A.LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một vấn đề lhông thể tránh khỏi
đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Cho dùdoanh nghiệp đó đang tiến hành kinh
doanh ở bất kỳ một lĩnh vực nào thì vấn đè cạnh tranh luôn song hành với sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp đó. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh
nghiệp là phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát huy và duy trì được lợi thế
cạnh tranh trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mà một
trong các biện pháp được áp dụng có hiệu quả là xây dựng các chiến lược kinh
doanh mang tính chất lâu dài, kết hợp với những chiến lược kinh doanh có dự định
từ trước để đề ra những quyết định đúng đắn trong từng thời kỳ tiến hành kinh
doanh của các doanh nghiệp. Vấn đề này không chỉ được áp dụng riêng đối với
công ty Honda Việt Nam mà còn được áp dụng đối với nhiều doanh nghiệp khác.
Trong những năm gần đây, thị trường xe gắn máy Việt Nam đã có sự thay
đổi rất lớn, cụ thể là: sau khi công ty liên doanh Honda Việt Nam được thành lập
và đi vào hoạt động thì người tiêu dùng Việt Nam giờ đây đã có thể sử dụng những
chiếc xe gắn máy mang nhãn hiệu Honda được sản xuất ngay trên lãnh thổ Việt
Nam.
Bên cạnh đó khi thấy được nhu cầu sử dụng xe gắn máy của người dân Việt
Nam là rất lớn, một số hãng sản xuất xe gắn máy lớn khác cũng đã tiến hành liên
doanh với Việt Nam để thành lập những công ty liên doanh sản xuất xe gắn máy
như: Suzuki Việt Nam, Yamaha Việt Nam, VMEP của tập đoàn SYM...
Người tiêu dùng Việt Nam giò đây đã có thể tự do lựa chọ những sản phẩm
xe gắn máy mà mình yêu thích. Cũng chính từ đó, Honda Việt Nam đã có sự cạnh
tranh gay gắt với các hãng sản xuất và lắp ráp xe gắn máy tại Việt Nam khác. Cuộc
cạnh tranh giờ đây không chỉ còn là cạnh tranh giữa chất lượng, mẫu mã, kiểu
dáng, giá cả nữa mà giờ đây thực sự là cuộc cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm.
Mà bất kỳ một cuộc cạnh tranh nào về thương hiệu sản phẩm cũng diễn ra rất gay
gắt, quyết liệt.
Trang 1
Thêm vào đó, hai năm trở lại đây, thị trường xe gắn máy đã đa dạng nay lại
còn đa dạnh hơn. bởi những chiếc xe gắn máy Trung Quốc được nhập khẩu cũng
như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam. Sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc với ưu thế
là giá rẻ, chủng loại phong phú đã thực sự phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam
có nhu cầu sử dụng xe gắn máy song lại có thu nhập thấp hoặ những người dân có
nhu cầu đổi xe mơí song lại không có đủ tiền,...Như vậy giò đây Honda Việt Nam
thực sự đã bước vào cuộc cạnh tranh kép, một bên là các liên doanh sản xuất và lắp
ráp xe gắn máy tại Việt Nam và một bên là những sản phẩm xe gắn máy Trung
Quốc được lắp ráp hoặc nhập khẩu ồ ạt vào thị trường Việt Nam.
Để công ty Honda Việt Nam có thể đối phó được những vấn đề cạnh tranh
gay gắt, khốc liệt của thị trường thì cần phải nghiên cứu và đưa ra những chiến
lược cạnh tranh. Những chiến lược này không chỉ giúp cho công ty nâng cao vị thế
cạnh tranh của mình so với đối thủ cạnh tranh mà còn giúp cho công ty có thể
đứng vững được trên thị trường và giữ vị trí số một của mình trong lòng người tiêu
dùng.
Trên thực tế công ty Honda đã có nhiều chiến lược cạnh tranh nhưng tính
thực tiễn và hiệu quả cuả nó tới đâu còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: khả
năng, tiềm lực của mình tới đâu, khả năng, tiềm lực của đối thủ cạnh tranh như thế
nào, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới chiến lược đang thực hiện như thế
nào,...Để có thể nghiên cứu sâu hơn về vấn đề nay em đã viết đề tài: “Một số biện
pháp nhằm hoàn thiện chiến lược cạnh tranh của Honda Việt Nam”. Trong quá
trình thực hiện đề tài này đã có rất nhiều bạn bè, thầy cô giáo đã tận tình giúp đỡ
cho em và đặc biệt là cô giáo, Ths – Cao Thuý Xiêm đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo
em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô
giáo vì những ý kiến đóng góp quí giá đã giúp em thực hiện đề tài này.
Trang 2
B. NỘI DUNG
I.THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG XE GẮN MÁY VIỆT NAM :
Trong những năm gần đây, việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập
với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm cho nền kinh tế
Việt Nam phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Sự phát triển đó của
nền kinh tế đã có ảnh hưởng trực tiếp tích cực đến đời sống của người dân. Đời
sống của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Cũng như những
nhu cầu tự nhiên như ăn, mặc, ở thì một nhu cầu khác không thể thiếu được đối với
con người trong cuộc sống hiện nay đó là phương tiện đi lại hay còn gọi là phương
tiện giao thông. Và để đáp ứng được nhu cầu đó của người dân thì một loạt các
phương tiện giao thông đã được nghiên cứu, sản xuất và đưa vào sử dụng như : ô
tô, xe gắn máy, xe đạp điện, ...
Nếu như ở Việt Nam khoảng một hai thập niên trước đây, chiếc xe gắn máy
mang tính thiểu số được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lớn
hơn là một phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây, chiếc xe gắn máy
đã trở nên phổ biến hơn và hầu như trở thành phương tiện giao thông chính của đại
đa số người dân. Hiện nay, có những gia đình có 1, 2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc xe
gắn máy trong nhà.
Trong cơ cấu tham gia giao thông đô thị ở Việt Nam, xe gắn máy chiếm vị
trí đầu bảng với tỷ lệ khoảng 61%, nghĩa là cứ 10 người dân thì có tới hơn 6 người
sử dụng xe máy. Chỉ riêng thành phố Hồ chí minh đã có 2 triệu xe máy, ở Hà nội
thì con số này xấp xỉ 1 triệu, còn không kể đến một số lượng xe không nhỏ ở các
vùng khác.
Để đáp ứng nhu cầu khổng lồ về xe gắn máy như vậy, thị trrường xe gắn
máy Việt Nam trong những năm gần đây đã có những chuyển biến rõ rệt. Thị
trường xe gắn máy đã có nhiều nhà cung cấp với những sản phẩm phong phú, đa
dạng và hợp thời trang.
Trang 3
Nếu như trước đây, xe gắn máy xuất hiện trên thị trường Việt Nam chỉ qua
con đường nhập khẩu nguyên chiếc thì nay đã có một số doanh nghiệp sản xuất và
lắp ráp xe gắn máy có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Một số hãng sản xuất
xe gắn máy hàng đầu trên thế giới như : Honda, Suzuki, Yamaha,... đã liên doanh
với Việt Nam để sản xuất và cung cấp xe máy cho người tiêu dùng Việt Nam ngay
trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy là sự ra đòi của các liên doanh : Honda Việt
Nam, Suzuki Việt Nam, Yamaha Việt Nam,... đã đáp ứng được sự mong đợi của
người tiêu dùng Việt Nam. Sản phẩm của các liên doanh này rất đa dạng và phong
phú. Một số hãng như Suzuki Việt Nam ngoài việc cải tiến những sản phẩm hiện
có trên thị trường còn đưa ra thị trường kiểu xe mới (Suzuki Best với vóc dáng gọn
nhẹ, động cơ 110cc...). Còn Honda Việt Nam thì cung cấp cho thị trường 2 sản
phẩm chính đó là Super Dream và Honda Future cũng được người tiêu dùng Việt
Nam rất ưa chuộng. Công ty Yamaha Việt Nam cũng tung ra thị trường loại xe
mới ( Sirius Version 2001 ) làm cho thị trường xe gắn máy càng phong phú thêm.
Từ khi đi vào hoạt động, Honda Việt Nam nói riêng và và các công ty liên
doanh sản xuất xe gắn máy có vốn đầu tư nước ngoài khác nói chung có thể nói là
đã rất thành công trên thị trường Việt Nam. Nhờ khối lượng tiêu thụ lớn với gía
bán tương đối cao các công ty này đã đạt được siêu lợi nhuận.
Qua một vài số liệu của Đoàn công tác liên ngành khảo sát hoạt động của các
doanh ngiệp xe máy có vốn đầu tư nước ngoài đăng trên báo Đầu tư ta thấy :
-
Cho tới nay, Honda Việt Nam đã tiêu thụ được khoảng trên 300.000
chiếc xe máy, riêng trong năm 2000 là trên 160.000 chiếc, lợi nhuận luỹ
kế mà Honda Việt Nam đạt được là trên 65,7 triệu USD.
-
Suzuki Việt Nam cũng đã kịp thời tiêu thụ được khoảng 26.000 xe, lợi
nhuận luỹ kế thu về là trên 12 triệu USD.
-
Công ty Yamaha Việt Nam đã tiêu thụ được cho tới nay là khoảng
10.000 xe.
Tính tới ngày 30/6/2001, số xe máy mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đã tiêu thụ được là 910.000 xe, con số này còn kém xa
Trang 4
công suất thiết kế dự tính ban đầu là 1,634 triệu xe/năm. Tuy vậy, lợi nhuận thu về
lại là những con số không hề nhỏ.
Trang 5
Cũng theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay giá bán xe gắn máy của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cao hơn rất nhiều so với
giá các loại xe cùng loại được sản xuất tại các nước ASEAN, Đài Loan ... thậm chí
cao hơn rất nhiều so với giá dự tính trong luận chứng kinh tế kỹ thuật. Đơn cử
ngay như xe Super Dream được dự kiến sản xuất và bán với giá ban đầu là 1750
USD/xe nhưng giá bán lẻ thực tế ban đầu là tương đương 2.100 USD/xe. Đặc biệt
trong điều kiện mức thu nhập bình quân đầu người của người dân Việt Nam còn
thấp hơn từ 2,5 – 10 lần so với một số nước ASEAN khác thì giá bán xe gắn máy
hiện nay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được các chuyên gia
đánh giá là “cao bất hợp lý”.
Trong vòng 2 năm trở lại đây, nắm bắt được nhu cầu về xe gắn máy tại Việt
Nam là rất cao, những ông chủ tập đoàn sản xuất xe gắn máy lớn tại Trung Quốc
như: tập đoàn Lifan, Zongshen, Hongda,...bằng “chiến thuật” theo mẫu của các
động cơ đang có sẵn trên thị trường đã sản xuất hàng loạt sản phẩm xe gắn máy
với giá bán thấp kỷ lục để xuất sang các thị trường Đông nam á,Châu phi, Bắc
mỹ...trong đó có Việt Nam. ý đồ này đã thực sự rất thành công trên thị trường Việt
Nam vì một phần lớn bộ người dân lao động Việt Nam có nhu cầu mua xe gắn
máy song lại có thu nhập thấp, hoặc những người có nhu cầu đổi xe mới song lại
không có đủ tiền.
Với sự xuất hiện của các sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc, thị trường xe
gắn máy Việt Nam đã thực sự sôi động lên rất nhiều. Những sản phẩm xe gắn máy
Trung Quốc được nhập khẩu vào Việt Nam hàng loạt với giá bán rất thấp, tuỳ
thuộc vào từng chủng loại, động cơ mà giá bán chỉ dao động từ 8.000.000 VND –
10.000.000 VND. Người tiêu dùng Việt Nam đã có thể thoả mãn nhu cầu của mình
với những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá bán chỉ bằng 1/3 giá bán của một
số hãng sản xuất xe gắn máy nổi tiếng như: Honda, Suzuki, Yamaha,...
Gián tiếp đưa sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam
đó là những doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền dạng IKD. Doanh nghiệp lắp ráp
Trang 6
trên thị trường Việt Nam tồn tại lên tới hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ của Việt
Nam cũng có mà liên doanh với nước ngoài cũng có.
Qua đó ta cũng thấy sản lượng xe gắn máy Trung Quốc đưa vào thị trường
Việt Nam cũng ngày càng tăng lên.
Hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu là nhập linh kiện, chi tiết, phụ
tùng của các hãng sản xuất tại Trung Quốc rồi đem về lắp ráp, hoàn thiện để tung
ra thị trường. Với giá đầu vào của một bộ linh kiện dao động từ 300 – 350 $/bộ
linh kiện, trong đó giá bán ra dao động khoảng từ 8.000.000 VND – 10.000.000
VND đã thu hút rất nhiều các doanh nghiệp lắp ráp này đi vào hoạt động.
Lợi nhuận thu về tính trên một sản phẩm tuy đã giảm (có doanh nghiệp lợi
nhuận chỉ còn khoảng 50.000 VND/sp so với trước đây là 2.000.000/sp) nhưng trái
với dự đoán, đầu năm 2001, số lượng linh kiện xe gắn máy sẽ giảm đáng kể do các
doanh nghiệp lắp ráp xe gắn máy dạng IKD trong nước e ngại vì thuế đánh theo tỷ
lệ nội địa hoá mới từ năm 2001 tăng so với trước đây, vẫn có khoảng 150.000 bộ
linh kiện xe gắn máy được nhập khẩu. Họ, những doanh nghiệp lắp ráp vẫn tiến
hành hoạt động kinh doanh vì họ đang kỳ vọng vào:
+ Những người dân có nhu cầu xe gắn máy cao song lại có thu nhập thấp.
+ Nhu cầu của những người dân mong muốn đổi xe cũ sang xe mới nhưng
lại không đủ tiền
+ Giá bán xe gắn máy lắp ráp có thể tiếp tục hạ vì tỷ lệ áp dụng nội địa hoá
ngày càng tăng. Theo thống kê của Bộ công nghiệp cho thấy: nếu trong năm 2000,
tỷ lệ nội địa hoá chỉ đạt từ 15% - 25% thì tới nay đã đạt mức nội địa hoá trong
khoảng 30% - hơn 40%.
Điều này cho thấy, với tỷ lệ nội địa hoá này, mức thuế suất nhập khẩu bộ
linh kiện IKD mà các doanh nghiệp phải chịu sẽ vẫn là 30%, không có gì thay đổi
so với mức thuế áp dụng cho bộ linh kiện IKD (tương đương mức nội địa hoá là
15%) từ trước năm 2001. Đây cũng chính là lý do khiến nhiều chuyên gia cho
Trang 7
rằng, nếu chỉ sử dụng biện pháp đánh thuế theo tỷ lệ nộiđịa hoá theo số bộ linh
kiện xe máy(chủ yếu là có xuất xứ từ Trung Quốc) nhập khẩu trong năm 2001
chấc chắn sẽ không kém gì so với năm 2000.
Điều này càng được khẳng định hơn khi nhiều doanh nghiệp đang lắp ráp
xe máy IKD thừa nhận dù chỉ lãi 50.000 VND/xe so với mức bình quân hiện nay là
1.500.000 VND/xe thì họ vẫn tiếp tục lắp xe máy IKD, nhất là khi xe máy Trung
Quốc có giá bán vẫn tỏ ra là hợp lý với túi tiền khu vực nông thôn và giới bình
dân.
Qua phân tích ở trên ta thấy, thị trường xe gắn máy Việt Nam trong những
năm gần đây thực sự rất sôi động bởi đã có doanh nghiệp sản xuất – lắp ráp xe gắn
máy có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động cộng với đó là hàng loạt chủng
loại xe gắn máy Trung Quốc được nhập khẩu và lắp ráp bởi các dây chuyền dạng
IKD trên thị trường Việt Nam. Trước những thực trạng đó, công ty Honda Việt
Nam có rất nhiều cơ hội cũng như thách thức để có thể tiếp tục tạo dựng và duy trì
lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam vào những sản phẩm mà công ty đã và đang
tiến hành sản xuất – lắp ráp.
Trang 8
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HONDA VIỆT NAM.
1.Cơ hội.
Cơ hội là những hoàn cảnh hay yếu tố có thể tạo điều kiện thuận lợi cho
việc khai thác hoặc phát triển 1 năng lực, một ý tưởng hoặc một công việc kinh
doanh. Điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp là cần phải biết tận dụng những
cơ hội , điểm mạnh của mình để ngày càng phát triển.
Với số dân trên 80 triệu người, phương tiện di chuyển chủ yếu là xe gắn
máy, thị trường Việt Nam là một thị trường tiềm năng và đã tạo ra một cơ hội rất
lớn cho công ty Honda Việt Nam.
Những điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh cũng đã và sẽ tạo cơ hội cho
chính công ty Honda Việt Nam. Như chúng ta đã biết, thị trường xe gắn máy trong
những năm gần đây đã thực sự trở nên sôi động. Sự ra đời của các liên doanh sản
xuất xe gắn máy, sự ra đời của các dây chuyền lắp ráp dạng IKD cùng với sự nhập
khẩu ồ ạt một lượng lớn xe gắn máy Trung Quốc vào Việt Nam đã làm cho thị
trường Việt Nam đã sôi động lại càng sôi động hơn.
Người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu về xe gắn máy song lại có thu nhập
thấp hoặc có nhu cầu đổi xe mới nhưng lại không có đủ tiền giờ đây đã có thể thoả
mãn nhu cầu của mình bằng những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá bán lại
rất rẻ. Những chiếc xe máy Trung Quốc được nhập về hoặc được lắp ráp bởi các
dây chuyền lắp ráp dạng IKD có giá dao động chỉ từ 8.000.000 VND – 10.000.000
VND. Với số tiền như vậy, trước đây người dân có thu nhập thấp không thể mua
được xe máy, nếu có thể thì chỉ mua được xe cũ mà thôi. Nhưng giờ đây họ đã có
thể thoả mãn nhu cầu của mình. Tuy nhiên, do giá bán đầu ra thấp kỷ lục như vậy
thì một vấn đề luôn đi kèm với nó mà ta cần phải xem xét đó là chất lượng. Chất
lượng hay có thể hiểu là tuổi thọ hay độ an toàn của những sản phẩm xe gắn máy
Trung Quốc thực sự là một vấn đề không thể kiểm soát nổi. Những ông chủ các tập
đoàn sản xuất xe gắn máy Trung Quốc thờ ơ với dịch vụ sau bán hàng, những cơ
quan hữu trách Vệt Nam vẫn chưa có những biện pháp xử lý nghiêm minh. Và thế
Trang 9
là vấn đề chất lượng của xe gắn máy Trung Quốc thì chỉ có người sử dụng nó mới
thấu hiểu. Có những người tiền mất, tật mang, có những người phải chịu hậu quả
đau xót do việc sử dụng những chiếc xe máy Trung Quốc có độ an toàn thấp. Đó
cũng chính là nguyên nhân làm cho số vụ tai nạn giao thông ngày càng tăng lên.
Rồi cho đến khi những chiếc này bị hỏng thì “khổ chủ” của nó phải mang tiền đi
sửa, tiền sửa xe nhiều lần như vậy tính ra cũng gần bằng tiền mua xe. Hầu như
những chiếc xe này trước khi được đưa vào lưu thông, người chcủ của nó phải tiến
hành thay thế, sửa chữa phụ tùng bởi sự cẩu thả, vội vàng trong quá trình lắp ráp
để kịp thời tung ra thị trường.
Qua đây cũng đủ để cho chúng ta thấy chất lượng của xe gắn máy Trung
Quốc đang thực sự bị “thả nổi” và hậu quả hoàn toàn thuộc về người tiêu dùng còn
trách nhiệm thì không thuộc về ai cả.
Người tiêu dùng Việt Nam qua đó cũng có được cái nhìn so sánh và khẳng
định chất lượng của những sản phẩm do Honda Việt Nam cung cấp. Dù cho xe
Trung Quốc có lợi thế về giá rẻ nhưng chất lượng không đảm bảo như vậy thì việc
mất thị phần ở thị trường Việt Nam là chuyện tất yếu sẽ xảy ra. Người tiêu dùng
Việt Nam sẽ lại quay về với những sản phẩm có chất lượng cao mà trong đó sản
phẩm của Honda là có chất lượng cao nhất.
Bản thân những điểm mạnh của công ty Honda Việt Nam đã tạo ra cơ hội
cho chính nó khi hoạt động trên thị trường Việt Nam.
Honda là một tập đoàn sản xuất xe gắn máy lớn nhất trên thế giới. Các sản
phẩm xe gắn máy của Honda đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ những năm
đầu của thập kỷ 70. Sản phẩm ban đầu là những chiếc xe Honda Cup 50, Cup 70,
Super Cup,... đã thực sự chinh phục được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam
bằng chính chất lượng và sự tiện dụng của những sản phẩm đó. Người tiêu dùng
Việt Nam biết tới xe gắn máy chính là do tập đoàn Honda mang lại, thậm chí
người ta còn gọi chiếc xe gắn máy là xe Honda.
Trang 10
Chính vì lẽ đó, việc thành lập và đi vào hoạt động của công ty Honda Việt
Nam đã đáp ứng được sự mong chờ và đón nhận của người tiêu dùng Việt Nam.
Sau gần 5 năm đi vào hoạt động kinh doanh, từ sản phẩm ban đầu là Super Dream
và tiếp sau đó là Honda Future, công ty Honda Việt Nam đã từng bước trưởng
thành và đứng vững được trên thị trường Việt Nam.
Tính tới đầu năm 2001, Honda Việt Nam đã tiêu thụ được trên 300.000 xe
máy, chỉ tính riêng trong năm 2000 con số tiêu thụ được là trên 160.000 chiếc, lợi
nhuận luỹ kế đạt được là trên 65,7 triệu USD.
Với một đội ngũ công nhân lao động có tay nghề, đội ngũ kỹ sư của Honda
Việt Nam được đào tạo tại nước ngoài: (tại Honda Thái lan, Honda Nhật...) thực sự
là cơ sở để Honda Việt Nam bảo đảm chất lượng của từng sản phẩm sản xuất ra.
Bên cạnh đó, với một bộ máy quản trị chặt chẽ, thống nhất từ Tổng giám
đốc tới các giám đốc, phòng, ban, phân xưởng, tổ sản xuất, chất lượng xe gắn máy
của Honda Việt Nam luôn được kiểm tra sát sao, chặt chẽ trước khi xuất xưởng và
bán tới tận tay người tiêu dùng. Sản phẩm của Honda Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn
quản lý chất lượng ISO 9002.
Ngay từ khi xây dựng nhà máy tại Việt Nam, vấn đề môi trường sản xuất đã
được quan tâm. Vì vậy, vừa qua Honda Việt Nam đã được cấp chứng chỉ đạt hệ
thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000.
Với tầm nhìn chiến lược lâu dài, các nhà quản trị của công ty Honda Việt
Nam đã và đang đầu tư vào việc sản xuất 1 phần động cơ tại Việt Nam, bên cạnh
đó Honda Việt Nam còn tiến hành liên doanh với công ty VMEP để sản xuất động
cơ đầu tiên tại Việt Nam. Như vậy, chúng ta có thể hy vọng rằng trong một tương
lai không xa, người dân Việt Nam có thể sử dụng những chiếc xe máy được sản
xuất hoàn toàn tại Việt Nam.
Trang 11
Cùng với việc đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có
chất lượng cao, Honda Việt Nam cũng đồng thời xây dựng một mạng lưới bảo
hành, sửa chữa, bảo dưỡng cho tất cả các loại xe mang nhãn hiệu Honda trên toàn
quốc. Chính sự phục vụ tận tuỵ với khách hàng như vậy mà Honda Việt Nam ngày
càng củng cố được lòng tin của khách hàng. Honda Việt Nam muốn tạo cho khách
hàng một niềm tin tuyệt đối vào sản phẩm mà công ty cung cấp vì bất kỳ ở nơi đâu
xe máy của Honda cũng được chăm sóc, bảo dưỡng kỹ càng.
Qua phân tích ở trên ta thấy, công ty Honda Việt Nam có rất nhiều cơ hội
trong việc phát triển xe gắn máy trên thị trường tiềm năng Việt Nam. Đã có sẵn uy
tín và lòng tin ở người tiêu dùng Việt Nam, công ty Honda Việt Nam cần phải có
những chính sách mang tính lâu dài kết hợp với những chiến lược tức thời để tận
dụng tối đa những cơ hội nhằm ngày càng phát triển, khẳng định vị trí số 1 trong
lòng người tiêu dùng Việt Nam.
2.Thách thức
Thách thức hay còn gọi là những nguy cơ, là những hoàn cảnh hay yếu tố
có thể hạn chế việc phát triển một năng lực,một ý tưởng hoặc một công việc kinh
doanh.
Có nhiều cơ hội như vậy song Honda Việt Nam không phải là không đối
mặt với nhiều thách thức:
Thách thức đầu tiên phải kể đến đó là, Honda Việt Nam phải đối mặt với
sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc.Theo số liệu báo Đầu tư, cơ quan của Bộ kế
hoạch và đầu tư ra ngày 13/02/2001 ta thấy: đầu tháng 2/2001, tập đoàn công
nghiệp Lifan (Trung Quốc) đã chính thức đưa vào thị trường Việt Nam những loại
xe gắn máy mới: xe LF 110 - 9A với động cơ 110cc Best Style – LF 1p53FMH
(982), hệ thống đánh lửa DL – CDI (khởi động điện tử một chiều), đánh lửa nhanh,
Trang 12
ổn định, dễ khởi động, bánh cam biến tốc lắp thêm vòng bi, chuyển đổi nhẹ, linh
hoạt,...đã cho ta thấy họ, những ông chủ của các tập đoàn sản xuất xe gắn máy
Trung Quốc đã khai thác triệt để thị trường Việt Nam.
Từ khi những chiếc xe gắn máy Trung Quốc xuất hiện ở Việt Nam thì thị
trường xe gắn máy Việt Nam trở nên sôi động, nhu cầu mua xe tăng đột biến.
Một nước với 80% số dân làm nông nghiệp thì người dân ở nước đó không
phải là không có khó khăn. Nhiều người có nhu cầu mua xe máy hoặc những
người đang đi xe cũ nhưng lại muốn đổi sang xe mới thì lại không có đủ tiền.
Chính vì vậy, xe máy Trung Quốc có mặt ở thị trường Việt Nam với giá bán rẻ kỷ
lục như vậy đã đáp ứng được một lượng lớn nhu cầu của những người dân lao
động và giới bình dân. Mặc dù biết là chất lượng xe máy Trung Quốc là không
đảm bảo nhưng họ vẫn mua bởi nó phù hợp với túi tiền của họ.
Đứng trước việc nhập khẩu ồ ạt xe máy Trung Quốc như vậy, Honda Việt
Nam đã bị thiệt hại rất lớn. Sự thiệt hại này của Honda Việt Nam vừa là hữu hình
vừa là vô hình.
Thiệt hại hữu hình là ở chỗ: sức mua của người tiêu dùng Việt Nam với
những sản phẩm do Honda Việt Nam sản xuất đã giảm đi rất lớn do việc họ
chuyển sang mua sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc với giá rẻ hơn rất nhiều.
Còn thiệt hại vô hình là ở chỗ: uy tín của công ty Honda đã bị suy giảm rất
lớn và giá trị của chúng là bao nhiêu thì không có một phép tính nào có thể tính
được bởi việc sử dụng “nhái lại” những kiểu dáng, nhãn hiệu mà công ty Honda đã
gây dựng được sự tín nhiệm đối với người tiêu dùng như: Dream II, Super Dream,
Wave, Spacy,...Không những “nhái lại” kiểu dáng mà những người sản xuất xe
Trung Quốc còn “nhái lại” nhãn hiệu của Honda hoặc nếu như có khác thì chỉ khác
ở một số bộ phận, chi tiết mà rất khó có thể nhận ra. Những người không sành về
xxe máy sẽ rất khó phân biệt đâu là xe Nhật, đâu là xe Trung Quốc. Tuy Honda
Trang 13
Việt Nam đã có những khuyến cáo và thông báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng về nhãn hiệu, kiểu dáng,...nhưng có vẻ vẫn chưa đạt hiệu quả. Vấn đề này
thuộc phạm trù quyền sở hữu công nghệ, thuộc về các cơ quan hữu trách Việt
Nam, người tiêu dùng Việt Nam và các ông chủ các tập đoàn sản xuất xe gắn máy
Trung Quốc.
Thách thức kế tiếp là việc Honda Việt Nam phải đối mặt với dây chuyền lắp
ráp xe gắn máy dạng IKD:
Gián tiếp đưa sản phẩm xe gắn máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam
đó là những doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền dạng IKD. Với giá đầu vào của một
bộ linh kiện dao động từ 300 $ - 350$/bộ linh kiện, trong đó giá bán ra dao động từ
8.000.000 VND – 10.000.000VND đã thu hút rất nhiều các doanh nghiệp lắp ráp
dạng này đi vào hoạt động.
Cũng có thị trường tiềm năng là khu vực nông thôn và giới bình dân, các
dây chuyền lắp ráp này cho đến thời điểm này tuy không rầm rộ như trước nhưng
vẫn còn hoạt đoọng và theo dự tính thì giá bán xe gắn máy lắp ráp có thể sẽ tiếp
tục hạ vì tỷ lệ áp dụng nội điạ hoá ngày càng tăng lên. Điều này cũng gây ảnh
hưởng rất nhiều đến Honda Việt Nam.
Thách thức tiếp theo của Honda Việt Nam là phải đối mặt với sự cạnh tranh
của các doanh nghiệp lắp ráp – sản xuất xe máy có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
Mặc dù không thể cạnh tranh với Honda Việt Nam về chất lượng nhưng các
hãng sản xuất xe gắn máy khác lại có lợi thế hơn Hoda Việt Nam về chủng loại.
Chủng loại xe của các hãng này rất phong phú và đa dạng, rất hợp thời trang. Bên
cạnh đó, các công ty này còn có chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng rãi, có dịch vụ
chăm sóc khách hàng rất chu đáo và có hình thức “mua trả góp” với lãi suất hợp lý
nhằm thu hút khách hàng.
Trang 14
Những sản phẩm của các công ty này thường được giới trẻ ưa chuộng bởi
sự thời trang về màu sắc cũng như kiểu dáng của nó.
Công ty Suzuki Việt Nam ngoài việc cải tiến những sản phẩm hiện có
trên thị trường ( Suzuki Viva từ hộp số cũ chuyển sang hộp số tròn, 1phanh đĩa
chuyển ssang 2 phanh đĩa...) công ty này còn đưa ra thị trường kiểu xe mới (Suzuki
Best với vóc dáng gọn nhẹ, động cơ 110cc màu sắc hấp dẫn...).
Nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của mình, công ty Yamaha Việt Nam cũng
đã kịp thời tung ra thị trường kiểu xe hoàn toàn mơi: Sirus Version 2001 và tiếp đó
là kiểu xe thể thao Jupiter.Thêm vào đó, công ty Yamaha Việt Nam còn có chiến
lược chăm sóc khách hàng, bảo hành, bảo dưỡng xe, tặng quà cho những khách
hàng đã mua xe.
Ngoài ra tập đoàn Yamaha Nhật Bản vừa thành lập 1 trung tâm tại Bangkok
(Thái Lan) với chức năng nghiên cứu phát triển các loại xe gắn máy để bán trên thị
trường Châu á và Việt Nam (động thái này xuất phát từ thực tế trên thị trường
Châu á đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt không chỉ về chất lượng, giá cả mà cả
về kiểu dáng của xe).
Tổng hợp các áp lực cho thấy, không những Honda phải phát huy tốt những
cơ hội mà còn phải biết đối phó lại với những chiến lược cạnh tranh của các đối
thủ cạnh tranh để có thể đứng vững và phát triển thị phần trên thị trường Việt
Nam.
Trang 15
Trang 16
III. CHIẾN LƢỢC CẠNH TRANH CỦA HONDA VIỆT NAM.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt như vậy, để có thể đứng vững được trên
thị trường xe gắn máy, Honda Việt Nam đã đưa ra những chiến lược sau:
1. Chiến lƣợc giảm giá.
Giá bán sản phẩm chính là thước đo về giá trị đối với khách hàng. Giá trị
giống như vẻ đẹp được xác định trong ý nghĩ của người mua, người xem. Giá bán
sản phẩm thể hiện rất nhiều ý nghĩa, nó nói với người mua tiềm năng về chất lượng
sản phẩm. Điều đó thể hiện ở chỗ là mặc dù có giá bán tương đối cao nhưng sản
phẩm của Honda Việt Nam vẫn được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng.
Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh quyết liệt như vậy, công ty Honda Việt Nam
quyết định đưa ra chiến lược giảm giá. Kể từ ngày 16/3/2001, xe Honda Future của
công ty Honda Việt Nam sẽ có giá mới là 23,7 triệu đồng/xe, còn xe Super Dream
có giá là 23,7 triệu đồng/xe. Như vậy, mỗi chiếc xe Future đã giảm giá2 triệu
đồng/xe và Super Dream đã giảm giá là 1 triệu đồng/xe so với trước đó. Tiếp tục
áp dụng chiến lược giảm giá, Honda Việt Nam đưa ra một khung giá mới: honda
Future nay chỉ còn 24.990.000 đồng (bao gồm cả 10% VAT) và Super Dream nay
chỉ còn 19.990.000 đồng (cũng bao gồm cả 10% VAT).
Có thể nói rằng, chiến lược giảm giá của Honda Việt Nam vào thời điểm
này là rất đáng chú ý vì đây là thời điểm mà sức mua xe máy giảm nhất trong năm.
Việc giảm giá bán như vậy sẽ có tác dụng thu hút thêm nhiều khách hàng, đảm bảo
cho họ có đủ khả năng để mua được những sản phẩm của Honda Việt Nam.
Giờ đây cuộc chiến cạnh tranh giữa Honda Việt Nam với các đối thủ cạnh
tranh đã thực sự quyết liệt hơn, không chỉ đơn thuần là sự cạnh tranh về giá bán
sản phẩm mà còn là một cuộc cạnh tranh về thương hiệu sản phẩm. Các đối thủ
Trang 17
cạnh tranh của Honda Việt Nam cũng đã và đang ráo riết tiến hành những chiến
lược nhằm đối phó lại chiến lược giảm giá của Honda Việt Nam như:
-
Công ty Suzuki Việt Nam: mặc dù chưa thay đổi giá bán xe hiện nay
nhưng lại có chương trình chăm sóc miễn phí cho các loaị xe Suzki trên
toàn quốc. Công ty này cũng mới đưa ra kiểu xe Best trên thị trường
nhằm đa dạng hoá sản phẩm. Ngoài ra, Suzuki cũng dự tính sẽ có những
kiểu cải tiến nhất định đối với các sản phẩm đã xuất hiện từ lâu.
-
Đối với Yamaha Việt Nam, tiếp sau việc đưa ra kiểu xe mới Sirirus
Version với giá bán 26,2 triệu, các chương trình tặng quà trị giá 500.000
đồng cho khách hàng mua xe cũng đang đựoc triển khai mạnh mẽ.
-
Về phía mình, các doanh nghiệp lắp ráp xe Trung Quốc dù vẫn hy vọng
vào sức mua của thị trường nhưng cũng đã bắt đầu có những dấu hiệu
chứng tỏ sự chững lại. Mặc dù vậy, để đối phó với việc giảm giá của
Honda, các dây chuyền lắp ráp xe IKD cũng đang tích cực triển khai
nâng tỷ lệ nội địa hoá lên để giảm thêm giá bán xe, thậm chí dù chỉ lãi
bằng 1/20 như hiện nay họ cũng vẫn lắp ráp xe.
Xem ra cuộc chiến giảm giá xe máy để giữ chỗ đúng trên thị trường cũng
mới chỉ bắt đầu mà thôi.
2. Chiến lƣợc đầu tƣ để sản xuất sản phẩm mới.
Để chiến lược giảm giá của công ty Honda Việt Nam có hiệu quả cao hơn,
công ty này đã tiến hành tự sản xuất 1 số bộ phận của động cơ như: vỏ hộp số, thân
máy...Theo nguồn số liệu từ báo Đầu tư Việt Nam ra ngày 4/9/2001, Honda Việt
Nam đang triển khai kế hoạch đầu tư 9 triệu USD để sản xuất 1 phần động cơ tại
Việt Nam.
Trang 18
Bên cạnh đó, công ty Honda Việt Nam đã cùng công ty VMEP (tập đoàn
SYM) tiến hành đầu tư sản xuất động cơ có tỷ lệ nội địa hoá 50%.
3. Sự kết hợp giữa chiến lƣợc giảm giá với các chiến lƣợc khác của Honda
Việt Nam.
Cùng với chiến lược giảm giá sản phẩm, chiến lược đầu tư vào sản xuất 1
phần động cơ tại Việt Nam, công ty Honda Việt Nam cũng đã có chiến lược quảng
cáo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Công ty có mạng lưới bán
hàng với các đại lý lớn, có dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng xe ở khắp mọi nơi trên
toàn quốc.
Nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình, Honda Việt Nam đã có những
chiến lược tức thời kết hợp với những chiến lược có dự định từ trước. Nhưng để
các chiến lược này đi vào hoạt động với hiệu quả cao nhất, Honda Việt Nam phải
cân nhắc toàn bộ khía cạnh ảnh hưởng của ccác nhân tố bên trong và bên ngoài
công ty để có thể ra quyết định đúng đắn, kịp thời nhất trong mọi tình huống.
Thành công không chỉ là đứng vững trên thị trường mà còn cần phải thu hút
thêm nhiều khách hàng đến với sản phẩm của mình.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHIẾN LƢỢC CẠNH
TRANH CỦA HONDA VIỆT NAM
1.Những lý luận chung về chiến lƣợc cạnh tranh
Trang 19
1.1.Khái niệm
Trong lao động hiệp tác, điều kiện để phối hợp tốt nhất các hành động hay
hoạt động của mọi bộ phận cá nhân trong doanh nghiệp ở bất kỳ thời điểm nào là
phải xác định trước mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể mang tính thống nhất cho toàn
doanh nghiệp cũng như cho mỗi bộ phân, cá nhân đó. Như thế, xác định trước mục
tiêu chính là một điều kiện không thể thiếu cho mỗi hoạt động hiệp tác có hiệu
quả. Thông thường, ở mọi thời kỳ phát triển của mình, doanh nghiệp cũng như các
bộ phận, cá nhân bên trong đều đứng trước rất nhiều mục tiêu và cách thức hành
động khác nhau. Vấn đề ở đây là doanh nghiệp sẽ chọn các mục tiêu nào trong rất
nhiều các mục tiêu cần đạt và đồng thời lựa chọn con dường đi nào trong số rất
nhiều con đường có thể đạt tới mục tiêu.
Việc xác định trước các mục tiêu và cách thức hành động có thể (mà ta gọi
là phương án kế hoạch hoặc chiến lược) để từ đó lựa chọn một chiến lược tối ưu
cho toàn doanh nghiệp cũng như các bộ phận, cá nhân bên trong doanh nghiệp
được gọi là công tác xây dựng kế hoạch hay công tác hoạch định. Như thế, xây
dựng kế hoạch và chiến lược là khâu đầu tiên của chu trình quản trị doanh nghiệp
và là cơ sở để tiến hành các hoạt động quản trị khác.
Trong khoa học quản trị tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về chiến lược,
chẳng hạn: “chiến lựơc là phương thức mà các công ty sử dụng để định hướng
tương lai nhằm đạt được và duy trì những thành công” hay có thể hiểu chiến lược
là một chương trình hành động tổng quát, dài hạn, hướng hoạt động của toàn
doanh nghiệp tới việc đạt được những mục tiêu đã xác định. Với ý nghĩa đó, chiến
lược thường được sử dụng phổ biến để chỉ: các chương trình hành động tổng quát
và sự triển khai các nguồn lực quan trọng để đạt được những mục tiêu toàn diện;
hoặc là chương trình các mục tiêu của một tổ chức và những thay đổi của nó, các
nguồn lực được sử dụng để đạt được những mục tiêu này, các chính sách điều hành
việc thu thập, xử dụng và bố trí các nguồn lực này; hoặc là xác định các mục tiêu
Trang 20
- Xem thêm -