Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chương 1: .......................................................................................................... 5
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP .................................................................... 5
1.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ............. 5
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh ......................................................................... 5
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh ............................................................... 7
1.2. Nội dung cạnh tranh ................................................................................. 10
1.2.1. Các công cụ cạnh tranh ......................................................................... 10
1.2.2. Các hình thức cạnh tranh....................................................................... 13
1.2.3. Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh ............................................. 17
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp .... 18
1.3.1. Nhân tố bên trong .................................................................................. 19
1.3.2. Nhân tố bên ngoài ................................................................................. 21
1.4. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp .................. 26
1.5. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp ...... 32
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CANH TRANH CỦA CÔNG
TY TNHH MAY XUẤT KHẨU THÁI HƯNG ............................................. 33
2.1. Tổng quan về Công ty TNHH may xuất khẩu Thái Hưng ....................... 33
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty ..................................... 33
2.1.2. Tổ chức bộ máy quản trị và nguồn nhân lực của công ty ..................... 35
2.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty ........................................ 41
2.1.4. Tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong vài năm gần
đây: .................................................................................................................. 42
2.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH may xuất khẩu Thái
Hưng: ............................................................................................................... 44
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
i
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
2.2.1. Nguồn tài chính ..................................................................................... 44
2.2.2. Máy móc thiết bị, công nghệ ................................................................. 47
2.2.3. Nguồn nhân lực ..................................................................................... 49
2.2.4 Chất lượng sản phẩm.............................................................................. 51
2.2.5. Thị phần sản phẩm ................................................................................ 51
2.2.6. Chất lượng sản phẩm............................................................................. 51
2.2.7. Thương hiệu .......................................................................................... 52
2.3. Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty .............................. 52
2.3.1. Thành tựu đạt được ............................................................................... 53
2.3.2. Hạn chế:................................................................................................. 53
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế .......................................................... 54
CHƯƠNG 3: NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO CÔNG TY
TNHH MAY XUÂT KHẨU THÁI HƯNG ................................................... 57
3.1. Định hướng phát triển cho Công ty TNHH may xuất khẩu Thái Hưng
trong trong giai đoạn 2015-2020 ..................................................................... 57
3.1.1. Định hướng phát triển sản xuất. ............................................................ 57
3.1.2. Định hướng phát triển của Công ty TNHH may xuất khẩu Thái Hưng ..... 57
3.2. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty TNHH may xuất
khẩu Thái Hưng ............................................................................................... 59
3.2.1. Giải pháp về hoạt động kinh doanh ...................................................... 59
3.2.2. Giải pháp về nguồn nhân lực ................................................................ 60
3.2.3. Giải pháp về vốn ................................................................................... 62
3.2.4. Giải pháp về công nghệ ......................................................................... 64
3.2.5. Giải pháp về thị trường ......................................................................... 64
3.2.6. Nâng cao hiệu quả công tác quản trị chất lượng ................................... 67
3.3. Một số kiến nghị....................................................................................... 68
3.3.1. Về phía nhà nước .................................................................................. 68
3.3.2. Về phía chính quyền địa phương .......................................................... 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 70
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
ii
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế đã gần 20 năm và
hội nhập trên cả 3 phương diện: đơn phương, song phương và đa phương. Đặc
biệt, năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức thương mại thế giới WTO, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp để
phát triển thị trường, huy động vốn từ nước ngoài để phát triển công nghệ,
phát triển sản phẩm. Bên cạnh những thuận lợi các doanh nghiệp cũng gặp
không ít khó khăn để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh
đầy khốc liệt và không cân sức về nhiều mặt như vốn, công nghệ, trình độ
quản lý,...
Với khả năng cạnh tranh tốt, điều này giúp cho doanh nghiệp đứng
vững hoặc vượt qua một cuộc cạnh tranh dễ dàng hơn. Nó có thể làm chậm
hoặc ngưng sự xói mòn của thị trường. Nó tạo ra một thương hiệu mạnh và
làm tăng sức lôi cuốn của công ty đối với các thị trường, mang lại các giá trị
hữu hình khác cho doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt
Nam phải khẩn trương tạo thế và lực, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình,
khẳng định vị trí của doanh nghiệp mình trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh trở thành điều kiện tiên quyết sống còn
đối với mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Đòi hỏi các doanh nghiệp
và nhà nước phải có những giải pháp, chính sách đúng đắn kịp thời. Công ty
TNHH may xuất khẩu Thái Hưng cũng không thể ngoại lệ trước những vấn
đề trên. Vì vậy, em xin trình bày đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của công ty TNHH may xuất khẩu Thái Hưng”.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
1
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH may xuất
khẩu Thái Hưng, đánh giá những thành công đã đạt được, hạn chế và nguyên
nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
- Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH
may xuất khẩu Thái Hưng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Luân văn đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực kinh
doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của công ty.
- Phạm vi thời gian: Luân văn sử dụng số liệu thời gian từ năm 2013 đến
năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được hoàn thiện bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu
thực tế, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp so sánh nhằm tạo hướng tiếp cận phù hợp với đối tượng và mục tiêu
nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Chương 1: Những lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH may
xuất khẩu Thái Hưng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH may
xuất khẩu Thái Hưng.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
2
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
Sau thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế tại Công ty, với sự hướng dẫn
tận tình của Thầy giáo, Ts. Nguyễn Xuân Điền, cùng với sự giúp đỡ của các
đồng chí lãnh đạo, các phòng ban nghiệp vụ có liên quan đã giúp em hoàn
thành bản Luận văn tốt nghiệp.
Tuy nhiên do trình độ còn nhiều hạn chế nên bản Luận văn không tránh
khỏi những sai sót, kính mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, giúp cho
em nhìn nhận và phân tích sự việc chính xác hơn để làm cơ sở cải tiến các
phương pháp có hiệu quả hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
3
Lớp: CQ49/31.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện Tài chính
Chương 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái
niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả
phạm vi doanh nghiệp, phạm vi ngành, phạm vi quốc gia hoặc phạm vi khu
vực liên quốc gia vv..điều này chỉ khác nhau ở chỗ mục tiêu được đặt ra ở chỗ
quy mô doanh nghiệp hay ở quốc gia mà thôi. Trong khi đối với một doanh
nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh
quốc gia hay quốc tế, thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống
và phúc lợi cho nhân dân vv..
Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch". Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật
cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận
bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa
trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hành
hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu đựơc lợi nhuận.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là "Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình”
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1): “Cạnh tranh (trong kinh doanh)
là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
5
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu,
nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn
kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa
các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường”.
Hai tác giả này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo.
Theo tác giả Đoàn Hùng Nam trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp thời hội nhập cho rằng: “Cạnh tranh là một quan hệ kinh tế, tất
yếu phát sinh trong cơ chế thị trường với việc các chủ thể kinh tế ganh đua gay
gắt để giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm
chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng để thu được lợi nhuận cao nhất. Mục
đích cuối cùng trong cuộc cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích đối với doanh nghiệp
và đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”.
Từ những định nghĩa và các cách hiểu không giống nhau trên có thể rút
ra các điểm hội tụ chung sau đây:
Vậy cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh
tế có chức năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp
để giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các
mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng….
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh là lành mạnh, hoàn
hảo và nó giúp cho các chủ thể tham gia đạt được tất cả những gì mình mong
muốn. Trong thực tế, để có lợi thế trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã
sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh để làm tổn hại đến đối
thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt tiêu
lẫn nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược.
Giống như bất kỳ sự vật hiện tượng nào khác, cạnh tranh cũng luôn tồn
tại hai mặt của một vấn đề : mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ở khía cạnh tích
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
6
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
cực, cạnh tranh là nhân tố quan trọng góp phần phân bổ các nguồn lực có hạn
của xã hội một cách hợp lý, trên cơ sở đó giúp nền kinh tế tạo lập một cơ cấu
kinh tế hợp lý và hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp phần
thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, dẫn đến gia tăng năng suất sản
xuất xã hội, sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn tối
đa nhu cầu xã hội thông qua các sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá thành
hạ, mẫu mã đa dạng…
Ở góc độ tiêu cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích chạy theo lợi
nhuận mà bất chấp tất cả thì song song với lợi nhuận được tạo ra, có thể xảy
ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội như môi trường sinh thái bị hủy
hoại, nguy hại cho sức khỏe con người, đạo đức xã hội bị xuống cấp, nhân
cách con người bị tha hóa. Nếu xảy ra tình trạng này, nền kinh tế quốc gia sẽ
phát triển một cách lệch lạc và không vì lợi ích của số đông.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu
những năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất
lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế.
Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh
nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh
nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong “Sách trắng về năng lực
cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994). Năm 1998, Bộ thương mại và Công
nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh
là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào đúng thời
điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu
quả hơn các doanh nghiệp khác”.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
7
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một
cách thống nhất. Có nhiều cách quan niệm về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Dưới đây là một số cách quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá
phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ so với các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu
trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách
năng lực cạnh tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng
lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới… Ủy ban Quốc gia
về hợp tác kinh tế có trích dẫn khái niệm năng lực cạnh tranh theo Từ điển
Thuật Ngữ chính sách thương mại (1997), theo đó, năng lực cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về
năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất
định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ
chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố
sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thước
đo duy nhất về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn
với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh
tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu (2005) cũng có ý kiến tương tự:
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
8
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có
khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với năng lực kinh doanh. Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực
cạnh tranh vẫn chưa được hiểu thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau:
Thứ nhất là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện,
bối cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh
tế thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và
năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối
thủ cạnh tranh. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh
trên cơ sở tối đa hóa số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị
phần. Còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với
mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian,
cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan niệm về năng lực
cạnh tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.
Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp,
nhưng lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh gay gắt,
việc đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay
là không đơn giản.
Thứ hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh
giành giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các
yếu tố sản xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không
gian sinh tồn của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Thứ ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được
phương thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
9
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
thống và các phương thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà
dựa vào lợi thế cạnh tranh, dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp như sau:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao
lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ,
thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế
cao và bền vững.
Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang
tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho
nhóm doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
1.2. Nội dung cạnh tranh
1.2.1. Các công cụ cạnh tranh
Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh
hiện đại là tốc độ chứ không phải là yếu tố cổ truyền như nguyên liệu lao
động. Các công cụ cạnh tranh bao gồm:
❖ Chất lượng và đặc tính sản phẩm
Ngày nay, chất lượng sản phẩm đã trở thành một công cụ cạnh tranh
quan trọng của các doanh nghiệp trên thị trường. Chất lượng sản phẩm
càng cao tức là mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, dẫn tới đẩy mạnh tốc
độ tiêu thụ, làm tăng khả năng trong thắng thế trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, mức sống của người dân ngày càng
được nâng cao, tức là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng
tăng lên thì sự cạnh tranh bằng giá cả đã và sẽ có xu hướng vị trí cho sự
cạnh tranh bằng chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
10
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
định phù hợp với công dụng của sản phẩm. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau,
vấn đề đặt ra là doanh nghiệp phải luôn giữ vững và không ngừng nâng cao
chất lượng sản phẩm. Đó là điều kiện không thể thiếu nếu doanh nghiệp muốn
dành thắng lợi trong cạnh tranh, nói một cách khác, chất lượng sản phẩm là
vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Khi chất lượng không còn được đảm
bảo, không thỏa mãn nhu cầu khách hàng thì ngay lập tức, khách hàng sẽ rời
bỏ doanh nghiệp.
Nói tóm lại muốn sản phẩm của công ty có khả năng cạnh tranh được
trên thị trường thì công ty phải có chiến lược sản phẩm đúng đắn, tạo ra được
những sản phẩm phù hợp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường với chất
lượng tốt.
❖ Giá cả
Giá cả là phạm trù trung tâm của kinh tế hàng hoá trong cơ chế thị
trường. Giá cả là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh, là sự biểu hiện
bằng tiền của giá sản phẩm mà người bán có thể dự tính nhận được từ người
mua thông qua sự trao đổi giữa các sản phẩm đó trên thị trường. Giá cả của
sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Các yếu tố kiểm soát được như chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán
hàng, chi phí lưu động và chi phí yểm trợ xúc tiến bán hàng.
- Các yếu tố không kiểm soát được như quan hệ cung cầu, cường độ
cạnh tranh trên thị trường, chính sách điều tiết thị trường của Nhà nước.
Giá cả được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua các chính sách
định giá bán sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Một trong những nội
dung cơ bản của chiến lược giá cả là việc định giá. Định giá là việc ấn định có
hệ thống giá cả cho đúng với hàng hoá hay dịch vụ bán cho khách hàng, cần
có các chính sách để định giá như: chính sách giá thấp, chính giá giá cao,
chính sách giá phân biệt, chính sách phá giá.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
11
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, mức sống của
người dân không ngừng nâng cao, giá cả không còn là công cụ cạnh tranh qua
trọng nhất của doanh nghiệp nữa. Vì vậy bên cạnh vũ khí này, mỗi công ty
phải mạnh về tiềm lực tài chính, về khoa học công nghệ, và uy tín của sản
phẩm trên thị trường và phải biết kết hợp với các công cụ khác thì công ty dễ
dàng chiếm lĩnh thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.
❖ Hệ thống kênh phân phối
Trước hết để tiêu thụ sản phẩm, công ty cần phải chọn các kênh phân
phối, lựa chọn thị trường, nghiên cứu thị trường và lựa chọn kênh phân phối
để sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng, hợp lý và đạt được hiệu
quả cao. Chính sách phân phối sản phẩm đạt được các mục tiêu giải phóng
nhanh chóng lượng hàng tiêu thụ, tăng nhanh vòng quay của vốn thúc đẩy sản
xuất nhờ vậy tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo sự tác động của thị trường, tùy theo nhu cầu của người mua và
người bán, tùy theo tính chất của hàng hóa và quy mô của doanh nghiệp theo
các kênh mà có thể sử dụng thêm vai trò của người môi giới. Bên cạnh việc tổ
chức tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh hoạt động tiếp thị,
quảng cáo, yểm trợ bán hàng để thu hút khách hàng. Đồng thời việc lựa chọn
kênh phân phối cũng như lựa chọn trên đặc điểm thị trường cần tiêu thụ, đặc
điểm về khoảng cách đến thị trường, địa hình và hệ thống giao thông trên thị
trường và khả năng tiêu thụ của thị trường. Từ việc phân tích các đặc điểm
trên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý,
đạt hiệu quả cao.
- Bên cạnh đó còn có các công cụ cạnh tranh khác như:
❖ Dịch vụ sau bán hàng
Hoạt động tiêu thụ của công ty không dừng lại sau lúc bán hàng thu tiền
của khách hàng mà để nâng cao uy tín và trách nhiệm đến cùng đối với người
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
12
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
tiêu dùng về sản phẩm của công ty thì công ty cần phải làm tốt các dịch vụ
sau bán hàng.
Nội dung của hoạt động dịch vụ sau bán hàng:
- Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hoặc đổi lại hàng
nếu như sản phẩm không theo đúng yêu cầu ban đầu của khách hàng.
- Cam kết bảo hành trong thời gian nhất định.
Qua các dịch vụ sau bán hàng, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản phẩm
của mình có đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng hay không.
❖ Phương thức thanh toán
Đây cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử dụng.
Phương thức thanh toán gọn nhẹ, rườm rà hay nhanh chậm sẽ ảnh hưởng đến
sức tiêu thụ sản phẩm dịch vụ và do đó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường.
Các doanh nghiệp có thể áp dụng các phương pháp như:
- Đối với khách hàng ở xa thì có thể trả tiền hàng qua ngân hàng, vừa
nhanh vừa đảm bảo an toàn cho cả khách hàng lẫn doanh nghiệp.
- Với một số trường hợp đặc biệt, các khách hàng có uy tín với doanh
nghiệp hoặc khách hàng là người mua sản phẩm thường xuyên của doanh
nghiệp thì có thể cho khách hàng trả chậm tiền hàng sau một thời gian nhất
định. Giảm giá đối với khách hàng thanh toán tiền ngay hoặc mua với số
lượng lớn.
1.2.2. Các hình thức cạnh tranh
❖ Căn cứ vào cấp độ cạnh tranh và việc phân loại chỉ mang tính chất
tương đối, ta có thể phân loại cạnh tranh như sau:
- Cạnh tranh quốc gia
Theo “Báo cáo về Cạnh tranh toàn cầu”, có định nghĩa như sau: “Cạnh
tranh của một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những thành quả
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
13
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
nhanh và bền vững về mức sống. Nghĩa là đạt được tỉ lệ tăng trưởng kinh tế
cao được xác định bằng cách thay đổi GDP theo thời gian”.
Theo cách định nghĩa khác: “Cạnh tranh của một quốc gia là mức độ mà
ở đó dưới những điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các
hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế đồng thời duy
trì và mở rộng được thu nhập thực tế nước đó”. Cạnh tranh quốc gia nhằm
duy trì cải thiện vị trí nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới
một cách lâu dài để thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của quốc
gia đó. Vì vậy, quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh
cao thì quốc gia đó có năng lực cạnh tranh tốt hơn những quốc gia khác.
- Cạnh tranh doanh nghiệp
Cũng giống như quốc gia, các doanh nghiệp có cùng ngành nghề cũng
chịu sự cạnh tranh gay gắt với nhau khi các doanh nghiệp cùng sản xuất một
loại hàng hóa mà doanh nghiệp nào cũng nhằm đến thu được lợi nhuận siêu
ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh nghiệp nào có hao
phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kĩ
thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm tối đa chi phí sản
xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Như vậy, chúng ta có thể định nghĩa rằng: “Cạnh tranh của một doanh
nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó trong việc tạo ra doanh thu và lợi
nhuận cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh quốc tế”.
Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ cạnh tranh
thắng lợi trong ngành và sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh sản phẩm
Hiện nay, do nền kinh tế phát triển ngày càng nhiều sản phẩm mới được
tung ra thị trường và rất nhiều sản phẩm có thể thay thế nhau. Chính vì vậy,
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
14
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
trên thị trường còn xuất hiện sự cạnh tranh giữa các sản phẩm. Ta có thể định
nghĩa cạnh tranh sản phẩm như sau: Cạnh tranh sản phẩm là việc các doanh
nghiệp đưa ra thị trường các sản phẩm cùng loại, có khả năng thay thế lẫn
nhau. Cạnh tranh sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả, phương thức bán hàng, cách thức tiếp cận, sản phẩm nào phù
hợp nhất với yêu cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả
năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm và là điều kiện thu thêm
nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, do điều kiện kinh tế chưa phát triển, các doanh
nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, chưa có nhiều tập đoàn xuyên quốc
gia. Chính vì vậy, ở nước ta, cạnh tranh doanh nghiệp đồng nghĩa với cạnh
tranh quốc gia. Nghĩa là khi quốc gia nâng cao được sức cạnh tranh của mình
so với các quốc gia khác thì doanh nghiệp mới có thể tạo ra những lợi thế
cạnh tranh của mình.
❖ Dựa vào tính lành mạnh và sự tác động của hành vi đối với thị
trường, có thể chia cạnh tranh làm 2 loại:
- Cạnh tranh lành mạnh
Cạnh tranh lành mạnh là loại cạnh tranh theo đúng quy định của pháp
luật, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh. Cạnh tranh có tính chất thi đua,
thông qua đó mỗi chủ thể nâng cao năng lực của chính mình mà không dùng
thủ đoạn triệt hạ đối thủ. Có thể thấy, kinh doanh như một cuộc chơi nhưng
không giống như chơi thể thao, chơi bài hay chơi cờ, khi mà phải luôn có kẻ
thua – người thắng. Trong kinh doanh, thành công của doanh nghiệp không
nhất thiết đòi hỏi phải có những kẻ thua cuộc. Thực tế là hầu hết các doanh
nghiệp chỉ thành công khi những người khác thành công. Đây là sự thành
công cho cả đôi bên nhiều hơn là cạnh tranh làm hại lẫn nhau. Tình huống này
được gọi là cùng thắng.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
15
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
- Cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh là tất cả những hành động trong hoạt động
kinh tế trái với đạo đức nhằm làm hại các đối thủ kinh doanh hoặc khách
hàng. Và cũng gần như sẽ không có người thắng nếu việc kinh doanh được
tiến hành giống như một cuộc chiến. Cạnh tranh khốc liệt mang tính tiêu diệt
chỉ dẫn đến một hậu quả thường thấy sau các cuộc cạnh tranh khốc liệt là sự
sụt giảm mức lợi nhuận ở khắp mọi nơi.
Mục đích của nhà kinh doanh là luôn luôn mang lại những điều có lợi
cho doanh nghiệp mình. Đôi khi đó là sự trả giá của người khác. Đây là tình
huống cùng thua. Không ít cơ sở sản xuất, doanh nghiệp còn sử dụng những
chiêu thức đen nhằm hạ thấp và loại trừ các doanh nghiệp hoạt động trên cùng
một lĩnh vực ngành nghề để độc chiếm thị trường.
❖ Căn cứ vào tính chất cạnh tranh trên thị trường, cạnh tranh được chia ra:
- Cạnh tranh hoàn hảo
Là loại cạnh tranh theo các quy luật của thị trường mà không có sự can
thiệp của các chủ thể khác. Giá cả của sản phẩm được quyết định bởi quy luật
cung cầu trên thị trường. Cung nhiều cầu ít sẽ dẫn đến giá giảm, cung ít cầu
nhiều sẽ dẫn đến giá tăng.
- Cạnh tranh không hoàn hảo
Là hình thức cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không
đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau
cho nên để giành đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các
công cụ hỗ trợ bán như: quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá
cả, đây là loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền
Là sự cạnh tranh mang tính chất “ảo”, thực chất cạnh tranh này là sự
quảng cáo để chứng minh sự đa dạng của một sản phẩm nào đó, để khách
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
16
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
hàng lựa chọn một trong số những sản phẩm nào đó của một doanh nghiệp
nào đó chứ không phải của doanh nghiệp khác.
Trong cạnh tranh độc quyền có thể phân chia thành hai loại:
Độc quyền nhóm: là loại độc quyền xảy ra khi trong ngành có rất ít nhà
sản xuất, bởi vì các ngành này đòi hỏi vốn lớn, rào cản ra nhập ngành khó. Ví
dụ: ngành công nghiệp sản xuất ôtô, máy bay.
Độc quyền tuyệt đối: xảy ra khi trên thị trường tồn tại duy nhất một nhà sản
xuất và giá cả, số lượng sản xuất ra hoàn toàn do nhà sản xuất này quyết định.
1.2.3. Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong giai đoạn hiện này, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc
đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá trình chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế, lực lượng
sản xuất lớn mạnh đang dần được quốc tế hóa. Cuộc cách mạng công nghệ
thông tin đang làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn nhau dẫn tới
không một quốc gia nào, một nền kinh tế, một dân tộc nào muốn phát triển mà
có thể tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hòa nhập vào sự vận
động chung của cả nền kinh tế thế giới. Sự hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn
kết nền kinh tế của nước mình vào với nền kinh tế khu vực và thế giới, là sự
tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, chúng ta gia nhập các tổ chức
kinh tế song phương và đa phương, là chúng ta chấp nhận và tuân thủ những
quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các
thành viên của tổ chức. Trong quá trình hội nhập, các nước tham gia đều phải
tuân thủ những quy ước chung, những luật chơi chung khá phức tạp được thể
hiện trong nhiều điều ước quốc tế.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp; sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp có mối quan hệ mật
thiết, nó tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
17
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp phát triển và hội
nhập. Nó thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó
giúp cho doanh nghiệp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng.
- Khi cạnh tranh thắng lợi, doanh nghiệp sẽ đứng vững và phát triển
không ngừng, đó là tiền đề tác động ngược trở lại cho doanh nghiệp nâng cao
hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Những thành tựu của sự phát triển sẽ
tạo đà giúp cho doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh mới. Khi
doanh nghiệp có đủ khả năng nguồn lực về vốn và con người, doanh nghiệp
sẽ dễ dàng tiếp cận với công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến, hiện
đại. Từ đây những sản phẩm mới có chất lượng cao được ra đời góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tóm lại, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, vấn đề có
tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp phải nhận thức được và luôn cố
gắng nâng cao năng lực của mình, sẵn sàng nắm lấy cơ hội để vươn lên,
chuẩn bị đủ mọi điều kiện để đủ khả năng đối mặt với những thách thức trong
quá trình hội nhập giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển bền vững.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao
gồm tổng thể các nhân tố khách quan và chủ quan, vận động và tương tác lẫn
nhau, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp. Sự tác động này có thể thuận lợi hay gây trở ngại cho doanh
nghiệp. Những nhân tố này người ta gọi chung là môi trường kinh doanh. Các
nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm các
yếu tố vừa cụ thể vừa trừu tượng. Chúng có mối quan hệ trực tiếp hay gián
tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
18
Lớp: CQ49/31.02
Học viện Tài Chính
GVHD: Ths. Nguyễn Xuân Điền
Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm
các nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài.
1.3.1. Nhân tố bên trong
Nhân tố bên trong của doanh nghiệp được hiểu là các yếu tố tác động
đến hoạt động kinh doanh trong phạm vi của doanh nghiệp. Nhân tố bên trong
doanh nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển và đồng thời
phản ánh sức mạnh tiềm lực hiện tại của doanh nghiệp. Tất cả những khía
cạnh đó tạo nên một sức mạnh tinh thần len lỏi và tác động đến từng thành
viên và tập thể của doanh nghiệp. Nếu môi trường bên trong mà thuận lợi thì
công việc kinh doanh sẽ thuận buồm xuôi gió và ngược lại, nó sẽ là yếu tố cản
trở đến sự nghiệp kinh doanh.
- Nguồn nhân lực và năng lực của các nhà quản lý
Lao động luôn là yếu tố đầu tiên cũng như là yếu tố cuối cùng tạo nên sự
thành công hay thất bại của một doanh nghiệp, phải có nguồn nhân lực chúng
ta mới tạo ra sản phẩm một cách trực tiếp hay gián tiếp. Đội ngũ cán bộ quản
lý doanh nghiệp sẽ là những người quyết định các hoạt động sản xuất kinh
doanh: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Mỗi quyết định
của họ có ý nghĩa hết sức quan trọng liên quan đến sự tồn tại, phát triển hay
diệt vong của doanh nghiệp.
Đội ngũ các nhà lãnh đạo chiếm một vai trò hết sức quan trọng đối với
bất cứ doanh nghiệp nào. Người lãnh đạo là người vạch ra phương hướng,
chiến lược, chính sách, điều khiển và kiểm soát mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Năng lực quản trị chiến lược phản ánh khả năng phân tích thị trường,
dự báo các xu hướng phát triển công nghệ phù hợp với xu hướng chung, đưa
ra định hướng phát triển sản phẩm có tính lâu dài, có khả năng ứng dụng rộng
rãi. Bên cạnh đó, nhân tố này còn thể hiện khả năng hoạch định chiến lược
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Tùng
19
Lớp: CQ49/31.02
- Xem thêm -