Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn âm nhạc ở các...

Tài liệu Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn âm nhạc ở các trường tiểu học thành phố thanh hóa, tỉnh thanh hóa luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

.DOC
110
206
71

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH PHẠM THỊ HOÀNG HIỀN MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC Chuyên ngành: Quản lý giáo dục Mã số: 60 . 14 . 05 VINH, 2011 2 LỜI CẢM ƠN Với tình cảm trân trọng và chân thành, tác giả xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới trường Đại học Vinh, khoa Sau Đại học, các cơ quan liên quan đã tạo điều kiện cho chúng tôi được tham gia học tập, nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ nhằm đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ được giao. Xin được bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các Thầy Cô giáo, các nhà khoa học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi trong quá trình học tập cũng như trong nghiên cứu của khóa học. Đặc biệt tác giả xin được trân trọng tỏ lòng biết ơn tới Nhà giáo, PGS -TS Hà Văn Hùng, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về khoa học để tác giả hoàn thành luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục này. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn tới BGH, các đơn vị phòng, khoa, trung tâm Trường Đại học VHTT&DL Thanh Hoá, Sở GD&ĐT Thanh Hoá, phòng GD&ĐT Thành phố Thanh Hoá, các bạn bè đồng nghiệp, người thân, đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Mặc dù trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, bản thân đã rất nỗ lực và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các Thầy, Cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./. Vinh, tháng 12 năm 2011 Tác giả Phạm Thị Hoàng Hiền 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 6 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề. 6 1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài 7 1.3. Quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở trường Tiểu học 27 1.4 Tiểu kết chương 1 49 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA 51 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội và giáo dục ở Thành phố Thanh Hóa 51 2.2. Thực trạng dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa 56 2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa. 60 2.4. Đánh giá chung về thực trạng 73 2.5 Tiểu kết chương 2 77 Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN ÂM NHẠC Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HOÁ 78 3.1. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp 78 3.2. Đề xuất một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn nhạc ở các trường tiểu học thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 86 3.3. Thăm dò tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa. 94 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104 4 CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Chữ viết tắt ÂN QL QLGD CBQL HSSV CBGV GV CSVC PPDH HS BGH SGK XHCN THCS THPT TĐN GDĐT GD UBND HĐND CĐSPN TPTH PGD&ĐT TB TBDH HĐDH : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : Nghĩa đầy đủ Âm nhạc Quản Lý Quản lý Giáo dục Cán bộ Quản lý Học sinh, sinh viên Cán bộ Giảngviên Giáo viên Cơ sở vật chất Phương pháp dạy học Học sinh Ban giám hiệu Sách giáo khoa Xã hội chủ nghĩa Trung học cơ sở Trung học phổ thông Tập đọc nhạc Giáo dục đào tạo Giáo dục Uỷ ban nhân dân Hội đồng nhân dân Cao đẳng sư phạm nhạc Thành phố Thanh Hoá Phòng Giáo dục và Đào tạo Trung bình Thiết bị dạy học Hoạt động dạy học MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Trong mỗi thời kì lịch sử, nền giáo dục Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 5 Đảng và Nhà nước ta đã xác định : Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được coi là nền tảng, là động lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã xác định mục tiêu “Xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc, làm nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững đất nước, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một xã hội học tập, có khả năng hội nhập quốc tế; nền giáo dục này phải đào tạo được những con người Việt Nam có năng lực tư duy độc lập và sáng tạo, có khả năng thích ứng, hợp tác và năng lực giải quyết vấn đề, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có thể lực tốt, có bản lĩnh, trung thực, ý thức làm chủ và tinh thần trách nhiệm công dân, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [4]. Hoạt động dạy học là hoạt động chính, chủ yếu trong nhà trường, quyết định trực tiếp tới nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo vừa là mục tiêu số một, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển; đồng thời là điều kiện cơ bản bảo đảm cho những con người được đào tạo ra có đủ năng lực và phẩm chất thực hiện được những nhiệm vụ xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển nền kinh tế - xã hội. Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học là nhiệm vụ thường xuyên, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy học nói riêng và xuyên suốt toàn bộ lịch sử phát triển của nhà trường và của hệ thống giáo dục nói chung. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “ Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên” [17]. 6 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn Quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện...” [4]. Một nền giáo dục toàn diện là giáo dục cả Đức – Trí - Thể - Mỹ, giáo dục Âm nhạc là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo, với vai trò : Giáo dục đạo đức, phát triển trí tuệ, phát triển thể chất và giáo dục thẩm mỹ, vai trò giáo dục Âm nhạc nhằm giúp con người phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần và thể chất. Giáo dục Âm nhạc trong nhà trường phổ thông nhằm từng bước nâng cao trình độ văn hoá ÂN của Học sinh, góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục của đất nước, đáp ứng nhiệm vụ giao tiếp ÂN của học sinh Việt Nam và quốc tế . Sự kết hợp giữa Âm nhạc với các mặt giáo dục khác “Không chỉ là một trong những phương tiện để nâng cao sản xuất xã hội mà còn là phương thức duy nhất để đào tạo ra những con người phát triển toàn diện” [4]. Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật gắn liền với đời sống tình cảm của con người, đặc biệt là đối với lứa tuổi học trò lại càng không thể thiếu được. Vì vâ ây môn học này sẽ giúp cho học sinh có tinh thần sảng khoái để tiếp thu các môn học khác tốt hơn đồng thời nó tạo cho học sinh có những ước mơ cho tương lai, là phương tiện để giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ và tâm sinh quan cho học sinh từ đó giúp học sinh có được sự khéo léo, chính xác, tinh thần tổ chức kỉ luật cao, một tác phong nhanh nhẹn, nếp sống lành mạnh, có tính trung thực thật thà, có ý chí quyết tâm vượt khó. Quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc nói riêng ở các trường Trung học cơ sở và Tiểu học tại Thành phố Thanh Hoá đã có nhiều cố gắng và đạt được nhiều thành tích đáng kể trong sự 7 nghiệp giáo dục của tỉnh Thanh Hoá. Tuy nhiên vẫn đang còn nhiều bất cập như: sự nhìn nhận và sự phát triển vẫn chưa được đồng đều, môn học ÂN ở một số trường vẫn bị coi như là môn học phụ, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, đội ngũ giáo viên ở một số trường vẫn còn chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn và nghiệp vụ. Vì vậy, trong công tác quản lý chất lượng hoạt động dạy học môn ÂN vẫn không tránh khỏi những hạn chế yếu kém. Đã có một số tác giả đã từng nghiên cứu và đưa ra những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học ÂN. Tuy nhiên, các tác giả mới tập trung nghiên cứu biện pháp QL nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học ÂN tại các trường THCS tại Thành phố Thanh Hoá và Huyện Nga Sơn. Nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học ÂN tại các trường Tiểu học nói chung và tại Thành phố Thanh Hoá nói riêng. Để góp phần vào việc khắc phục những hạn chế yếu kém trong công tác quản lý và chất lượng giảng dạy môn ÂN tại các trường Tiểu học trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu" Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa" 2. Mục đích nghiên cứu Đề xuất những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học Thành phố Thanh Hoá, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các trường Tiểu học trên địa bàn. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở trường Tiểu học. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học Thành phố Thanh Hoá. 4. Giả thuyết khoa học 8 Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý có tính khoa học và khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học Thành phố Thanh Hoá. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. 5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu. - Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở trường Tiểu học. - Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học tại Thành phố Thanh Hoá - Đề xuất và thăm dò tính cần thiết, khả thi của các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học tại Thành phố Thanh Hoá. 5.2. Phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động dạy học Âm nhạc ë các trường Tiểu học trên địa bàn thành phố Thanh Hoá. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Sử dụng các phương pháp phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa, các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực giáo dục nhằm định hướng lý luận chung; các công trình nghiên cứu về Quản lý Nhà nước, Quản lý giáo dục, Quản lý nhà trường, Quản lý bộ môn Âm nhạc trong hệ thống giáo dục phổ thông và giáo dục Tiểu học. 6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn Sử dụng các phương pháp quan sát, điều tra, khảo nghiệm lấy ý kiến qua các phiếu điều tra để thu thập thông tin, dữ kiện. 6.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 9 Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá để xử lý số liệu thu thập được, định lượng để viết. 7. Dự kiến những đóng góp của luậnvăn. 7.1. Góp phần hệ thống hoá cơ sở lí luận về quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở trường Tiểu học. 7.2. Làm rõ thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học tại Thành phố Thanh Hoá 7.3. Đề xuất được một số biện pháp quản lý mang tính cần thiết và khả thi nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa. 8. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài . - Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn âm nhạc ở các trường Tiểu học Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. - Chương 3: Một số biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường tiểu học Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được coi là nền tảng, là động lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoạt động dạy học là hoạt động chính, chủ yếu trong nhà trường, quyết định trực tiếp tới nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo vừa là mục tiêu số một, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển; Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học là nhiệm vụ thường xuyên, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy học nói riêng và xuyên suốt toàn bộ lịch sử phát triển của nhà trường và của hệ thống giáo dục nói chung. Quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý hoạt động dạy học môn Âm nhạc nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng khẳng định vai trò của công tác quản lý trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp học, bậc học. Đã có một số tác giả nghiên cứu về dạy học bộ môn Âm nhạc; đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn Âm nhạc; về quản lý Nhà nước, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường như: -Thái Văn Thành (2007)- Quản lý Giáo dục và quản lý nhà trường- NXB, Đại học Huế 2007. [36] - Nguyễn Ngọc Bảo (1997), Tổ chức hoạt động dạy học ở trường Tiểu học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [2] - Nguyễn Minh Toàn và Nguyễn Hoành Thông (2000)“Âm nhạc và phương pháp dạy học T1 + T2” [35] - Hoàng Long- Hoàng Lân (2005), Phương pháp dạy học Âm nhạc Tiểu học”, NXB Giáo dục. [24] 11 - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007)- Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học , NXB Giáo dục [10] - Bộ Giáo dục và Đào tạo ( 2006) - Đổi mới phương pháp dạy học âm nhạc Tiểu học, NXB Giáo dục. [7] - Đoàn Tiến Dũng (2009)– Một số biện pháp QL hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS Thành phố Thanh Hoá, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh. [20] - Mai Thị Cúc ( 2010) – Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở các trường THCS huện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, Đại học Vinh. [16] Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu về quản lý hoạt động dạy học, hướng dẫn rèn luyện kỹ năng dạy học nói chung, hoạt động và phương pháp giảng dạy ÂN phổ thông nói riêng. Song vẫn còn quá ít các nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học ÂN bậc Tiểu học. Đã có một số tác giả đã từng nghiên cứu và đưa ra những biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học âm nhạc. Tuy nhiên, các tác giả mới tập trung nghiên cứu biện pháp QL nâng cao chất lượng hoạt động dạy học ÂN tại các trường Trung học cơ sở. Nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu về biện pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Âm nhạc ở các trường Tiểu học tại Thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá. 1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan tới đề tài 1.2.1. Quản lý Quản lý là sự công tác liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý có thể 12 trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người, sự vật cụ thể. Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, công cụ, phương tiện tài chính,... để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định trước. Chủ thể muốn kết hợp được các hoạt động của đối tượng theo một định hướng quản lý đặt ra phải tạo ra được “quyền uy” buộc đối tượng phải tuân thủ. Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trính xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động của quản lý, phải bằng cách nào đó để người chịu quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực, trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội. Quản lý là một môn khoa học sử dụng trí thức của nhiều môn khoa học tự nhiên và xã hội nhân văn khác như: toán học, thống kế, kinh tế, tâm lý và xã hội học... Nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế để đạt tới mục đích. Quản lý là một hoạt động, một dạng lao động có tính đặc thù, có tổ chức, là một hoạt động đa dạng phức tạp có nhiều cách tiếp cận khác nhau trên cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu các khía cạnh các yếu tố, các lĩnh vực quản lý để làm đối tượng của sự nghiên cứu. Do sự đa dạng về các hoạt động quản lý và cách tiếp cận với quản lý dẫn đến sự phong phú các quan niệm, các định nghĩa theo nhiều cách của học giả, học thuyết khác nhau. Có thể điểm qua một số khái niệm về QL như: - Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt động quản lý (Management) là tác động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [14, tr 1]. - Theo tác giả Trần Hữu Cát và Đoàn Minh Duệ: “Quản lý là hoạt động thiết yếu nảy sinh khi con người hoạt động tập thể, là sự tác động của chủ thể và 13 khách thể, trong đó quan trọng nhất là khách thể con người nhằm thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức” [12]. - Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung” [3]. - Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn” [20]. - Tác giả Nguyễn Văn Lê và Nguyễn Sinh Huy cho rằng: “Quản lý là một công việc mang tính khoa học song nó cũng mang tính nghệ thuật”. Ông cho rằng mục đích của công việc quản lý chính là nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra. Ông viết “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào những con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra” [21]. Từ những khái niệm về quản lý nêu trên ta có thể hiểu: Nói đến QL là điều hành, điều khiển chỉ huy. Về bản chất, nội dung đều là tổ chức, điều khiển hoạt động một nhóm (hay nhiều nhóm xã hội cùng nhau thực hiện mục đích, nhiệm vụ hoạt động chung). Hoạt động quản lý bao giờ cũng là hoạt động hướng đích. Khi xem xét về đối tượng quản lý các quan điểm đều thống nhất với nhau ở các yếu tố cơ bản trong hoạt động quản lý là: - Người chỉ huy, điều khiển (chủ thể QL) - Người hoặc đồ vật... bị chỉ huy, điều khiển (khách thể QL) - Phải có mục đích, nhiệm vụ hoạt động chung. Như vậy từ các yếu tố trên ta thấy yếu tố quan trọng và có thể coi đó là xuất phát điểm của hoạt động quản lý là con người điều khiển, điều hành, tiếp 14 theo là đối tượng quản lý . Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống, quản lý có cấu trúc và vận động trong một môi trường nhất định. Hệ thống quản lý được tạo bởi các yếu tố: Cơ chế quản lý , chủ thể quản lý , đối tượng quản lý và mục tiêu quản lý . * Bản chất của quản lý: Bản chất của quản lý có thể xem xét ở 2 góc độ: về phương diện chính trị xã hội, về phương diện kỹ thuật tổ chức. - Phương diện chính trị-xã hội: quản lý là quá trình phối hợp nỗ lực của nhiều người để đạt đến những mục tiêu chung. Về góc độ này hoạt động quản lý mang tính giai cấp và được tiến hành vị lợi ích giai cấp thống trị xã hội. Sự khác biệt này thể hiện qua mục tiêu và quan hệ giữa người quản lý và người bị quản lý . - Về phương diện kỹ thuật-tổ chức: quản lý là quá trình điều khiển, giữa hệ thống hình thức và thủ pháp, phương pháp tiến hành, điều hành công việc. Điều khiển là chức năng của những hệ thống có tổ chức (sinh học, xã hội, kỹ thuật) nó bảo toàn cấu trúc xác định của các hệ, duy trì chế độ hoạt động và thực hiện hoạt động, xem xét theo góc độ này quản lý phản ánh sự tiến bộ xã hội, nên quản lý không mang tính giai cấp. Tóm lại: Bản chất của quản lý là sự tác động có ý thức có mục đích của chủ thể quản lý vào đối tượng quản lý nhằm thiết lập, duy trì, đổi mới một tổ chức, phối hợp các hành động của tổ chức đó nhằm đạt đến các mục tiêu quản lý [3]. Công cụ, phương pháp quản lý Chủ thể quản lý Khách thể quản lý Nội dung quản lý Mục tiêu quản lý 15 Sơ đồ 1: Bản chất của quản lý * Chức năng quản lý: Khi nói về hoạt động quản lý và người quản lý cần tìm hiểu là người quản lý cần phải làm gì, tức là tìm hiểu những chức năng quản lý. Hiện nay người ta thống nhất QL có 4 chức năng cơ bản và là 4 khâu có sự liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: + Chức năng lập kế hoạch. + Chức năng tổ chức. + Chức năng chỉ đạo. + Chức năng kiểm tra. a. Chức năng lập kế hoạch: Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là cái khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu, thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương thức để thực hiện mục tiêu đó. Nói cách khác lập kế hoạch là xác định trước xem phải làm gì, làm thế nào, khi nào và ai làm. Căn cứ thực trạng ban đầu của tổ chức và căn cứ vào mục têu cần phải hướng tới để cụ thể hóa bằng những nhiệm vụ của tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra con đường, biện pháp đưa đơn vị đạt được mục tiêu. b. Chức năng tổ chức: Là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý 16 một cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật lực và tài lực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu: tính tối ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế. Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý cần tính đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đó là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức thực hiện. c. Chức năng chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành tổ chức nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch vạch ra. Lãnh đạo bao hàm cả liên kết, liên hệ, uốn nắn hoạt động của người, động viên, khuyến khích họ hoàn thành nhiệm vụ. Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lý phải trực tiếp ra quyết định (mệnh lệnh) cho nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, phối hợp, động viên... để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt được các mục tiêu đó bằng nhiều biện pháp khác nhau. d. Chức năng kiểm tra: Là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý thông qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức đề xem xét thực tế, đánh giá, giám sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai sót lệch lạc nhằm thúc đẩy hệ thống sớm đạt được mục tiêu đã định. Để tiến hành kiểm tra, cần phải có các tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp kiêm tra, dựa trên các nguyên tắc khoa học để hình thành hệ thống kiểm tra thích hợp. Ngoài 4 chức năng quản lý trên, nguồn thông tin là yếu tố cực kỳ quan trọng trong quản lý. Vì thông tin là nền tảng, là huyết mạch của quản lý, không có thông tin thì không có quản lý hoặc quản lý mơ hồ, mắc sai phạm. Nhờ có thông tin mà có sự trao đổi qua lại giữa các chức năng được cập nhật thường Lập kế hoạch xuyên, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả [12] [13]. Tổ chức Kiểm tra Chỉ đạo 17 Sơ đồ 2: Quan hệ của các chức năng quản lý Tóm lại: Trong hoạt động QL đã hình thành nên các chức năng QL, việc phân loại các chức năng QL được thực hiện theo nhiều căn cứ khác nhau. Song vẫn cho phép chúng ta xác định chức năng QL chung đó là chức năng lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo, chức năng kiểm tra. Các chức năng QL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và trong mỗi thời điểm khác nhau sẽ có những chức năng có thể trở nên quan trọng hơn các chức năng khác. 1.2.2. Quản lý giáo dục. * Khái niệm về quản lý giáo dục (QLGD) Quản lý giáo dục là một lĩnh vực mà từ trước đến nay đã được rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu và đưa ra những định nghĩa về khái niệm QLGD khác nhau. + Theo tác giả Thái Văn Thành thì: “Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể hiểu là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm huy động cho họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia mọi hoạt động của nhà trường, 18 nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu với việc hoàn thành những mục tiêu dự kiến” [26]. + Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới các mục tiêu dự kiến, tiến tới trạng thái mới về chất”. [23]. + Theo tác giả Nguyễn Gia Quý “Quản lý quá trình giáo dục là quản lý một hệ thống toàn vẹn bao gồm các yếu tố: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục, người dạy, người học, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy và học, môi trường giáo dục, kết quả giáo dục” [24]. Như vậy QLGD là tổng hợp các biện pháp tổ chức, kế hoạch hóa, nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường các cơ quan trong hệ thống giáo dục. Hệ thống giáo dục là một hệ thống xã hội, QLGD cũng chịu sự chi phối của quy luật xã hội và tác động của quản lý xã hội. Trong QLGD các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và quản lý sự nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không tách biệt tạo thành hoạt động quản lý thống nhất. Từ những khái niệm nêu trên đưa đến cách hiểu chung nhất là: QLGD là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm, phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực QLGD. Quản lý giáo dục là hoạt động của các chủ thể và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất định nhằm đạt mục đích đề ra của quản lý bằng cách thực hiện các chức năng nhất định và vận dụng các biện pháp, nguyên tắc, công cụ quản lý thích hợp. 1.2.3. Quản lý nhà trường. 19 1.2.3.1. Khái niệm quản lý nhà trường Trường học là một hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo. Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội trong đó diễn ra quá trình giáo dục đào tạo. Nhà trường là một bộ phận của cộng đồng xã hội và trong hệ thống giáo dục quốc dân đó chính là cơ sở. + Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [23] [26]. Có thể hiểu quản lý nhà trường bao gồm 2 loại: - Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường. - Tác động của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường. Như vậy, quản lý nhà trường là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của những thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức hội đồng giáo dục nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó. Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm các hoạt động quản lý giáo viên, quản lý HSSV, quản lý quá trình dạy học, giáo dục; quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học; quản lý tài chính; quản lý lớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý mối liên hệ giữa nhà trường và cộng đồng. Trường học là một hệ thống xã hội đặc trưng bởi quá trình giáo dục. Giáo dục là quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách còn đào tạo là hướng vào một nghề nhất định. Theo đó, từ trường phổ thông đến các trường chuyên nghiệp, 20 dạy nghề người ta thường dùng là đào tạo. Các thành tố để tạo thành quá trình giáo viên và đào tạo trong nhà trường, bao gồm: + Mục tiêu giáo dục, đào tạo + Nội dung giáo dục, đào tạo + Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục, đào tạo + Lực lượng giáo dục, đào tạo (gồm giáo viên, CBVC) + Đối tượng giáo dục đào tạo (người học) + Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo + Bộ máy tổ chức, quản lý + Môi trường đào tạo Quản lý nhà trường là một bộ phận của QLGD nói chung, không có trường học thì không thể có giáo dục đúng nghĩa của nó. Theo tác giả Trần Kiểm, Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể là một chuỗi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức, sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tác động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn thành những mục tiêu dự kiến [26]. Khái niệm trên cho thấy: Quản lý nhà trường là QLGD được tổ chức, thực hiện ở trong một phạm vi không gian nhất định của một đơn vị giáo dục - đào tạo – nhà trường. Quản lý với từng bậc học khác nhau, với loại hình khác nhau để đảm bảo đạt được mục tiêu quản lý đặt ra. Tuy nhiên dù quản lý nhà trường ở bậc học nào, loại hình trường nào thì cũng phải bảo đảm những yếu tố cơ bản chung nhất là: - Xác định rõ mục tiêu quản lý của nhà trường đó là những mục tiêu hoạt động của nhà trường được dự kiến trước khi triển khai hoạt động. Mục tiêu đó
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan