Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Một số giải pháp chỉ đạo dạy học vần lớp 1...

Tài liệu Một số giải pháp chỉ đạo dạy học vần lớp 1

.PDF
24
18
63

Mô tả:

1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài Chữ viết - dạng thứ hai của ngôn ngữ - có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Chữ viết có khắp mọi nơi trong môi trường sống của chúng ta. Chính vì vậy, đọc là một hoạt động vô cùng cần thiết mà con người thực hiện trong suốt cuộc đời, năng lực đọc thể hiện văn hóa của một người. Nếu không biết đọc thì người ta không thể tiếp thụ nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin với lượng ngôn ngữ chữ viết ngày càng tăng nhanh tương ứng với tốc độ phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại được ghi lại không chỉ trong sách cứng mà cả trên mạng internet, điện thoại di động, máy vi tính thì biết đọc lại càng quan trọng. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời. [1] Trong trường học, đọc được xem là hoạt động quan trọng hàng đầu. Trọng tâm của mọi hệ thống giáo dục trên thế giới đều đặt ra một mục tiêu cơ bản xoay quanh khả năng giao tiếp thông qua văn bản, hay nói một cách khác dạy cho người học “biết chữ” (literacy) trước hết là biết đọc. Ở trường học, đọc là kĩ năng học tập cơ bản nhất giúp học sinh chiếm lĩnh ngôn ngữ để dùng trong học tập và giao tiếp. Biết đọc, học sinh có thể học được tất cả các môn học khác và có khả năng tự học suốt đời. [1] Giáo dục phổ thông của chúng ta nói chung và trường tiểu học nói riêng xem Tiếng Việt là môn học công cụ, xem đọc là một hoạt động trọng tâm và dành cho học sinh nhiều thời gian để học đọc. Để đạt đến mục đích cuối cùng của đọc, UNESCO cho rằng: biết chữ là khả năng nhận diện, hiểu, diễn giải, sáng tạo, giao tiếp và tính toán bằng cách sử dụng những tài liệu in hoặc viết gắn với nhiều ngữ cảnh khác nhau. Khả năng đọc viết liên quan đến quá trình học tập liên tục làm cho mỗi cá nhân có thể đạt được những mục đích của cuộc đời mình và phát triển hiểu biết, tiềm năng để tham gia đầy đủ vào xã hội rộng lớn, việc dạy đọc của chúng ta được bắt đầu từ lớp 1 với giai đoạn đầu tiên có tên gọi là Học vần (còn gọi là học vỡ lòng hoặc đọc chữ và tập viết hoặc tiền kĩ năng đọc viết. Đây là giai đoạn mở đầu rất quan trọng để hình thành kỹ năng đọc cho học sinh, giúp các em chiếm lĩnh và làm chủ công cụ chữ viết tiếng Việt. Việc dạy đọc cho học sinh lớp 1 trong giai đoạn Học vần hiện nay mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực tế cho thấy nhiều HS tiểu học sau nhiều năm đi học vẫn gặp khó khăn về đọc. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng đọc nói riêng mà ảnh hưởng tới chất lượng của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt cũng như tất cả các môn học khác. [1] Do đó, việc dạy Học vần lớp 1 là vấn đề rất thiết thực. Vai trò của người cán bộ quản lý trong việc chỉ đạo dạy Học vần lớp 1 ở tiểu học có tác dụng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả học tập của các em học sinh và việc dạy của giáo viên. Chính vì lý do trên, là cán bộ làm công tác quản lý một trường Tiểu học ở huyện Quảng Xương tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ "Một số giải pháp chỉ đạo dạy Học vần lớp 1 " để góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở bậc Tiểu học nói chung và trường Tiểu học Quảng Lợi nói riêng. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là đề xuất các biện pháp dạy học đọc có hiệu quả và thú vị trong giai đoạn Học vần nhằm nâng cao hiệu quả dạy học đọc cho HS lớp 1 nói riêng, HS tiểu học nói chung. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Những giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc cho học sinh lớp 1 trong giai đoạn Học vần ở trường Tiểu học Quảng Lợi – Quảng Xương – Thanh Hóa 1.4. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp nghiên cứu lý thuyết + Phương pháp đàm thoại, dự giờ, thăm lớp + Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin + Phương pháp thực nghiệm và đối chứng kết quả 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của giải pháp dạy Học vần lớp 1 ở trường Tiểu học. * Đặc điểm âm tiết tiếng Việt và việc dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần Tiếng Việt có tính phân tiết. Trong tiếng Việt, âm tiết (hay tiếng) là đơn vị phát âm tự nhiên, rất dễ nhận biết. Khi nói cũng như khi viết, mỗi âm tiết được tách bạch rõ ràng. Việc nhận diện này này đối với người Việt tự nhiên đến mức có thể dễ dàng xác định số lượng âm tiết (và ranh giới của âm tiết) trong chuỗi lời nói. Âm tiết tiếng Việt có những đặc điểm sau: - Cấu trúc âm tiết chặt chẽ, rõ ràng. Mỗi âm tiết ở dạng tối đa thường gồm ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Phần vần tối đa lại bao gồm ba âm: âm đệm, âm chính và âm cuối. Còn tối thiểu, âm tiết tiếng Việt phải có âm chính và thanh điệu. Âm chính luôn luôn là một nguyên âm. Các phần và các bộ phận này được sắp xếp theo một trật tự ổn định và mỗi vị trí chỉ do một hoặc một số âm vị chiếm giữ. Sau đây là mô hình cấu tạo của âm tiết tiếng Việt: [2] Thanh điệu Phụ âm đầu âm đầu Phần vần âm chính âm cuối Ví dụ: l o a n loan th u yề n thuyền Dạng tối thiểu: ả (cô) ả ô (cái) ô - Mỗi âm tiết luôn mang một thanh điệu nhất định. Tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu và có sáu thanh. - Về mặt nghĩa, đa số âm tiết tiếng Việt thường tương ứng với một hình vị. Nhiều âm tiết vừa có nghĩa vừa được dùng độc lập như một từ đơn. Hoặc âm tiết được dùng như một thành tố cấu tạo nên từ (hình vị). 2 Có những âm tiết có nghĩa nhưng chỉ được dùng làm thành tố cấu tạo nên từ, chứ không được dùng độc lập như từ đơn, ví dụ: nhân trong “nhân dân”, “ nhân loại”,...Có những âm tiết không tự thân có nghĩa, nhưng có tác dụng góp phần tạo nên nghĩa của các từ mà chúng tham gia cấu tạo, ví dụ: đẹp đẽ (khác với từ đẹp). Tuy nhiên có một số âm tiết không có nghĩa. Thường là các âm tiết trong các từ vay mượn (ra-đi-ô, các-bon,...). - Về hình thái, từ tiếng Việt không biến đổi hình thái, từ tiếng Việt dù thuộc loại nào, dù thực hiện chức năng ngữ pháp nào trong câu cũng luôn luôn có một hình thức ngữ âm ổn định duy nhất. Hình thức này không biến đổi theo các ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp và chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu. Tóm lại, đặc trưng loại hình của tiếng Việt thể hiện ở chỗ tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Đặc trưng này thể hiện ở tất cả các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp nhưng thể hiện rõ nhất ở mặt ngữ âm. Xét về ngữ âm, tiếng Việt là thứ ngôn ngữ có 6 thanh điệu và đa phần các âm tiết độc lập mang nghĩa. Vì thế, trong chuỗi lời nói, ranh giới giữa các âm tiết được thể hiện rõ ràng, các âm tiết không bị nối dính vào nhau như trong các ngôn ngữ biến hình. Đây là điều kiện thuận lợi cho quá trình dạy âm, dạy chữ. Về cấu tạo, âm tiết tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ. Các yếu tố cấu tạo âm tiết kết hợp với nhau theo từng mức độ lỏng, chặt khác nhau: phụ âm đầu, vần và thanh kết hợp lỏng, còn các yếu tố của vần kết hợp với nhau khá chặt chẽ. Cách miêu tả âm tiết như một cấu trúc hai bậc là cách miêu tả phù hợp với cảm thức tự nhiên của người bản ngữ. Cách đánh vần theo kiểu lặp vần (a+mờ- am) ghép vần với phụ âm đầu và thanh điệu (lờ-am-lam-huyền-làm) là phù hợp với cách miêu tả nói trên. Việc phân âm tiết ra thành các bộ phận: Âm đầu, vần, thanh điệu, do vậy, cũng là điều dĩ nhiên. Có thể nói, thái độ này của người bản ngữ là một xác nhận chắc chắn việc miêu tả âm tiết của các nhà khoa học. Nói lái không phải là nói "lóng" của một số người mà là một trò chơi vì nó phổ biến và quen thuộc đối với trẻ em từ tuổi mẫu giáo. Một người nước ngoài dù thạo tiếng Việt, gặp phải trường hợp nói lái sẽ lúng túng và không thể khôi phục được từ mà người nói muốn thông báo. Trái lại một em bé bình thường ở lứa tuổi lớp 1 cũng nắm được điều này một cách tự nhiên. [2] * Đặc điểm nhận thức, hứng thú của học sinh lớp 1 và việc dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần - Sự hình thành hoạt động có ý thức ở trẻ lớp 1 Về mặt sinh lí, ở trẻ 6-7 tuổi, khối lượng bộ não đã đạt đến 90% khối lượng não người lớn. Sự chín muồi về mặt sinh lí cùng với sự phát triển của những quá trình tâm lí như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy đã tạo điều kiện để các em có thể thực hiện mọi hoạt động học tập. Học là hoạt động mang tính kế hoạch, có mục đích. Đó là hoạt động có ý thức. Tuy vậy, ở giai đoạn đầu lớp 1 những hoạt động này còn mới mẻ. Chẳng hạn đến lớp các em phải thuộc bài, ngồi ngay ngắn, phải kiểm tra bài, phải thực hiện đúng những yêu cầu của giáo viên...Hơn nữa trong nhận thức của các em địa vị của giáo viên lớp 1 cũng khác với giáo viên mẫu giáo. Giáo viên có chỗ ngồi riêng, có cách nói riêng, có sự 3 đánh giá. Những điều này làm cho một số em trong giờ học rụt rè, không dám đọc to, đọc lạc cả giọng... [3]. Do đó, khi tổ chức hoạt động học đọc ở lớp 1, đặc biệt là trong giai đoạn học vần, giáo viên cần tạo ra mục đích, động cơ học tập cụ thể, nhẹ nhàng, sinh động, giúp HS tham gia học đọc một cách hứng thú hơn. - Đặc điểm của hoạt động tư duy ở trẻ lớp 1 Trên cơ sở ý thức đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu ở trẻ 6 - 7 tuổi cũng phát triển, khả năng phân tích, tổng hợp của các em khá hoàn chỉnh cho phép các em tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ. Tuy nhiên, trong cảm nhận sự vật, không riêng gì trẻ em mà con người nói chung, lúc đầu bằng tri giác, tức là nhận biết sự vật trên những nét tổng thể, khái quát sau đó đi vào những chi tiết tách bạch, những hình ảnh này lại được xác định trên cơ sở khái quát những hiểu biết về tính chất và đặc trưng riêng biệt của đối tượng đã tiếp nhận được dưới dạng những cảm giác khác nhau [3]. Như vậy ở lứa tuổi lớp 1, tư duy phân tích tổng hợp tuy còn mang tính sơ đẳng cả nội dung và hình thức nhưng đã có ở mức độ cao thấp khác nhau. - Năng lực vận động của trẻ ở lứa tuổi lớp Vào 6 -7 tuổi, năng lực vận động của trẻ cũng đạt được những bước phát triển đáng kể. Ở thời kì này ý thức về cấu trúc không gian của trẻ cũng đã hình thành. Sự phân biệt bên phải, bên trái, bên trên, bên dưới,... không còn khó khăn đối với các em [3]. Từ những phân tích trên đây, có thể kết luận: vào 6 - 7 tuổi, trẻ em đã phát triển sinh lí, tâm lí đảm bảo đủ điều kiện để bước vào quá trình học đọc trên cơ sở ghép các chữ thành tiếng và đọc các tiếng. Hoạt động học vần là hoạt động có ý thức. Để hoạt động này có hiệu quả ở học sinh, cần tạo ra những mục đích gần gũi, động cơ học tập thích hợp với học sinh. Học vần nhằm tạo kĩ năng, kĩ xảo và thói quen. Điều này không thể có được nếu không lặp đi lặp lại các hành động cần thiết. Do đó trong quá trình học, học sinh cần được đọc nhiều những tiếng, từ chứa 1 âm/vần. Đồng thời phải luôn được thay đổi nội dung văn bản đọc nếu không việc học sẽ bị nhàm chán, hiệu quả học sẽ hạn chế. Học vần là hoạt động có ý thức nên học sinh cần hiểu những điều các em đọc vì nếu các em đánh vần từng chữ một cách máy móc không cần biết đến ý nghĩa của chữ, của câu thì sẽ hạn chế kết quả học tập. Do đó câu, chữ học sinh đánh vần cần có nghĩa, nghĩa đó cần ở trong phạm vi hiểu biết và kinh nghiệm của HS thì các em mới hứng thú học tập. * Thuyết liên quan đến dạy học đọc cho học sinh trong giai đoạn Học vần lớp 1 Thuyết Đa trí tuệ [7]: Năm 1983, tiến sĩ Howard Gardner – một nhà tâm lí học nổi tiếng của Đại học Harvard- đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề “Frames of Mind” (tạm dịch là “Cơ cấu của trí tuệ”), trong đó ông công bố các nghiên cứu và lí thuyết của mình về sự đa dạng của trí tuệ con người. Đây là một khung lí thuyết để định nghĩa, tìm hiểu, đánh giá và phát triển các yếu tố thông minh của con người. 4 Theo Gardner, trí thông minh (intelligence) được quan niệm là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa. Ông nhấn mạnh rằng khả năng suy nghĩ một cách thông minh rất khác với việc ghi nhớ một khối lượng thông tin trong đầu. Mỗi người có thể có cách tiếp nhận và xử lí thông tin, hay kiến thức mình học được khác nhau, và mức độ xử lí hay ghi nhớ các loại thông tin khác nhau (ví dụ: hình ảnh, âm thanh, v.v.) là khác nhau. Ông xây dựng “Thuyết Đa trí tuệ” (Theory of Multiple Intelligences) dựa trên niềm tin cho rằng: não bộ tạo ra các hệ thống riêng biệt cho những khả năng tương ứng khác nhau mà ông gọi là “các năng lực trí tuệ”. Theo ông, có thể các dạng năng lực trí tuệ này không bộc lộ hết ở mỗi con người; và con người cũng có thể không huy động hết tất cả các loại năng lực trí tuệ đó khi thực hiện một kĩ năng và kĩ xảo nào đó. Năm 1983, ông giới thiệu 7 loại năng lực trí tuệ khác nhau có thể cùng tồn tại trong một con người, bao gồm: Năng lực trí tuệ ngôn ngữ/lời nói (verbal/linguistic). Những người có năng lực trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua việc nói và viết, thích đọc, chơi ô chữ, v.v. Một cách giúp trẻ phát triển tư duy là giúp cho chúng mô hình hóa hoặc lập đồ được các khái niệm và ý tưởng của chúng. Việc lập đồ khái niệm là một trong nhiều chiến lược có thể giúp nâng cao việc học tập của trẻ. Năng lực trí tuệ hình ảnh/không gian (visual/spatial). Những người có năng lực trí tuệ này có thiên hướng học tập tốt nhất thông qua hình ảnh, đồ vật; có khả năng sử dụng tốt bản đồ và định hướng tốt trong không gian. Nhưng cũng có thể nói việc tư duy bằng hình ảnh là hữu ích cho tất cả mọi khía cạnh của quá trình học tập. Gardner lưu ý rằng năng lực trí tuệ này không chỉ gắn với thị giác, vì cả những người khiếm thị cũng có thể có năng lực trí tuệ này. Năng lực trí tuệ toán học/logic (mathematical/logical)- Trí thông minh logic-toán học: Trí thông minh toán học là điều phải có trong tư duy khoa học. Cùng với ngôn ngữ (lập luận bằng ngôn từ), nó là điều thường được định lượng trong các bài thử hệ số thông minh (IQ). Một đặc điểm của trí thông minh logictoán học là khả năng nhận biết những mẫu hình, mối liên hệ giữa các sự vật. Vì vậy, những người có năng lực trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua các lập luận logic, thích toán học, lập trình, chơi xếp hình, v.v. Năng lực trí tuệ cơ thể - tri giác vận động (bodily/kinesthetic). Những người có năng lực trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua cách vận động và sử dụng động tác, cảm thấy thích thú khi vận động cơ thể, chơi thể thao, v.v. Năng lực trí tuệ âm nhạc/giai điệu (musical/rhythmic). Những người có năng lực trí tuệ âm nhạc có thiên hướng học tốt nếu thông qua các giai điệu, âm nhạc, hát, đọc truyền cảm các tác phẩm, v.v. Năng lực trí tuệ hướng ngoại/liên nhân (interpersonal). Tất cả mọi đứa trẻ đều có lợi từ những cơ hội học tập với người khác, học theo cặp, theo nhóm cũng như từ việc dạy người khác học. Một phần của những gì chúng ta học qua làm việc, vui chơi cùng người khác là những kĩ năng quan hệ con người tạo nên thành công trong cuộc sống, bao gồm cả việc biết cách hợp tác với người khác, học tập và lãnh đạo người khác. 5 Năng lực trí tuệ hướng nội/cá nhân (intrapersonal). Những người có năng lực trí tuệ này có thiên hướng học tập thông qua tình cảm, cảm giác, điều khiển và làm chủ tốt việc học của mình, hiểu rõ các suy nghĩ của bản thân, từ đó có thể hiểu được cảm xúc, tình cảm của người khác, v.v. Năm 1995, dựa vào những dữ liệu mới, phù hợp với các tiêu chí được tìm ra trong quá trình thực nghiệm, Gardner đã giới thiệu thêm một năng lực trí tuệ thứ tám – khả năng nghiên cứu về tự nhiên cho phép nhận biết và phân loại các vật thể tự nhiên. Năng lực trí tuệ tự nhiên (naturalist): người có năng lực trí tuệ này có khả năng học tập thông qua hệ thống sắp xếp, phân loại, yêu thích thiên nhiên, các hoạt động ngoài trời,… (Ngôn ngữ) (Toán học/logic) (Hình ảnh) (Âm nhạc) (Tự nhiên) (Cơ thể / Vận động tri giác) (Hướng ngoại) (Hướng nội) Năm 1999, ông cũng đề xuất thêm năng lực trí tuệ thứ 9 – trí tuệ tồn tại giúp nắm bắt các khuynh hướng của con người mà nhờ đó có suy nghĩ về những câu hỏi cơ bản như sự tồn tại, cuộc sống và cái chết, gọi là “năng lực trí tuệ tồn tại” (existential). Những người có năng lực trí tuệ này có khả năng học tập thông qua việc nhìn được bức tranh tổng thể, thông qua những câu hỏi như “Tại sao chúng ta tồn tại ở đây ?”, “Vai trò của tôi trong thế giới này là gì ?”, “Vai trò của tôi trong gia đình, nhà trường và cộng đồng là gì ?”. Loại trí tuệ này tìm kiếm sự kết nối giữa những kiến thức mới học với các ứng dụng, các kiến thức trong thực tế. * Đọc và hình thành kĩ năng đọc cho học sinh trong giai đoạn Học vần - Khái niệm về đọc và kĩ năng đọc Đọc là hoạt động nhận thức trong đó người đọc sử dụng những kiến thức về ngôn ngữ và hiểu biết liên quan để tiến hành giải mã 2 bậc : bậc 1, giải mã chữ thành âm và bậc 2, giải mã chữ thành nghĩa (thông hiểu những gì được đọc). Như vậy, đọc bao gồm các yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và hoạt động của tư duy (trí tuệ) để thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn. Tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp của những mặt riêng lẻ trong quá trình đọc. Đó là điểm phân biệt giữa người mới biết đọc và người đọc thành thạo. [4]: 6 Từ các cách hiểu trên về đọc, khái niệm đọc được chúng tôi quan niệm là một quá trình giải mã hai bậc: 1) giải mã chữ thành âm và 2) giải mã chữ hoặc âm thành nghĩa (tức thông hiểu những gì được đọc). Quá trình giải mã bậc 2 chính là quá trình đọc hiểu. + Đọc thành tiếng [4]: Đọc thành tiếng là quá trình giải mã chữ hoặc âm thành âm hoặc chữ thành nghĩa các kí hiệu chữ viết trong văn bản thành dòng âm thanh vang lên trong không khí. Đọc thành tiếng là phát ra âm thanh của tín hiệu chữ viết gồm chữ cái, tổ hợp chữ cái ghi âm vị, vần, tiếng, từ, câu,đoạn, bài. Đây là mục tiêu thứ nhất của dạy đọc Học vần. Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác các kí hiệu văn tự thành kí hiệu âm thanh. Đây là mục đích đầu tiên của dạy đọc giai đoạn Học vần.Yêu cầu của đọc thành tiếng là đọc đúng, tiếp đến là đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó cũng là 2 kĩ năng quan trọng của đọc. Đọc đúng là tái hiện âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi bao gồm đọc đúng các chữ cái (âm), vần, dấu thanh, tiếng, từ, câu, bài đọc. Đọc đúng phải thể hiện được hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm, đọc đúng trọng âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. Đọc lưu loát thể hiện độ tốc độ phát ra các tiếng về mặt âm thanh và tốc độ tiếp nhận nội dung được đọc. Nghĩa là tốc độ đó phải song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc. Năng lực đọc chỉ được hình thành khi học sinh đạt được các yêu cầu đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu. + Đọc hiểu [4]: Mục đích cuối cùng, tối thượng của đọc không phải để phát ra thành tiếng mà là đọc hiểu. Đọc hiểu là thông hiểu những gì được đọc, làm rõ nghĩa các kí tự, nội dung và đích tác động của văn bản. Các kĩ năng đọc hiểu bao gồm tái hiện, hiểu nghĩa và hồi đáp văn bản. Dạy học đọc giai đoạn Học vần tập trung hình thành kĩ năng tái hiện và cắt nghĩa văn bản. Hiệu quả của dạy đọc, năng lực đọc của HS chỉ được hình thành khi các em có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát và đọc hiểu. Kĩ năng được phân giải thành nhiều kĩ năng bộ phận. Các nghiên cứu về quá trình phát triển các kĩ năng đọc ở nhiều ngôn ngữ khác nhau đã chỉ ra rằng để có thể đọc tốt ở một ngôn ngữ có chữ viết ghi âm (alphabetic writing) như tiếng Anh hay tiếng Việt thì người học cần phải nắm vững 5 kĩ năng cơ bản, đó là: có kiến thức âm vị (phonemic awareness) thể hiện ở khả năng chia tách hoặc liên kết các âm; có kiến thức ngữ âm (phonics) thể hiện ở khả năng liên kết văn tự với âm thanh; có khả năng đọc trôi chảy thể hiện ở tốc độ, sự chính xác và diễn cảm khi đọc; có vốn từ cơ bản thể hiện ở việc nhận biết và hiểu nghĩa của từ; có khả năng hiểu các khái niệm hay ý tưởng do mình đọc hay nghe được. Mặc dù không phải mọi đứa trẻ đều phát triển các kĩ năng đọc ban đầu theo một cách thức và tốc độ như nhau, nhưng các nghiên cứu đều thống nhất cho rằng tất cả mọi người học đọc đều phải trải qua các giai đoạn phát triển các kĩ năng đọc bộ phận. Điều này đã được Viện Nghiên cứu quốc tế (RTI) thể hiện qua bảng 2.1 sau: Bảng 2.1: Các giai đoạn phát triển kĩ năng đọc Các giai đoạn Tên gọi Thể hiện ở người học 7 Giai đoạn 0: tiền Xuất hiện kĩ năng Có khả năng kiểm soát ngôn ngữ nói; học đường đọc ban đầu chủ yếu dựa vào tranh ảnh; có thể chơi trò đọc sách Giai đoạn 1: bắt Khả năng giải mã Phát triển khả năng nhận biết mối quan đầu vào lớp 1 hệ âm/chữ; khả năng tách âm trong tiếng và liên kết âm để tạo thành tiếng/ từ Giai đoạn 2: từ Củng cố và đọc Phát triển khả năng đọc trôi chảy, nhận cuối lớp 1 đến trôi chảy biết các mô hình âm tiết, hiểu nghĩa từ cuối lớp 3 và biết một số lượng từ nhất định theo kiểu ghi nhớ mặt chữ Giai đoạn 3: từ Học được một Sử dụng việc đọc phục vụ cho việc học; lớp 4 đến lớp 8 điểm nhìn mới sử dụng các chiến lược đọc; mở rộng vốn từ; hiểu văn bản từ quan điểm cá nhân Giai đoạn 4: phổ Học được nhiều Có khả năng phân tích văn bản vừa thông trung học điểm nhìn đọc với một tư duy phê phán; xử lí các và năm đầu của tầng sự kiện và khái niệm; hiểu văn cao đẳng/đại học bản từ nhiều điểm nhìn khác nhau Giai đoạn 5: cuối Có một thế giới Phát triển một thế giới quan toàn diện đại học và sau đại quan hoàn chỉnh thông qua việc đọc sách học Theo mô hình các giai đoạn phát triển kĩ năng đọc trên thì một khi đứa trẻ học được cách áp dụng các kĩ năng đọc ban đầu nó có thể bước qua giai đoạn giải mã văn bản (giai đoạn 1) để bắt đầu sang giai đoạn hiểu nghĩa (giai đoạn 2). Khi đứa trẻ học được cách các âm kết nối để tạo thành tiếng và từ, nó có thể bắt đầu kết nối các âm đó với các chữ/tổ hợp chữ và nghĩa gắn với các tiếng/từ/chữ đó. Khi đó, đứa trẻ có thể biết kết nối các từ để tạo thành câu, kết nối các câu thành đoạn và kết nối các đoạn thành một câu chuyện. Nói cách khác, từ giai đoạn 3 trở đi, đứa trẻ chuyển từ giai đoạn học để đọc sang giai đoạn đọc để học. Điều này có nghĩa là đến cuối lớp 3, về cơ bản đứa trẻ phải thành thạo các kĩ năng đọc ban đầu để từ lớp 4 có thể sử dụng kĩ năng đọc một cách hiệu quả cho mục đích học tập như được thể hiện qua bảng 2.2 sau: Bảng 2.2: Các giai đoạn phát triển kĩ năng đọc và các phần tương ứng Các giai đoạn phát triển kĩ năng Các phần tương ứng đọc ban đầu Giai đoạn 0 (tiền học đường): - Các khái niệm về chữ xuất hiện những kĩ năng đọc ban - Kiến thức âm vị đầu - Nghe hiểu Giai đoạn 1 (bắt đầu lớp 1): xuất - Gọi tên chữ cái hiện khả năng giải mã - Đọc âm chữ cái - Gọi tên âm tiết - Đọc tiếng/từ Giai đoạn 2 (cuối lớp 1 đến hết - Đọc trôi chảy đoạn văn 8 lớp 3): Củng cố các kĩ năng đọc - Đọc hiểu đoạn văn và khả năng đọc trôi chảy - Viết chính tả Từ quan niệm đọc là một kỹ năng, dạy đọc trong giai đoạn Học vần không chỉ dạy phát âm các âm tiết, từ, câu…mà phải dạy đọc hiểu từ, câu, đoạn/bài đọc. Phát âm (đọc thành tiếng) và hiểu nghĩa luôn là hai mặt của một quá trình đọc không thể tách rời nhau. Đọc to đúng mới có điều kiện hiểu đúng. Hiểu văn bản sẽ giúp đọc nhanh hơn. Ở giai đoạn Học vần, trẻ nhất thiết phải đạt được khả năng đọc lưu loát, nghĩa là đọc chính xác các từ, cụm từ, câu một cách rõ ràng với tốc độ thích hợp và hiểu nghĩa những gì được đọc. * Các giai đoạn hình thành kỹ năng đọc cho học sinh trong giai đoạn Học vần Đọc là một kĩ năng phức tạp đòi hỏi quá trình luyện tập lâu dài. Trên thế giới hiện tồn tại một số cách phân chia các giai đoạn hình thành kĩ năng đọc. Trước đây, người ta sử dụng cách phân loại của T.G.Egorop [7]. Tác giả này chia việc hình thành kĩ năng đọc thành 3 giai đoạn : Phân tích – Tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc, chỉnh thể của hành động) - Tự động hóa. Giai đoạn phân tích - Dạy Học vần lớp 1 là đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận « từ » bằng thị giác và phát âm hầu như trùng lặp trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo, xuất hiện sự thông hiểu ý nghĩa của « từ » trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện cùng với đoán nghĩa. Theo cách phân chia này, dạy Học vần lớp 1 gồm giai đoạn phân tích và bước đầu của giai đoạn tổng hợp. Dạy đọc ở lớp 2 và 3 chủ yếu là giai đoạn đọc tổng hợp còn lớp 4,5 chuyển sang giai đoạn tự động hóa. Học sinh bắt đầu ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý đến việc chiếm lĩnh văn bản (bài đọc). Hiện nay, các nước sử dụng lí thuyết Jeanne Chall [7] chia sự phát triển kĩ năng đọc thành 6 giai đoạn: giai đoạn tiền đọc; giai đoạn bắt đầu đọc; giai đoạn xác nhận và đọc thành thạo; giai đoạn đọc để học kiến thức; giai đoạn tiếp cận đa quan điểm ; giai đoạn xây dựng và tái thiết. Giai đoạn học vần của học sinh lớp 1 tương ứng với giai đoạn 1 và 2. Tuy nhiên, giai đoạn 3 (tương ứng với lớp 2,3) cũng cần được quan tâm để có cái nhìn đa chiều thấu đáo trong việc phát triển kỹ năng đọc cho học sinh trong giai đoạn Học Vần. - Giai đoạn tiền đọc : Giai đoạn tiền đọc thực sự đã được bắt đầu ngay từ khi đứa trẻ mới sinh ra. Được sống trong môi trường ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, đứa trẻ bắt đầu thực hiện quá trình lĩnh hội và sản sinh ngôn ngữ (quá trình thụ đắc ngôn ngữ Sau khi nghe người lớn đọc một câu chuyện tranh, quan sát bố mẹ chỉ vào các từ và sử dụng ngón tay chỉ ra các chữ viết, trẻ có thể quan sát tranh vẽ, dựa vào bức tranh và trí nhớ của mình, trẻ có thể bắt chước đọc truyện. Khi trẻ quan sát bố mẹ hoặc người lớn đọc một tin nhắn trong điện thoại và trả lời tin nhắn với một tâm trạng vui vẻ, hứng thú, trẻ bắt đầu cảm nhận chữ viết như một hình thức giao tiếp. Tất cả những trải nghiệm này trong cuộc sống là kết quả để trẻ hiểu rằng chữ viết mang ý nghĩa và thông tin và phải biết đọc nó. Trẻ bắt đầu khám phá chữ viết và sử dụng các chức năng của nó bằng cách bắt đầu bằng những nét 9 nguệch ngoạc và đọc. Trẻ dựa vào chính các bức tranh trong các câu chuyện đã được người lớn đọc cho nghe, dựa vào trí nhớ để tự mình “đọc” câu chuyện, thậm chí trẻ tự mình “đọc” luôn cả những câu chuyện mới theo tranh và theo kinh nghiệm của mình. - Giai đoạn bắt đầu đọc: Để đọc hiểu được văn bản thì từ chữ viết (cái nhìn thấy), người đọc phải liên tưởng đến âm thanh, từ âm thanh liên tưởng đến tiếng, từ tiếng liên tưởng đến nghĩa. Quá trình này đòi hỏi người đọc thành thạo phải có khả năng thao tác theo chiều ngược lại, nghĩa là, người đọc phải ý thức được rằng tiếng là tập hợp của các âm riêng biệt và phải có khả năng phân xuất các âm riêng biệt ấy ra khỏi tiếng (Snow et al., 1998 dẫn theo RTI International 2010). Khả năng nhận diện âm trong tiếng và tách tiếng thành các âm riêng biệt được gọi là tri thức âm vị (phonemic awareness). Đây là một kĩ năng đọc ban đầu vô cùng quan trọng. + Học đọc các chữ cái riêng lẻ: Bước vào giai đoạn Học vần, trẻ bắt đầu với việc học đọc và viết các chữ cái tiếng Việt. Hiểu biết về sự tương ứng giữa chữ cái và âm là một trong những kĩ năng quan trọng đầu tiên HS cần nắm vững để có thể đọc được. Trẻ bắt đầu khám phá ra rằng mỗi chữ cái biểu thị cho một âm và mỗi âm được biểu thị bởi một chữ cái hay sự kết hợp các chữ cái. Việc nắm vững chữ cái nào tương ứng với âm nào cho phép HS có thể giải mã được các tiếng/từ mới gặp. Ở giai đoạn này, trẻ cần nhiều thời gian để học chữ cái riêng lẻ để có thể quen thuộc với việc phân biệt những đặc điểm cũng như âm của mỗi chữ cái, nhận ra các chữ cái với các kích thước và phông chữ khác nhau (chữ viết trong các áp phích, quảng cáo, biển hiệu,…), chữ cái với các màu sắc khác nhau, chữ viết in và chữ viết thường, chữ viết hoa,… Tuy nhiên, trẻ sẽ phát triển kiến thức về chữ cái một cách hiệu quả nhất, nếu các chữ cái được giới thiệu trong một ngữ cảnh (trong một câu chuyện, trong sách báo, biển hiệu,…). + Học đọc vần/ tiếng: Sau các chữ cái riêng lẻ, trẻ tiếp tục nhận biết được chuỗi các chữ cái biểu thị chuỗi các âm. Trẻ bắt đầu hiểu các chữ viết được tạo thành từ các chữ cái khác nhau theo một trật tự nhất định hoàn toàn không phải tùy ý. Ví dụ tiếng mèo gồm các âm /m/, /e/, /o/. Trẻ phải nhận ra một tiếng/từ sẽ được phân tách thành các âm riêng lẻ, xác định âm bắt đầu, âm kết thúc, âm ở giữa; nhận biết các từ sẽ có số lượng các âm khác nhau (từ có 2 âm, 3 âm, 4 âm). Trẻ phải nhớ các âm và vị trí của chúng trong một tiếng/từ. Trẻ cũng nhận thấy trong một tiếng/từ có thể có những chữ cái xuất hiện lại. Điều này có nghĩa rằng chuỗi các chữ cái tạo thành một tiếng/từ cũng quan trọng giống như việc từ có một ý nghĩa. Sự thay đổi của chữ cái sẽ tạo thành một từ với nghĩa hoàn toàn khác. Ví dụ: “cá” và “đá”, “mắt” và “cắt”, “bông – bang – bung”. Trẻ cũng phải học để có được nhận thức về vần trong một tiếng/từ, xác định được vần của một tiếng/ từ, nhận ra các tiếng/từ có cùng vần với nhau,…. Nghe đọc và nhận ra được âm của các chữ cái trong tiếng/từ (ở vị trí bắt đầu hay giữa hay vị trí cuối) + Học đọc tiếng/từ: Trẻ bắt đầu đọc những từ ngắn và đơn giản bằng cách phát âm và kết hợp các vần. Trẻ học và sử dụng cách đánh vần dựa vào các âm của chữ cái, bắt đầu đọc với cấu trúc phụ âm – nguyên âm (be, bé, cò, đa,…) rồi đến phụ âm – nguyên âm – phụ âm như: sàn, cam, sẽ,… Trẻ cũng đồng thời học 10 cách đọc theo hướng từ trái sang phải tương ứng với trật tự thời gian của các âm riêng lẻ trong một từ: Âm đầu tiên của một từ được nói ra tương ứng với chữ cái đầu tiên (hoặc nhóm chữ cái đầu tiên) trong một tiếng/từ và đọc từ trên xuống dưới. Trẻ bắt đầu nhận biết các từ hoàn chỉnh mà không cần phải đánh vần để đọc. Tiếp đến trẻ cũng bắt đầu hiểu thanh điệu trong ngôn ngữ nói được tượng trưng bởi một dấu hiệu riêng và là dấu thanh trong chữ viết tiếng Việt. Trẻ nhận ra dấu thanh cũng mang nghĩa và sự thay đổi dấu thanh sẽ thay đổi nghĩa của một từ . Cùng một thứ tự các âm nhưng có dấu thanh khác nhau sẽ đọc khác nhau và nghĩa cũng khác nhau. Ví dụ: “ban – bàn – bán – bản”. + Đọc câu/ đoạn/bài: Đọc câu/đoạn/bài là thước đo chung nhất của kĩ năng đọc trôi chảy. Để có thể đọc trôi chảy, trẻ phải có khả năng kết nối chữ với âm và kết hợp các âm tạo thành tiếng. Ở giai đoạn Học vần, việc đọc hiểu cũng bắt đầu được đặt ra như một cái đích quan trọng nhất của kĩ năng đọc. Để đọc hiểu, trẻ không chỉ cần có kĩ năng đọc trôi chảy mà còn phải có khả năng kết nối âm/chữ với nghĩa. - Giai đoạn xác nhận, sử dụng thành thạo: học sinh học lớp 2 – 3 (từ 79 tuổi). Về cơ bản, trong giai đoạn 3, trẻ được củng cố những gì đã học được trong giai đoạn trước. So với giai đoạn 2, trẻ đọc lưu loát hơn. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, trẻ đọc không phải nhằm mục đích thu thập thêm thông tin mới mà để củng cố, hoàn thiện thêm những kĩ năng đã biết trước đó. Trẻ vẫn tập trung sự chú ý vào chữ. Với các kĩ năng giải mã cơ bản và hiểu biết về cách phân tích, tổng hợp các âm vị đã có trong giai đoạn 2, trẻ có thể tiếp thu được thêm những nội dung mới trong bài đọc phù hợp với trình độ và ngôn ngữ của mình. Mặc dù giai đoạn 3 có bổ sung thêm các yếu phức tạp, khái quát hơn về ngữ âm, nhưng hầu hết kiến thức, kĩ năng mà trẻ học được là sử dụng kĩ năng giải mã ngôn ngữ trong các bài đọc. Tóm lại: Đọc là quá trình giải mã chữ thành âm (ứng với đọc thành tiếng) và giải mã chữ thành nghĩa (ứng với đọc hiểu). Giai đoạn Học vần lớp 1 gồm 2 bậc : giải mã chữ thành âm (tập ttrung ở hoạt động đọc chữ cái, đọc vần, tiếng) và giải mã chữ thành nghĩa (tập trung ở hoạt động đọc từ, câu). Bậc 1 là quá trình hoạt động của thị giác, cơ quan phát âm và cơ quan thính giác. Mắt tri giác bộ mã chữ - âm rồi phát ra một cách chính xác các kí tự hoặc những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là đọc thành tiếng. Bậc 2 là hoạt động nhận thức lí tính (tư duy, tưởng tượng) và xúc cảm để nhận thức bộ mã chữ nghĩa, mối liên hệ giữa các con chữ và ý nghĩa, khái niệm và các ý tưởng chứa đựng bên trong để hiểu nội dung những gì vừa đọc. 2.2. Thực trạng của việc đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần trong trường Tiểu học Quảng Lợi - Quảng Xương - Thanh Hóa * Mục tiêu khảo sát: Phân tích, đánh giá thực trạng dạy học đọc cho học sinh lớp 1 làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc cho các em. + Nội dung khảo sát 11 Nội dung khảo sát là thực trạng dạy học đọc cho HS lớp 1 hiện nay ở nhà trường phổ thông như chương trình, sách giáo khoa, quá trình dạy học trên lớp của thầy và khả năng đọc được của trò sau khi học xong phần Học vần và sau khi học xong chương trình với 2 nội dung: phương pháp dạy học của GV, tài liệu giáo khoa; khả năng đọc của HS sau khi học 103 bài Học vần và hết chương trình lớp 1. + Đối tượng, địa bàn và thời gian khảo sát - Khảo sát được thực hiện đối với HS lớp 1 tại 5 lớp với 166 HS ở Trường tiểu học Quảng Lợi, Quảng Xương, Thanh Hóa. HS có dấu hiệu khuyết tật trí tuệ,.. không là đối tượng khảo sát của đề tài. - Khảo sát được thực hiện vào thời gian sau khi HS học 100 bài Học vần và giữa học kì 2 năm học 2018 - 2019. + Phương pháp khảo sát: - Điều tra qua phiếu: Thiết kế và sử dụng phiếu điều tra khả năng đọc được của HS - Quan sát: dự giờ 10 tiết dạy học đọc để thu nhập thông tin về thực trạng quá trình dạy học đọc trên lớp của thầy và trò. Các kĩ năng đọc tương ứng với từng phần và các chỉ báo của từng kĩ năng được tóm tắt trong bảng dưới đây: Các phần Kĩ năng đọc Thể hiện khả năng HS Cách đo và các ban đầu có thể chỉ báo 1. Xác định Kiến thức Nhận diện đúng âm Số âm đầu đọc đúng âm đầu của âm vị đầu của tiếng nghe trên tổng số 10 tiếng tiếng được nghe được 2. Kiến thức Kiến thức Đọc đúng âm của chữ về âm của ngữ âm cái in thường hoặc in chữ cái hoa xếp theo thứ tự ngẫu nhiên 3. Đọc tiếng Đọc tiếng/từ Đọc tiếng đơn giản và quen thuộc quen thuộc Số âm đọc trong 1 phút đúng Tổng số tiếng đọc đúng trong vòng 1 phút 4. Đọc tiếng Nguyên tắc Nhận diện đúng mối Tổng số tiếng đọc tự tạo ghi âm quan hệ chữ-âm thông đúng trong vòng 1 qua việc đọc các tiếng phút tự tạo (không quen thuộc) 5. Đọc hiểu a. Đọc thành a. Đọc câu ở tốc độ hội a. Tổng số từ đọc câu tiếng câu thoại và diễn cảm thích đúng trong 1 phút b. Đọc hiểu hợp b. Tổng số câu trả lời câu b. Trả lời đúng các câu đúng vừa đọc - Về chương trình và sách giáo khoa: 12 Chương trình dạy chữ trên cơ sở phát triển và hoàn thiện toàn diện các kỹ năng khác (nghe, nói). Ngữ liệu để học ở giai đoạn học chữ là những từ ngữ, câu ngắn, đoạn ngắn, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao...phù hợp với yêu cầu học chữ và rèn kỹ năng. Ngữ liệu học được lựa chọn phù hợp với đặc điểm lứa tuổi lớp 1, có tác dụng giáo dục và mở rộng sự hiểu biết cho HS. Tuy nhiên, theo chúng tôi, sách giáo khoa dạy đọc như hiện nay in nhiều tranh, HS nhìn tranh nhớ ra từ và đọc. Từ đưa ra để dạy đọc cho học sinh còn nhiều từ khó đối với HS đầu lớp 1 để hiểu nghĩa của từ; giáo viên cũng gặp không ít khó khăn trong việc giải thích, dẫn đến HS đọc mà không hiểu nghĩa, nội dung từ đang đọc, hạn chế việc ghi nhớ ở các em. VD: gà gô, gà ri, cá ngừ, cá trê, xưa kia, da dê, da thỏ, thợ nề, xa xa, xe chỉ, ý nghĩ, tre ngà, ngựa tía, mưu trí, bướu cổ, khăn rằn, cuồn cuộn, rặng dừa, phẳng lặng, dòng kênh, dừa xiêm, cúc vạn thọ,... [6] Ở phần thực hành, luyện tập có những đoạn văn, đoạn thơ, câu danh ngôn, tục ngữ chứa vần cần học mang đậm chất nghệ thuật, gây khó hiểu đối với học sinh lớp 1. VD: Sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập một [6] Bài 53: ăng, âng “Vầng trăng hiện lên sau rặng dừa cuối bãi. Sóng vỗ bờ rì rào, rì rào,…” Bài 55: Vần eng, iêng "Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân". Bài 60: Vần om, am "Mưa tháng bảy gãy cành trám Nắng tháng tám rám trái bòng". Bài 62: Vần ôm, ơm "Vàng mơ như trái chín Nhành giẻ treo nơi nào Gió đưa hương thơm lạ Đường tới trường xôn xao". Bài 80: Vần iêc, ươc "Quê hương là con diều biếc Tuoi tho con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông". - Về quá trình dạy học trên lớp: Điều kiện dạy học: Sĩ số HS lớp học vẫn còn khá đông, GV khó kiểm soát hết được mức độ nhận thức của từng HS trong từng nội dung dạy học, buổi học, có HS khó theo kịp được các bạn trong bài học nào đó thì đến các bài tiếp theo sẽ lại tiếp tục bị lùi lại sau. Không gian phòng học chật chội; bàn ghế ngay ngắn, thẳng tắp, không thể di chuyển tạo thành nhóm dễ dàng được. Qua quá trình khảo sát trực tiếp GV tiểu học đứng lớp thì có đến 80% cho rằng trong suốt buổi học, bàn ghế HS không di chuyển, HS ngồi đúng vị trí ngay ngắn và thẳng tắp, bởi không gian phòng học không cho phép, việc di chuyển gây mất thời gian, ồn ào lớp học,... 13 Phương pháp dạy của GV: Cũng qua quá trình khảo sát GV trực tiếp giảng dạy lớp 1 và các nhà quản lý là Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng của các trường tiểu học, chúng tôi nhận thấy: với câu hỏi «GV đã sử dụng phương pháp nào để dạy học đọc cho HS lớp 1 ? »  thì 100% câu trả lời là sử dụng phương pháp thực hành luyện tập, 90% sử dụng phương pháp trực quan, 40% sử dụng phương pháp trò chơi và chỉ 10% sử dụng phương pháp hỏi đáp và đặt và giải quyết vấn đề. Với câu hỏi : « GV tiến hành dạy học đọc cho HS lớp 1 thông qua hình thức nào ?« thì 100% GV tổ chức dạy học chung cả lớp, 30% tổ chức dạy học theo nhóm và linh hoạt kết hợp các hình thức dạy học khác nhau trong cùng buổi học và chỉ 20% GV sử dụng hình thức dạy học theo cá nhân HS đối với trường hợp là HS kém,…Như vậy, về phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, nhiều GV áp dụng phương pháp dạy học trực quan chưa chính xác, lạm dụng đồ dùng trực quan dẫn đến nhiều hiện tượng HS nhìn tranh đọc chữ. Nhiều GV tổ chức giờ dạy chưa linh hoạt, chưa phong phú; dạy rập khuôn theo sách giáo khoa, sách giáo viên, ít sáng tạo, khô khan. HS tham gia thụ động, chơi ít, giờ học nhàm chán. Mặt khác, chỉ sử dụng một hình thức dạy chung tập thể lớp, đôi lúc đã gây khó khăn cho HS bởi thực tế trình độ HS thường không đồng đều. Nhiều GV phân bổ thời gian dạy chưa phù hợp, còn sa đà ở tiết một nhiều, tức là giới thiệu và giải nghĩa nhiều, còn ít thời gian cho luyện tập, thực hành ở tiết 2; GV hướng dẫn quá kỹ, HS học thụ động, GV trở thành là trung tâm của buổi học mà không phải là HS. Cũng qua quá trình tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc dạy học đọc cho HS lớp 1 hiện nay chưa được như mong muốn, chúng tôi nhận thấy có 65% GV và các nhà quản lý giáo dục tiểu học cho rằng chương trình và sách giáo khoa dạy học đọc chưa thực sự thiết thực và phù hợp; 82% cho rằng các phương pháp dạy học trên lớp cũng như các hình thức tổ chức dạy học chưa đa dạng, chưa thu hút HS tham gia vào quá trình dạy học và chưa thực sự hiệu quả; 50% cho rằng việc kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học đọc của GV còn bất cập; chỉ 13% cho rằng HS lớp 1 hiện nay được nuông chiều, ít học và cũng chỉ 34% cho rằng chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giúp đỡ HS luyện đọc ở nhà giữa gia đình và nhà trường. Như vậy, trong những nguyên nhân dẫn đến việc dạy học đọc cho HS lớp 1 hiện nay chưa được như mong muốn là do sách giáo khoa; phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học đọc và kiểm tra đánh giá. Đây có thể cũng chính là những căn cứ để chúng tôi đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc cho HS lớp 1 nói chung, HS trong giai đoạn Học vần nói riêng trong đề tài của mình. Qua nghiên cứu cơ sở lí luâ ̣n và thực tiễn của đề tài, chúng tôi nhâ ̣n thấy những điểm nổi bâ ̣t sau: - Các tác giả đi trước trong nước cũng đã nghiên cứu các phương pháp dạy âm vần tiếng Việt. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các phương pháp và kĩ thuật nâng cao hiệu quả dạy đọc cho học sinh lớp 1 trong giai đoạn Học vần chưa được quan tâm. - Sách giáo khoa dạy học đọc về cơ bản đã thể hiện được mục tiêu dạy đọc trên cơ sở phát triển và hoàn thiện toàn diện các kĩ năng khác (nghe, nói). Tuy nhiên, việc đưa ra các bước dạy học từng âm, từng vần, dạy gần như tất cả 14 các vần khá kĩ. Bên cạnh đó, nội dung dạy đọc hiểu để hỗ trợ đọc đúng tốt hơn và có kỹ năng đọc thì chưa được thể hiện rõ ràng. - Ngữ liệu để học ở giai đoạn học chữ là những từ ngữ, câu ngắn, đoạn ngắn, các thành ngữ, tục ngữ ca dao...được lựa chọn phù hợp với yêu cầu học chữ và rèn kỹ năng, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi lớp 1, có tác dụng giáo dục và mở rộng sự hiểu biết cho HS. Tuy nhiên vẫn còn từ ngữ khó, chưa thiết thực, câu còn nặng tính nghệ thuật gây khó khăn cho HS và GV khi giảng để HS hiểu được. - Phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học đọc cho HS của GV còn chưa tạo cho HS hứng thú học tập, động cơ học đọc, sự chủ động tích cực trong học đọc… Từ kết quả nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần, một lần nữa khẳng định các nguyên tắc dạy học tiếng mẹ đẻ được nhiều tác giả giáo học pháp Tiếng Việt đề xuất (như Lê Phương Nga, Lê A, Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo, 2011). Những nguyên tắc này được vận dụng để xây dựng các biện pháp dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần, đặc biệt 3 nguyên tắc sau được đặc biệt chú ý: 1) Bám sát mục tiêu, chương trình Học vần lớp 1; 2) Đề cao sự tích cực, sáng tạo của học sinh; 3) Đảm bảo tính hấp dẫn, tạo hứng thú cho học sinh. - Như vậy, để nâng cao được chất lượng dạy học đọc cho HS lớp 1 giai đoạn Học vần, cần xem xét từ chương trình, SGK dạy học đến phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học của GV theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. 2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy và học cho học sinh lớp trong giai đoạn Học vần Kế thừa và phát huy những kết quả, những điểm mạnh của các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam về dạy học đọc nói chung cho HS tiểu học, đặc biệt là HS tiểu học đầu cấp lần đầu học ngôn ngữ, chúng tôi lựa chọn và xây dựng các biện pháp dạy học đọc nhằm nâng cao hiệu quả cho HS lớp 1 trong giai đoạn Học vần gồm: Đa dạng hóa kiểu dạng bài tập dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần; Lựa chọn, thiết kế ngữ liệu thiết thực, thú vị để dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần; Sử dụng phối hợp các hình thức dạy học đọc giai đoạn Học vần tạo hứng thú và tích cực hóa hoạt động của học sinh * Đa dạng hóa kiểu dạng bài tập dạy học đọc cho học sinh lớp 1 giai đoạn Học vần - Ý nghĩa của bài tập trong việc dạy học đọc giai đoạn Học vần Trong các tài liệu về Phương pháp dạy học Tiếng Việt, việc hình thành cho học sinh khả năng sử dụng tiếng Việt như một công cụ giao tiếp, tư duy và học tập đã được nhấn mạnh là mục tiêu dạy học quan trọng bậc nhất của môn Tiếng Việt ở bậc phổ thông. Hướng theo mục tiêu này, người học không chỉ học ngôn ngữ mà quan trọng hơn, học cách sử dụng ngôn ngữ để tư duy, để học tập và giao tiếp. Muốn thế, phải tổ chức hoạt động sử dụng tiếng Việt cho học sinh. Bởi khả năng giao tiếp chỉ có được thông qua hoạt động giao tiếp. 15 Quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng xem quá trình hình thành và phát triển khả năng tiếng Việt cho học sinh là quá trình hình thành và phát triển một hoạt động. Quan niệm trên dẫn đến một nguyên tắc sư phạm đã được khái quát như sau: dạy tiếng Việt là dạy hoạt động giao tiếp và bằng hoạt động giao tiếp. Theo nguyên tắc này, việc dạy tiếng không phải là cung cấp một kho tri thức thụ động về ngôn ngữ mà là quá trình phát triển hành động lời nói thông qua một hệ thống hoạt động hay bài tập. Quan điểm hoạt động lời nói đưa hệ thống bài tập dạy tiếng lên hàng ưu tiên trong giáo dục tiếng mẹ đẻ ở bậc tiểu học. Theo Lê Phương Nga [5], hệ thống bài tập dạy tiếng Việt đã phát triển qua hai giai đoạn, ở giai đoạn một, bài tập không nhằm đưa học sinh vào hoạt động nói năng mà chỉ để cung cấp hay củng cố những tri thức lí thuyết ngôn ngữ học. Ở giai đoạn hai, hệ thống bài tập nhằm thực hiện đến mức thành thục những kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh, là các tình huống học tập phục vụ cho mục đích phát triển khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Đó là một hệ thống bài tập có tác dụng thiết lập tiến trình các hoạt động/hành vi/thao tác giúp người học chủ động hoạt động thực hiện những mục tiêu giao tiếp cụ thể của từng bài học Tiếng Việt, một hệ thống bài tập Tiếng Việt phản ánh được bao quát cơ chế lĩnh hội và sản sinh lời nói. Giai đoạn dạy Học vần lớp 1 không thể đi ra khỏi quỹ đạo này. Chỉ có điều, đây là giai đoạn tiền giao tiếp, nó có mục tiêu giải mã bậc 1: chữ  âm và bắt đầu tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ, câu. Việc tổ chức giờ Học vần phải được tiến hành thành một chuỗi hoạt động hay nói cách khác, tổ chức cho học sinh thực hiện một chuỗi các bài tập. Trong quá trình học đọc, HS sẽ thực hành luyện đọc thành tiếng. Đọc thành tiếng là cần thiết nhưng nếu chỉ thực hiện bài tập đọc thành tiếng thì hiệu quả dạy đọc sẽ bị hạn chế vì hình thức bài tập này có hai nhược điểm sau: thứ nhất, tại một thời điểm chỉ có một HS đọc, những HS khác thường nghe thụ động; thứ hai, những kết quả của đọc thành tiếng không lưu giữ được nên cả thầy và trò khó kiểm soát. Chính vì vậy cần bổ sung cho quá trình dạy học đọc giai đoạn Học vần những bài tập có thể không chỉ yêu cầu học sinh dùng lời mà còn sử dụng hành động như viết, vẽ, tô nối, đánh dấu... dưới hình thức những bài trắc nghiệm. Việc thực hành luyện đọc thông qua giải quyết các bài tập sẽ giúp HS ghi nhớ chữ viết nhanh hơn, bền vững hơn và sâu sắc hơn. Giáo viên dễ dàng kiểm soát kết quả học tập của mỗi HS: có thể thu được thông tin ngược từ phía HS, xem mức độ nắm bài của các em tới đâu, các em đã hiểu bài chưa, có bao nhiêu em đã hiểu bài, đã giải quyết được nhiệm vụ của bài tập đề ra và bao nhiêu em chưa giải quyết được, hay các em còn vướng mắc chỗ nào, với phương pháp ấy đã phù hợp chưa từ đó điều chỉnh cách thức, phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả tốt nhất. Để HS thực hành, luyện tập được nhiều nội dung, GV thu được thông tin ngược từ phía HS chính xác và nhanh nhất; sự nhận xét đánh giá là toàn diện thì các bài tập ra phải bao quát hầu hết các nội dung học tập cơ bản mà nhiệm vụ học tập đề ra, HS cần phải nắm được trong nội dung học đó. Đặc điểm tâm sinh lí của HS đầu lớp 1 có những nét đặc thù riêng, do đó bài tập cho các em cũng phải đáp ứng những đặc điểm tâm lí ấy, như bài tập phải có tính đa dạng về hình thức, tính hấp dẫn để gây hứng thú cho HS trong quá trình làm bài tập, làm giảm bớt sự mệt mỏi ở các em. Ngoài ra, bài tập phải 16 giúp cho việc đánh giá có căn cứ và khoa học tức là phải đếm được, đo được, quan sát được. Xuất phát từ lí do đó mà việc đưa ra các bài tập là các câu hỏi trắc nghiệm khách quan đảm bảo được các yêu cầu trên. Có thể nhận thấy những ưu điểm của các loại bài tập này như: do dạng câu hỏi này có thể lấy mẫu được rộng rãi, vì thế có thể hỏi được nhiều câu hỏi, sẽ bao quát được hết các nội dung cơ bản; hình thức bài tập phong phú đa dạng, tránh sự tẻ nhạt, gây chán nản ở HS trong quá trình làm bài; HS được thực hành luyện tập nhiều sẽ hiểu bài sâu sắc hơn, nhớ bài lâu hơn. Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là dạng mà nhà sư phạm xây dựng theo yêu cầu của đề bài cùng với các đáp án có sẵn từ đó HS lựa chọn đáp án phù hợp với nội dung dạy học đề ra. * Mối quan hệ và điều kiện thực hiện các giải pháp - Mối quan hệ giữa các biện pháp Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, chúng tôi thấy cần thiết phải nâng cao chất lượng dạy học đọc cho HS lớp 1 trong giai đoạn Học vần, đòi hỏi quá trình dạy học đọc trên lớp của thầy và trò phải hiệu quả hơn. Để nâng cao được chất lượng dạy học đọc cho HS lớp 1 giai đoạn Học vần thì nội dung dạy học, phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học cần được phù hợp hơn. Do đó, 3 biện pháp mà đề tài đưa ra (đa dạng hóa kiểu dạng bài tập dạy học đọc cho HS lớp 1giai đoạn Học vần; lựa chọn, thiết kế ngữ liệu thiết thực, thú vị để dạy học đọc giai đoạn Học vần; sử dụng phối hợp các hình thức dạy học đọc giai đoạn Học vần tạo hứng thú và tích cực hóa hoạt động của HS) tuy độc lập nhưng cũng có mối quan hệ qua lại, bổ sung lẫn nhau và cùng hướng đến mục tiêu chung là nâng cao chất lượng dạy học cho các em. Biện pháp 1, 2 thuộc biện pháp tác động vào nội dung dạy học, còn biện pháp 3 thuộc biện pháp các hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng thú, tính tích cực, hiệu quả. Cả 3 biện pháp trên đều có quan hệ cộng hưởng với nhau, cùng hướng đến mục tiêu chung góp phần nâng cao được chất lượng học đọc cho HS. Để nâng cao được chất lượng dạy học đọc cho HS cần phối kết hợp cả 3 biện pháp một cách đồng bộ. * Điều kiện thực hiện các biện pháp - Đối với cấp quản lí: Trong quá trình triển khai thực hiện các biện pháp, các cấp quản lý cần: + Ủng hộ và khuyến khích GV sáng tạo trong tổ chức dạy học; thiết kế phiếu bài tập, đồ dùng dạy học để giờ học thêm phong phú, hấp dẫn. + Giảm tải số lượng HS trong mỗi lớp học, đảm bảo không quá 35 HS/lớp học. + Tạo điều kiện về mặt thời gian, cơ sở vật chất, môi trường làm việc, học tập vui tươi, thoải mái; HS “Mỗi ngày đến trường là mỗi ngày vui”. + Thường xuyên tổ chức thao giảng, dự giờ, học tập, bổ trợ nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho GV. + Thường xuyên động viên, củng cố, bồi dưỡng tình yêu, sự quan tâm, tận tụy của GV đối với nghề, với HS (trẻ thơ). * Đối với giáo viên: 17 Để thực hiện được tốt các biện pháp, GV cần: - Trong mỗi giờ học cần sáng tạo, thiết kế phiếu bài tập, lựa chọn đồ dùng dạy học trực quan thú vị phù hợp từng đối tượng HS. - Được tập huấn phương pháp, biện pháp dạy học tích cực. - Luôn ý thức tự bồi dưỡng, học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong dạy học đọc cho HS lớp 1. - Thường xuyên cập nhật, tìm kiếm các thông tin trên các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại để sáng tạo làm mới các giờ học, mỗi một giờ học đọc trôi qua đầy mới mẻ và thú vị. - Luôn bồi dưỡng tình yêu đối với nghề; hết lòng tận tụy dạy dỗ, quan tâm và giúp đỡ các em. - Chăm chỉ, chịu khó, ý chí, quyết tâm, nổ lực vì công việc. - Thường xuyên trao đổi với gia đình HS về tinh thần, khả năng tiếp thu và kết quả học của HS để phối hợp hỗ trợ, giúp đỡ HS khi ở nhà. * Đối với gia đình học sinh: Những ngày đầu đến trường, các em lớp 1 còn rụt rè, bỡ ngỡ. Để HS lớp 1 thực hiện giai đoạn Học vần được tốt hơn thì gia đình, phụ huynh HS cần đặc biệt quan tâm, thường xuyên liên lạc với GV để kịp thời nắm bắt, phối hợp cùng GV động viên HS, hỗ trợ HS khi các con đọc thêm ở nhà. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã trình bày ở chương 3, luận án đã đề xuất biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học đọc cho HS lớp 1 trong giai đoạn Học vần đó là: + Biện pháp 1. Đa dạng hóa kiểu dạng bài tập dạy học đọc cho HS lớp 1giai đoạn Học vần. + Biện pháp 2. Lựa chọn, thiết kế ngữ liệu thiết thực, thú vị để dạy học đọc giai đoạn Học vần. + Biện pháp 3. Sử dụng phối hợp các hình thức dạy học đọc giai đoạn Học vần tạo hứng thú và tích cực hóa hoạt động của HS. - Ba biện pháp trên có mối quan hệ cộng hưởng, cùng nhau hướng đến mục tiêu chung là nâng cao chất lượng dạy học đọc cho HS lớp 1 ngay từ giai đoạn Học vần. Trong mỗi biện pháp lại có vai trò chủ đạo góp phần không thể thiếu vào sự thành công của quá trình dạy học cho HS lớp 1 giai đoạn Học vần. - Mỗi biện pháp được trình bày bao gồm ý nghĩa, nội dung và cách thức tổ chức thực hiện từng biện pháp cụ thể. - Hệ thống các biện pháp chỉ đem lại hiệu quả khi có những điều kiện cơ bản về các cấp quả lí và GV trực tiếp giảng dạy. Trong thực tế hiện nay, môi trường giáo dục có nhiều thuận lợi để vận dụng các biện pháp dạy học thú vị, tạo tính tích cực và phát huy tiềm năng của mỗi HS (như các biện pháp chúng tôi đã đề xuất). Do đó, để nâng cao được chất lượng học đọc của HS, ngay từ những ngày đầu học đọc, cần có sự phối hợp đồng bộ điều kiện từ các cấp quản lí đến GV trong quá trình vận dụng các biện pháp chúng tôi đã đề xuất trên. 2.4. Hiệu quả của giải pháp dạy Học vần lớp 1 trong Trường tiểu học Quảng Lợi - Quảng Xương - Thanh Hóa. * Sau khi kết thúc giai đoạn Học vần: Bảng Tổng hợp kết quả đọc của HS lớp 1 sau khi kết thúc giai đoạn Học vần 18 Nội dung 1. Đọc âm đầu của tiếng Yêu cầu 10 Kết quả TB đạt được 8,1 2. Đọc âm chữ cái 80 49,6 3. Đọc tiếng quen thuộc 80 29,4 4. Đọc tiếng tự tạo 80 20,9 5. Đọc thành tiếng câu 60 35,7 6. Đọc hiểu câu 6 2,5 Cụ thể: - Đọc âm đầu của tiếng: Phần này được thiết kế gồm 10 tiếng. Khảo sát viên đọc to từng tiếng và yêu cầu HS đọc âm đầu. Kết quả thống kê cho thấy sau khi kết thúc giai đoạn Học vần, HS đọc khả quan hơn so với các nội dung còn lại trung bình HS đọc được 8,1 tiếng. Đây là miền đo có thể nói là khá đơn giản với các em. Tuy nhiên vẫn còn một số HS nhầm lẫn. - Đọc âm chữ cái: Ở phần này, HS được yêu cầu đọc âm của các chữ cái tiếng Việt trong vòng 60 giây. Bảng chữ cái gồm 80 chữ cái (do có một số chữ cái được lặp đi lặp lại) được xếp thành 8 hàng, mỗi hàng 10 chữ, theo thứ tự từ xuất hiện nhiều nhất đến xuất hiện ít nhất trong sách giáo khoa Tiếng Việt của mỗi khối lớp. Các kết quả cho thấy các em đọc được 49,6/80 chữ. - Đọc tiếng quen thuộc: Trong phần này, HS được yêu cầu đọc to trong vòng 60 giây các tiếng có trong Thẻ kích thích. Phần này dùng để đánh giá kĩ năng nhận diện từ rời và kĩ năng giải mã từ. Thẻ kích thích gồm 80 tiếng quen thuộc lấy từ sách Tiếng Việt lớp 1 (có tính đến sự đa dạng của các cấu trúc âm tiết, các phụ âm đầu, âm địa phương) và được xếp theo thứ tự ngẫu nhiên. Các kết quả trung bình HS đọc được 29,4 từ. - Đọc tiếng tự tạo: Ở phần này HS được yêu cầu đọc các tiếng tự tạo (tiếng lạ), không có nghĩa nhằm kiếm tra kĩ năng ghép tiếng của học sinh trong vòng 60 giây. Thẻ đọc bao gồm 80 tiếng được sắp xếp theo thứ tự ngẫu nhiên. 80 tiếng này thể hiện sự đa dạng về phụ âm đầu và mô hình âm tiết tiếng Việt có trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1. Kết quả HS đọc được 20,9 tiếng. Có thể nói đây là phần khó và vẫn còn khá nhiều HS đọc chậm hoặc chưa đọc được. - Đọc thành tiếng câu: Ở phần này, HS được yêu cầu đọc thành tiếng trong vòng 60 giây một số câu được biên soạn phù hợp với HS giai đoạn học vần. Tổng số tiếng trong các câu dài 60 tiếng. Kết quả HS đọc được 35,7 tiếng. - Đọc hiểu câu văn: Sau khi kết thúc 60 giây đọc trôi chảy câu văn, HS được yêu cầu đọc lại (đọc thầm) một lần các câu và thực hiện trả lời 6 câu. Kết quả trung bình số câu hiểu đúng của HS là 2,5 câu. Đây cũng là một trong hai bài đo khó đối với các em. 19 3. Kết luận, kiến nghị 3.1. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu tư liệu, khảo sát thực tiễn và thực nghiệm sư phạm, đề tài luận án đưa đến kết luận như sau: - Để nâng cao được chất lượng đọc cho HS lớp 1 nói riêng, HS tiểu học nói chung cần phải quan tâm nâng cao chất lượng đọc của các em ngay từ những ngày đầu-giai đoạn Học vần. Mỗi người có một kiểu tư duy và học tập khác nhau. Dạy học đọc cho HS đòi hỏi phải phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể. - Kết quả khảo sát HS lớp 1 sau khi kết thúc giai đoạn Học vần, sách giáo khoa lớp 1 hiện hành do Bộ Giáo dục xuất bản, các chuyên gia giáo dục về tiểu học và GV trực tiếp dạy lớp 1 cho thấy việc dạy đọc cho học sinh lớp 1 của chúng ta hiện nay mặc dù đã đạt được những bước tiến đáng kể nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Có thể nói, tài liệu dạy học, quá trình tổ chức dạy học đọc trong giai đoạn Học vần cần được quan tâm và có biện pháp cải thiện để nâng cao chất lượng đọc của HS. - Tiếp thu những đánh giá, những nhận định, những nghiên cứu của các tác giả đi trước; sáng kiến đã đề xuất 03 biện pháp về nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học đọc ở giai đoạn Học vần cho HS lớp 1 với mục tiêu phù hợp, thiết thực, thú vị hơn; HS tham ra học tập tự giác, tích cực, hào hứng, dễ dàng và hiệu quả hơn, phát huy được tốt nhất tiềm năng của mỗi người. - Quá trình thực nghiệm và kết quả đánh giá thực nghiệm thu được cho thấy mục đích thực nghiệm đã đạt được; tính thiết thực, khả thi của các biện pháp đã được khẳng định. Như vậy, nhờ có những phương pháp tổ chức học sinh động, thú vị, sự thân hiện của thầy cô, bạn bè mà giờ Học vần trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ đầy hào hứng; HS tham gia giờ học thích thú; GV, lãnh đạo nhà trường và phụ huynh HS nhiệt tình ủng hộ. Điều này đã khẳng định tính khả thi và hiệu quả đạt được của các biện pháp đưa ra của luận án 3.2. Kiến nghị - Đối với giáo viên: Trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng dạy học của giáo viên lớp 1 cần được thường xuyên cập nhật, học tập, trao đổi, bồi dưỡng nâng cao kịp thời đáp ứng, theo kịp với yêu cầu và phát triển xã hội. - Đối với nhà trường: Cần trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đặc biệt là cho học sinh lớp 1 trong giờ Học vần cần được cung cấp đầy đủ, phong phú, đa dạng, hiện đại. Tôi xin chân thành cảm ơn! Quảng Xương, ngày 12 tháng 4 năm 2019 XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Đoàn Văn Bốn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan