Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên tiểu học trên...

Tài liệu Một số giải pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên tiểu học trên địa bàn thành phố hồ chí minh

.DOC
144
242
131

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH MAI THỊ NGỌC LAN MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC (Bậc Tiểu học) VINH, 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH MAI THỊ NGỌC LAN MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Giáo dục Tiểu học Mã số: 60.14.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học PGS, TS. Nguyễn Bá Minh VINH, 2011 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo của Đại học Vinh đã tạo mọi điều kiện và tận tình truyền đạt kiến thức trong 3 năm qua. Đặc biệt, tôi trân trọng cảm ơn PGS, TS. Nguyễn Bá Minh - trong vai trò là cố vấn khoa học - đã nhiệt tâm giúp đỡ, trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn: Quí Thầy, Cô khoa Giáo dục Tiểu học, trường đại học Vinh; các Thầy, Cô là lãnh đạo Phòng Giáo dục Tiểu học (Sở Giáo dục và Đào tạo TP. Hồ Chí Minh); Phòng Giáo dục và Đào tạo quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh ; đội ngũ các Thầy, Cô lãnh đạo, giáo viên, các đồng nghiệp; phụ huynh và học sinh các trường Tiểu học trên địa bàn Thành phố... đã hỗ trợ, giúp đỡ về tài liệu, tư liệu; cũng như động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và triển khai thực hiện luận văn này. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn và đón nhận những ý kiến đóng góp quí báu của các Thầy, Cô, đồng nghiệp, bạn bè... để có thể hoàn thiện công trình hơn, khi điều kiện cho phép. Vinh, tháng 11 năm 2011 TÁC GIẢ MỤC LỤC MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1 NỘI DUNG.............................................................................................................6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI......................................................6 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.............................................................................6 1.2. Giao tiếp sư phạm........................................................................................11 1.3. GTSP của GVTH........................................................................................22 1.4. Kỹ năng GTSP của GVTH..........................................................................25 1.5. Bồi dưỡng KNGTSP cho GVTH..................................................................33 Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.................................................40 2.1. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu thực trạng..............................................40 2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng....................................................................45 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG GIAO TIẾP SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH67 3.1. Các nguyên tắc đề xuất giải pháp.................................................................67 3.2. Một số giải pháp cụ thể................................................................................68 3.3. Khảo sát tính khả thi của các giảp pháp.......................................................83 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................93 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC..........................................................................................................PL1 DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT Bồi dưỡng giáo viên BDGV Bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm BDKNGTSP Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GD – ĐT Giao tiếp sư phạm GTSP Giao tiếp sư phạm ngoài nhà trường GTSP NT Giao tiếp sư phạm trong nhà trường GTSP TNT Giáo dục tiểu học GDTH Giáo viên GV Học sinh HS Hoạt động sư phạm HĐSP Kỹ năng giao tiếp KNGT Kỹ năng giao tiếp sư phạm KNGTSP Kỹ năng sư phạm KNSP Phụ huynh học sinh PHHS Thành phố Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh Tỷ lệ Xã hội TL XH DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 - Mối quan tâm của XH về KNGT và KNGTSP........................50 Bảng 2.2 - Vai trò, tầm quan trọng của KNGTSP đối với đội ngũ GVTH .......................................................................................................................51 Bảng 2.3 - Về KNGTSP của đội ngũ GVTH hiện nay..............................52 Bảng 2.4 - Về những hạn chế trong KNGTSP của đội ngũ GVTH.........53 Bảng 2.5 - Về những yếu tố quyết định chất lượng giảng dạy của GVTH .......................................................................................................................54 Bảng 2.6 - Về việc vận dụng lý thuyết KNGTSP vào giảng dạy..............55 Bảng 2.7 - Về tự bổ sung kiến thức KNGTSP của GVTH.......................55 Bảng 2.8 - Về các giải pháp để đội ngũ GVTH phát huy hiệu quả KNGTSP.......................................................................................................56 Bảng 2.9 - Khảo sát số chuyên đề đã triển khai.......................................57 Bảng 2.10 - Các đối tượng khảo sát............................................................58 Bảng 2.11 - Khảo sát thực trạng về nô ôi dung BDKNGTSP.....................58 Bảng 2.12 - Khảo sát thực trạng về phương pháp BDKNGTSP.............62 Bảng 2.13- Khảo sát tính thiết thực của các nội dung BDKNGTSP.......63 Bảng 3.1 - Các đối tượng khảo sát..............................................................83 Bảng 3.2 - Tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp.....................84 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dù khởi đầu chỉ là những cử chỉ, điệu bộ đơn giản nhất, nhưng giao tiếp nói chung là hành vi không thể thiếu; ra đời và gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người. Kỹ năng giao tiếp (KNGT) nói riêng nằm trong hệ thống các hành vi ứng xử hàng ngày của con người, được thể hiện trên tất cả mọi lĩnh vực; diễn ra trong mọi không gian, thời gian, môi trường… của đời sống, từ gia đình đến công sở, trường học và rộng lớn hơn là toàn xã hội. Riêng trong môi trường học đường, có thể nói, KNGT là hoạt động diễn ra một cách thường xuyên, liên tục với tần suất rất cao. Đúng như GS, TSKH. Lê Ngọc Trà, khi bàn về vai trò và tầm quan trọng của kỹ năng này trong môi trường giáo dục đã nhận định: “Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với giáo dục. Hay nói một cách cụ thể hơn, thì ở phương diện nào đó, giáo dục chính là giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Ngoài ra giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung quan trọng của giáo dục” [16]. Để gặt hái được những thành công trong cuộc sống, ngoài tư chất, kinh nghiệm chuyên môn và vốn tri thức tổng hợp, đòi hỏi mỗi cá nhân con người phải có kiến thức nhất định về KNGT. Trong thời đại hiện nay, nếu để tâm quan sát, ta sẽ thấy một điều thú vị. Đó là, trong khi đông đảo cộng đồng ngày càng để ý và quan tâm sâu sắc hơn tới vấn đề giao tiếp; thì giới nghiên cứu cũng lặng lẽ tìm hiểu vai trò, tầm quan trọng cũng như những giá trị, những đóng góp trong đời sống của hoạt động cũng như kỹ năng này. Trong đó, người ta đặc biệt dành nhiều công sức cho việc tìm hiểu, khám phá, thẩm định những vấn đề cơ bản và quan trọng thuộc phạm trù giao tiếp. Do vậy, vấn đề giao tiếp giữa con người với con người nói chung; giao tiếp trong lĩnh vực sư phạm nói riêng đã, đang và luôn được giới nghiên cứu càng quan tâm tìm hiểu và khám phá như một vấn đề có tính thời sự. 2 Riêng trong lĩnh vực giáo dục, khoa học về tâm lý đã khẳng định, để bảo đảm cho một quá trình giáo dục đạt hiệu quả, người giáo viên (GV) - trong vai trò là chủ thể truyền đạt kiến thức - phải biết phát huy khả năng giao tiếp với đồng nghiệp, phụ huynh, nhưng trước hết và thường xuyên nhất là với đối tượng chủ yếu là học sinh (HS) của mình. Quả vậy, đối tượng hoạt động nghề nghiệp thường xuyên và chủ yếu nhất của GV là con người, do đó, giao tiếp là một kỹ năng quan trọng và là một công cụ lao động đặc trưng của nhà giáo. Đặc biệt, đối với bậc học tiểu học là bậc học mang tính nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, càng đòi hỏi cao hơn về khả năng sư phạm, nhất là năng lực giao tiếp sư phạm (GTSP) của người GV đối với chủ nhân tương lai của quốc gia, dân tộc. Qua tham dự một số diễn đàn khoa học, tiếp nhận các thông tin từ sách, báo, tài liệu; cũng như quan sát và tìm hiểu từ thực tiễn, tác giả luận văn nhận thấy: Những năm gần đây, KNGT trong môi trường học đường nói chung đang có những thay đổi mạnh mẽ, bao gồm cả sự tích cực lẫn tiêu cực. Nhiều ý kiến cho rằng: Nếu xuất phát từ quan điểm “gieo thói quen, gặt tính cách”; và: “sự định hình tính cách sẽ tạo nên nhân cách, nhân bản”; thì có thể nói, các hoạt động giao tiếp (HĐGT) trong môi trường học đường hiện nay, nhiều lúc nhiều nơi đang có xu hướng bị coi nhẹ, thậm chí bị thả nổi. Ngay đối với đội ngũ GV, trong vai trò là những “máy cái” góp phần tạo dựng và hình thành nên nhân cách, tạo nên “font” văn hoá chuẩn mực của hệ thống “máy con” tương lai - là các em HS; thì KNGTSP của họ cũng chưa thực sự được coi trọng và quan tâm đúng mức. Thực tiễn giáo dục nói chung, thực trạng trên nói riêng đang đặt hệ thống giáo dục từ trung ương đến cơ sở đứng trước những thách thức vừa cấp thiết nhưng cũng hết sức nghiêm túc. Đó là làm thế nào để với vai trò và thiên chức cao quí của mình, đội ngũ nhà giáo phải truyền đạt đến HS của mình một hệ thống kiến thức cần thiết và cơ bản về hoạt động ứng xử nói chung, trước hết 3 và bắt đầu từ những nguyên tắc, chuẩn mực trong hành vi giao tiếp. Điều này lại phải bắt đầu từ chính đội ngũ thầy, cô giáo; được thể hiện qua kỹ năng giao tiếp sư phạm (KNGTSP) trong môi trường học đường hàng ngày. Bởi vì, các thầy, cô giáo, trong vai trò là chủ thể truyền đạt và định hướng, được ví như là những cây bút viết nên trong tâm hồn HS những ký tự và con chữ trong sáng và đẹp đẽ, góp sức làm nên những trang đời chặt chẽ về lý mà cũng thấm đẫm về cảm xúc nhân văn, nhân bản. Đây vừa là mục tiêu, nhưng cũng vừa là nhiệm vụ đặt ra cho ngành Giáo dục trước yêu cầu xây dựng và phát triển một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, mang đậm chất Việt Nam, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập. Từ những nhận thức trên, tác giả quyết định chọn đề tài luận văn thạc sĩ của mình với tên gọi: “Một số giải pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên tiểu học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”; với mong muốn bằng sự nỗ lực trong tiếp cận, tìm hiểu và nghiên cứu; luận văn sẽ góp một cái nhìn mới mẻ, đầy đủ và toàn diện hơn về vấn đề này, cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất các giải pháp bồi dưỡng KNGTSP nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVTH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác bồi dưỡng KNGTSP cho GV tiểu học. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Các giải pháp bồi dưỡng KNGTSP cho GV tiểu học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 4 4. Giả thuyết khoa học của đề tài Nếu đề xuất và áp dụng các giải pháp có cơ sở khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn thì có thể nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm cho GV tiểu học trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh. 5. Phạm vi nghiên cứu Việc khảo sát thực tiễn được giới hạn trong phạm vi một số trường tiểu học (bao gồm cả nội và ngoại thành) trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 6.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn Khảo sát thực trạng, xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. 6.3. Đề xuất các giải pháp Bao gồm các giải pháp chủ yếu về công tác bồi dưỡng KNGTSP cho đội ngũ GVTH trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 7. Phương pháp nghiên cứu Để có thể hoàn thành đề tài trên, tác giả xác định sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu, cụ thể là: 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đó là các phương pháp tổng quát của tư duy khoa học như: phân tích, tổng hợp, khái quát, nghiên cứu tư liệu, tài liệu… nhằm hệ thống hóa lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: bao gồm các phương pháp: + Điều tra thực tiễn (điều tra xã hội học bằng hình thức phát phiếu thăm dò) + Phỏng vấn, trò chuyện 7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Tổng hợp, phân loại, vẽ bảng, biểu, nhằm xử lý, mô tả các số liệu, chứng minh cho việc trình bày, lập luận, nhận định. 5 8. Đóng góp của đề tài 8.1. Đóng góp về lý luận Trên cơ sở kế thừa lý thuyết của những người đi trước về KNGT nói chung, KNGTSP của đội ngũ GVTH nói riêng, đặc biệt là về công tác bồi dưỡng kỹ năng này, luận văn sẽ hệ thống hóa, kết hợp với phân tích, đánh giá, nhận định, nhằm cung cấp một cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện về đề tài chọn nghiên cứu. 8.2. Đóng góp về thực tiễn - Thông qua việc trình bày, phân tích, cung cấp một hệ thống các căn cứ và số liệu có tính khách quan, khoa học cao để các đối tượng có nhu cầu tham khảo về các nội dung liên quan đến đề tài chọn nghiên cứu. - Thông qua việc trình bày, phân tích trong công trình; cũng như làm tài liệu và cứ liệu tham khảo cho các các đối tượng khác về vấn đề chọn nghiên cứu và các vấn đề có liên quan. - Qua việc bước đầu xây dựng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu và thiết thực, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của KNGTSP, nhất là các giải pháp về công tác bồi dưỡng kỹ năng này cho đội ngũ GVTH nói chung, giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng - Luận văn có thể là một tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu về KNGT nói chung, KNGTSP và công tác BDKNGTSP đối với những ai có nhu cầu nghiên cứu và tìm hiểu. 9. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; phần chính văn của đề tài có 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Cơ sở thực tiễn của đề tài Chương 3: Một số giải pháp bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp sư phạm cho giáo viên tiểu học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 6 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Giao tiếp - với tư cách là một phạm trù triết học - càng về sau càng thu hút sự quan tâm đặc biệt của đông đảo các nhà nghiên cứu, từ triết học, xã hội học, đến tâm lý học, giáo dục học… trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong nguồn tài liệu và tư liệu có thể nói là không kém phần đồ sộ đó, có thể khái lược tình hình nghiên cứu về vấn đề này như sau. a. Ở ngoài nước: Qua tìm hiểu, tác giả luận văn nhận thấy: Từ những năm 70 của thế kỷ XX, đã có một số công trình nghiên cứu xoay quanh phạm trù giao tiếp của các nhà khoa học tren thế giới. Chẳng hạn, tác giả L.X.Vygốtski với tác phẩm “Sự phát triển của những chức năng tâm lý bậc cao”; A.N. Leonchiev với tác phẩm “Những vấn đề phát triển tâm lý”(1965-1972); A.V.Daparôgiét với tác phẩm “Nguyên tắc phát triển trong tâm lý học” (1978). Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về KNHĐSP nói chung, kỹ năng dạy học nói riêng của các tác giả: G.X.Catchuc, N.A.Menchinxcaia, X.I.Kixengof, N.V.Cumina, Kenvin, Barry, Lenking v.v… Trong đó, tiêu biểu là nhà nghiên cứu A.G.Spi-rxen, ông cho rằng, giao tiếp là quá trình trao đổi những ý nghĩ, tình cảm, kích thích với mục đích người này điều khiển người kia. Còn nhà nghiên cứu M.X.Kvét-nôi lại coi giao tiếp là hình thức xã hội đặc trưng của sự tác động lẫn nhau của hai hay nhiều người được định hướng vào nhau trong hoạt động chung và trong sự trao đổi thông tin. V.N.Pa-vphe-rốp lại quan niệm: giao tiếp là sự tác động qua lại của con người. Nó là sự nhận 7 thức qua lại và trao đổi thông tin, nhằm mục đích xây dựng mối quan hệ qua lại có lợi đối với quá trình hoạt động chung. Ông cũng chia quá trình giao tiếp ra làm 4 thời điểm gồm: tiếp xúc hoặc liên hệ - tác động lẫn nhau - nhận thức lẫn nhau và quan hệ lẫn nhau. Trong khi đó, Cacgiacpe (1883-1969) nhà triết học, tâm lý học Đức đã đề ra lý thuyết giao tiếp hiện sinh. Ông cho rằng, hằng ngày con người cần phải giao tiếp với nhau một cách sống động, liên tục qua các cuộc tranh luận về các vấn đề xã hội, đó là điều kiện cho sự tồn tại của con người. Trong giao tiếp hiện sinh, “mọi người gắn bó với nhau nhưng mỗi người vẫn giữ cá tính riêng”. Nhà triết học nổi tiếng Mactin Bubơ (1878-1965), trong tác phẩm “Tôi và bạn” thì khẳng định: “Tồn tại là đối thoại hay sự tiếp xúc giữa các nhân cách”; về sau này trở thành nguyên tắc đối thoại góp phần phát triển lý thuyết giao tiếp. Đặc biệt, cũng vào thời gian trên, các nhà nghiên cứu ở Liên Xô (cũ) đã dành nhiều thời gian và công sức tìm hiểu, mổ xẻ vấn đề giao tiếp và hành vi giao tiếp dưới nhiều góc độ. Trong đó, phải kể đến một số công trình tiêu biểu của các tác giả như: B.Phlomov với công trình“Giao tiếp là vấn đề của tâm lý học đại cương” (1978); A.A. Bođaliov với tác phẩm “Vấn đề giao tiếp, những đặc trưng của nó trong công việc với con người” (1972); A.A. Leonchiev với tác phẩm “Tâm lý học giao tiếp” (1974)… cùng với một số nhà khoa học khác cũng tập trung nghiên cứu về kỹ năng hoạt động sư phạm nói chung, kỹ năng dạy học nói riêng như G.X.Catchuc, N.A.Menchinxcaia, X.I.Kixengof, N.V.Cumina, Kenvin, Barry, Lenking, v.v… Trong các công trình và tác phẩm trên, hành vi giao tiếp - dưới góc độ của tâm lý học đại cương - đã được các tác giả trình bày và phân tích khá cụ thể và đầy đủ; tạo tiền đề cho hàng loạt các công trình nghiên cứu khác tập trung xoay quanh vấn đề giao tiếp kế tiếp nhau xuất hiện; mặc dù cách tiếp cận 8 cũng như việc nghiên cứu, phân tích vấn đề lại của các tác giả lại không giống nhau - điều này là tất yếu. Nhưng nhìn một cách khái quát, các công trình và tác phẩm đó đều tập trung chủ yếu trên các xu hướng sau. Xu hướng thứ nhất: Tập trung nhấn mạnh khía cạnh thông tin trong giao tiếp. Đại diện cho xu hướng này là các nhà tâm lý học: M.A.Acgain, K.K. Platônov và G.G.Gôlubev, A.G.Xpirkin, A.L.Kôlominxki... Cụ thể là: + M.A.Acgain cho rằng: giao tiếp là sự tác động, sự truyền và tiếp nhận thông báo, sự trao đổi thông tin của con người. + Các tác giả K.K.Platônov và G.G.Gôlubev thì liệt giao tiếp vào một trong những “loại hình hoạt động”, khi họ cho rằng: “Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa những con người với nhau” và “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau trên cơ sở phản ánh tâm lý lẫn nhau”. + Ia.L.Kôlôminxki thì mô tả: “Giao tiếp là sự tác động qua lại có đối tượng và thông tin giữa con người với con người trong đó những quan hệ liên nhân cách được thực hiện, bộc lộ và hình thành”. + B.D.Parưghin nhận định: “Giao tiếp là quá trình tác dụng lẫn nhau, trao đổi thông tin, ảnh hưởng lẫn nhau, hiểu biết và nhận thức lẫn nhau”. + Gần đây, G.M.Anđreeva trong cuốn “Tâm lý học xã hội” đã cho rằng: giao tiếp có ba mặt quan hệ hữu cơ với nhau gồm: mặt thông tin, mặt tri giác của con người với nhau và mặt tác động qua lại của con người với nhau. Tuy nhiên, các tác giả nói trên chưa chỉ ra đặc điểm giao tiếp của con người được biểu hiện trong truyền thông, làm cho truyền thông trở nên tích cực, trở thành nội dung cơ bản của giao tiếp. Xu hướng thứ hai: Nhìn nhận bản chất giao tiếp, xác định vị trí giao tiếp trong hệ thống các khái niệm, phạm trù tâm lý học. Đại diện cho xu hướng này là ý kiến của hai nhà tâm lý học A.A.Leonchiev và B.Phlômôv. 9 + Nhà nghiên cứu A.N.Leonchiev (1965-1972), trong tác phẩm “Những vấn đề phát triển tâm lý” đã đặc biệt đề cao vị trí, vai trò của hành vi giao tiếp trong việc hình thành và phát triển tâm lý của con người. + Nhà nghiên cứu A.G.Xpirkin đề cập đến mục đích điều khiển của giao tiếp trong “Ý thức và tự ý thức”; tác giả cho rằng: “giao tiếp đó là một quá trình trao đổi những ý nghĩ, tình cảm, kích thích, ý chí với mục đích người này điều khiển người kia” [22, tr.209]. + G.Mít (1863-1931) - nhà tâm lý học và triết học Mỹ, đại diện của trường phái triết học thực dụng thì tập trung khẳng định vai trò của giao tiếp đối với sự tồn tại của con người; trong đó, theo ông: “nếu mỗi người muốn có cái riêng của mình thì phải có “cái tôi” khác. Đó là những khách thể xã hội khác với những khách thể vật lý vì nó có khả năng tác động tích cực lên cái tôi của người khác mà ngày nay chúng ta thường gọi là những chủ thể”. + Còn L.P.Buêva khẳng định: “Giao tiếp không chỉ là một quá trình tinh thần, mà còn là quá trình vật chất, quá trình XH, trong đó diễn ra sự trao đổi hoạt động, kinh nghiệm, sản phẩm của hoạt động” v.v… b. Ở trong nước: Tuy có chậm hơn, cụ thể là bắt đầu từ những năm tám mươi trở về sau, ở trong nước đã lần lượt xuất hiện nhiều bài viết và công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề giao tiếp, trong đó có một số công trình đi sâu bàn bạc về các khía cạnh thuộc nội hàm của khái niệm này, có thể dẫn ra đây một số tác giả và công trình sau đây: - Đỗ Long (1980), C. Mac và phạm trù giao tiếp. - Trần Trọng Thuỷ (1981), Giao tiếp, tâm lý, nhân cách. - Bùi Văn Huệ (1981), Bàn về phạm trù giao tiếp. - Trần Trọng Thuỷ (1985), Đặc điểm giao tiếp của sinh viên sư phạm. 10 - Phạm Minh Hạc (1988), Giao lưu là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lý. - Nguyễn Thạc - Hoàng Anh (1991), Luyện giao tiếp sư phạm. - Hoàng Anh (1991), Khái niệm giao tiếp sư phạm của sinh viên. - Nguyễn Văn Lê (1992), Vấn đề giao tiếp. - Ngô Công Hoàn (1992), Giao tiếp sư phạm. - Trần Tuấn Lộ, Tâm lý học giao tiếp. - Nguyễn Thanh Bình (1995), Một số trở ngại trong tâm lý giao tiếp của sinh viên với học sinh khi thực tập tốt nghiệp. - Trần Trọng Thủy - Nguyễn Sinh Huy (1996), Nhập môn khoa học giao tiếp. - Nguyễn Quang Uẩn (1998), Giao tiếp và tâm lý. - Lê Thị Bừng (1998), Tâm lý học ứng xử. - Nguyễn Bá Minh (2005), Tâm lý học lứa tuổi và giao tiếp sư phạm. - Nguyễn Bá Minh (2008), Giáo trình nhập môn khoa học giao tiếp v.v… Qua các công trình trên cho thấy, sự đóng góp của các tác giả được thể hiện trên các bình diện như: khẳng định vai trò, tầm quan trọng của giao tiếp; chỉ ra bản chất tâm lý học của giao tiếp; bàn về tính chất, đặc trưng, hiệu quả… của phương tiện giao tiếp; bên cạnh đó, đi sâu phân tích khía cạnh GTSP trong tâm lý học; bàn về các dạng, các giai đoạn, các phương tiện, nguyên tắc, phong cách GTSP và KNGTSP v.v… Tuy nhiên, qua bước đầu tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, tác giả luận văn nhận thấy: cho đến nay, tuy có được đề cập đây đó rải rác qua các công trình, giáo trình, tài liệu… nhưng có thể nói, chưa có công trình nào đi sâu bàn bạc, nghiên cứu về công tác BDKNGTSP cho một đối tượng cụ thể là đội ngũ GVTH - trong tư cách là đội ngũ trực tiếp giảng dạy cho một cấp học mang tính nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đặc biệt trong đó, chưa có công trình nào tập trung tìm hiểu và nghiên cứu một cách chuyên biệt và 11 có hệ thống về công tác này ở một địa bàn cụ thể và khá đặc thù là TP. Hồ Chí Minh - một trong những trung tâm giáo dục lớn của cả nước, và cũng là nơi bản thân tác giả đã và đang sinh sống và công tác, và trong tư cách là một người làm công tác quản lý. Vì vậy, với việc quyết định chọn nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn, đây là một cơ hội để bản thân có thể tiếp cận vấn đề này, trên một địa bàn cụ thể một cách tương đối toàn diện, đầy đủ; hầu mong gián tiếp góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện KNGTSP cho đội ngũ GV ngành giáo dục tiểu học nói chung, mà trước hết là cho đội ngũ GV tiểu học trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh nói riêng. 1.2. Giao tiếp sư phạm 1.2.1. Khái niệm GTSP Trước khi đi vào khái niệm này, có thể bắt đầu từ khái niệm “hoạt động sư phạm” (HĐSP). Vào những năm tám mươi, trong các công trình nghiên cứu của mình, một số nhà nghiên cứu Liên Xô (cũ) như D.Z.Dunep, V.I.Đacvi ađenxki, A.N.AiSue v.v… đã thống nhất quan điểm: HĐSP bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học, thông qua mối hệ mật thiết của thầy và trò. Theo đó, HĐSP là quá trình dạy và học, bao gồm trong đó hoạt động của thầy (hoạt động dạy) và hoạt động của học trò (hoạt động học). HĐSP là một quá trình, diễn ra theo cấu trúc chung và hàm chứa trong đó các yếu tố cấu thành. Trong đó, một bên là mục đích, động cơ, điều kiện cụ thể nơi diễn ra hoạt động; còn một bên là những thao tác, hành động, hoạt động và các mối quan hệ giữa các thành tố ấy. Trong quá trình này, hành vi giao tiếp sư phạm diễn ra như là điều kiện của HĐSP. Từ những trình bày trên, cho phép đi đến nhận định: Giao tiếp giữa con người với con người trong HĐSP được gọi là GTSP; trong đó, GTSP là một thành phần, một bộ phận cơ bản của HĐSP. Từ đây, có thể định nghĩa về 12 GTSP như sau: Giao tiếp sư phạm là giao tiếp có tính nghề nghiệp giữa thầy và trò trong quá trình giảng dạy (giáo dưỡng) và giáo dục có chức năng sư phạm nhất định, tạo ra những tiếp xúc tâm lí, xây dựng không khí thuận lợi, cùng các quá trình tâm lí khác (chú ý, tư duy,…) có thể tạo ra kết quả tối ưu của quan hệ thầy trò, nội bộ tập thể học sinh và trong hoạt động dạy cũng như hoạt động học. Các mối quan hệ trong GTSP giữa thầy và trò được khái quát theo sơ đồ sau: Giáo viên Học sinh Chủ thể Khách thể Chủ thể giao tiếp Đối tượng giaotiếp 3 Chủ thể giao tiếp Chủ thể tiếp nhận 4 Chủ thể Chủ thể 5 1 2 1 Trong đó: Sơ đồ (1), (2), (3): Xảy ra khi thầy giáo lên lớp giảng bài, truyền đạt tri thức cho học sinh. Sơ đồ (4), (5): Khi học sinh thắc mắc, hỏi (trao đổi) những vấn đề mà các em cho là có vấn đề. Sơ đồ (5) còn nói lên quan hệ chủ động của học sinh đối với giáo viên. 1.2.2. Vai trò của GTSP trong HĐSP Giao tiếp trong HĐSP có vai trò rất quan trọng, được biểu hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất