả cao nhất trong những điều kiện khách quan cụ thể nhất định.
Từ đó có thể thấy rằng, hai tiêu thức cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là: thị phần của doanh nghiệp và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh những sản
phẩm nông nghiệp. Doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước là loại hình doanh nghiệp
nông nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu,
là pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
do nhà nước giao. Do nông nghiệp có những đặc điểm đặc thù rất khác biệt so với
những ngành khác nên khi xét đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông
nghiệp cần phải xét đến yếu tố này.
1.2.3. Mối quan hệ giữa NLCT của sản phẩm và NLCT của doanh nghiệp
Nói tới khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế của một quốc gia phải xem
xét trên 4 mặt: khả năng cạnh tranh của từng ngành, từng mặt hàng và loại hình dịch
vụ, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của cả quốc gia.
Giữa các mặt trên gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó
NLCT của doanh nghiệp và NLCT của sản phẩm có liên quan chặt chẽ với nhau
nhất.
NLCT của sản phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản
phẩm khác đồng nhất hoặc khác biệt, có thể do đặc tính, chất lượng sản phẩm hoặc
giá cả sản phẩm. NLCT của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh
tranh để duy trì và phát triển chính bản thân họ. Thông thường người ta đánh giá
khả năng này thông qua các yếu tố nội tại của doanh nghiệp, trong đó các vấn đề về
sản phẩm là những vấn đề có tính chất quyết định đến NLCT của doanh nghiệp. Do
vậy, nâng cao NLCT của sản phẩm vừa là một trong những bộ phận cấu thành, vừa
là một trong những mục tiêu của nâng cao NLCT của doanh nghiệp.
Mặc dù thường phân biệt NLCT của sản phẩm và NLCT của doanh nghiệp,
nhưng nếu trên cùng một thị trường, có thể nói NLCT của sản phẩm và NLCT của
doanh nghiệp rất gần với nhau. Khi nói với NLCT của doanh nghiệp người ta
thường gắn nó với một số sản phẩm nhất định nào đó.
1.2.4. Các yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp
NLCT của doanh nghiệp được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: Vốn, trình độ
công nghệ sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, chất lượng nguồn nhân lực… Các yếu
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tố trên có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra năng lực cạnh
tranh cao nhất cho sản phẩm.
1.2.4.1. Trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp
Trình độ tổ chức quản lý là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên
tính cạnh tranh cao của sản phẩm. Muốn tổ chức và quản lý tốt thì trước hết doanh
nghiệp phải có ban lãnh đạo giỏi vừa có tâm, có tầm và có tài. Ban lãnh đạo của một
tổ chức có vai trò rất quan trọng, là bộ phận điều hành, nắm toàn bộ nguồn lực của
tổ chức, vạch ra đường lối chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động, hướng dẫn,
đôn đốc, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các phòng, ban để đưa hoạt động của
tổ chức do mình quản lý đạt hiệu quả cao nhất. Ban lãnh đạo có vai trò rất quan
trọng như vậy, nên phải chọn lựa người lãnh đạo, người đứng đầu ban lãnh đạo đảm
bảo đủ các tiêu chuẩn để có thể điều hành quản lý doanh nghiệp hoạt động đạt hiệu
quả cao. Nhìn chung người lãnh đạo giỏi là người có kỹ năng chuyên môn, kỹ năng
về quan hệ với con người, hiểu con người và biết thu phục lòng người, có kỹ năng
nhận thức chiến lược, tức là nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường kinh doanh để
dự báo và xây dựng chiến lược thích ứng.
Để tổ chức quản lý tốt thì vấn đề thứ hai mà doanh nghiệp cần phải có là một
phương pháp quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Đó là phương
pháp quản lý hiện đại mà các phương pháp đó đã được nhiều doanh nghiệp trên thế
giới áp dụng thành công như phương pháp quản lý theo tình huống, quản lý theo
chất lượng…
Ngoài ra để tổ chức quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh
nghiệp cần phải có hệ thống tổ chức gọn nhẹ. Hệ thống tổ chức gọn nhẹ là hệ thống
tổ chức ít cấp, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực
được phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng
suất cao.
Mặt khác, doanh nghiệp cần có văn hóa doanh nghiệp tốt, vững mạnh và có
bản sắc, cố kết được các thành viên trong tổ chức nhìn về một hướng, tạo ra một tập
thể mạnh. Nghĩa là có cam kết chất lượng minh bạch giữa doanh nghiệp và xã hội,
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải theo pháp luật, có lương tâm và đạo đức
trong kinh doanh, làm kinh tế giỏi và tích cực tham gia các hoạt động xã hội; môi
trường bên trong và bên ngoài phải xanh, sạch, đẹp…
1.2.4.2. Nguồn lực của doanh nghiệp
- Nguồn tài chính:
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, công nghệ,
lao động… phát sinh trong quá trình kinh doanh dưới hình thức giá trị. Hoạt động
sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến tình hình tài chính, ngược lại tình hình tài chính
tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay cản trở quá trình sản xuất kinh doanh.
Trước hết năng lực tài chính của một doanh nghiệp được thể hiện ở qui mô
nguồn vốn tự có, năng lực huy động các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh
doanh và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đó. Một doanh nghiệp có NLCT là doanh
nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều
kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý. Đồng thời doanh nghiệp phải có kế
hoạch sử dụng đồng vốn có hiệu quả để phát triển lợi nhuận, phải hạch toán các chi
phí một cách rõ ràng để xác định được hiệu quả một cách chính xác.
- Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Trình độ của nguồn nhân
lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của nhân
viên, công nhân; trình độ nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao.
Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cần có ban lãnh đạo giỏi. Song
như thế chưa đủ, mà còn cần có đội ngũ lao động với trình độ tay nghề chuyên sâu,
có năng lực sáng tạo, trung thực trong công việc. Họ chính là những người thực
hiện những ý tưởng, chiến lược và chiến thuật kinh doanh của đội ngũ lãnh đạo cấp
trên, những người tạo nên chất lượng và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Trình độ công nghệ:
Để có NLCT doanh nghiệp tốt thì phải được trang bị bằng công nghệ sản xuất
tiên tiến hiện đại. Công nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian
tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu thấp, năng suất cao, chất
lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng công nghệ hiện đại
giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản
phẩm tốt, do đó làm NLCT của sản phẩm tăng.
1.2.4.3. Các yếu tố liên quan đến NLCT của sản phẩm
a) Chất lượng sản phẩm :
* Quan niệm chất lượng sản phẩm
Để hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm là vấn đề không đơn giản. Có thể
nói chất lượng sản phẩm là một vấn đề không mới và được sử dụng rộng rãi hàng
ngày, nhưng chất lượng sản phẩm là một phạm trù rất rộng và phức tạp, nên có
nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng chất lượng sản phẩm được phản
ánh bởi các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm đó. Theo quan điểm này chất lượng
sản phẩm phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của các thuộc tính của nó. Quan
niệm này đã đồng nghĩa chất lượng sản phẩm với số lượng các thuộc tính hữu ích
của sản phẩm.
Theo quan niệm của các nhà sản xuất thì chất lượng là sự hoàn hảo và phù hợp
của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, qui cách đã được
xác định trước. Tuy nhiên quan niệm chất lượng này chỉ phản ánh mối quan tâm của
người sản xuất đến việc đạt được những chỉ tiêu chất lượng đặt ra mà chưa quan
tâm đầy đủ đến các yêu cầu của người tiêu dùng.
Xuất phát từ người tiêu dùng chất lượng được định nghĩa là sự phù hợp của
sản phẩm với mục đích hoặc yêu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm này cho thấy
có sự quan tâm đầy đủ của các doanh nghiệp hơn đến nhu cầu của người tiêu dùng.
Nó tạo nên sự cân bằng giữa thỏa mãn khách hàng với chất lượng.