Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở lớp 10b7 trường thpt n...

Tài liệu Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở lớp 10b7 trường thpt nông cống 3

.DOC
42
62
94

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3 TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở LỚP 10B7 TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3 Người thực hiện: Bùi Thị Thủy Chức vụ: Giáo viên Tổ chuyên môn: Ngữ văn SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm. THANH HÓA, NĂM 2020 MỤC LỤC 0 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Trang MỤC LỤC………………………………………………………………………1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………............ 2 I. Lí do chọn đề tài...............................................................................................2 II. Mục đích nghiên cứu......................................................................................3 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................3 IV. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ……………………………………........................4 I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu …………………………………............4 II. Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm.......................6 III. Kết quả đạt được.........................................................................................19 C. KẾT LUẬN ……………………………………………………..................20 Tài liệu tham khảo.............................................................................................22 Phụ lục................................................................................................................23 Lưu ý: Giáo vên chủ nhiệm viết tắt là: GVCN Giáo viên bộ môn viết tắt là: GVBM Trung học phổ thông viết tắt là: THPT Học sinh viết tắt là: HS MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở LỚP 10B7 TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG 3 1 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lí do chọn đề tài: Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Giáo dục trong nhà trường bắt đầu từ tuổi trẻ, từ thế hệ trẻ. Vì vậy, “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân…” (Điều 23 - Luật giáo dục). Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo chính là chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho Đất nước. Người ta thường nói: Trẻ em như một tờ giấy trắng mà người lớn muốn vẽ gì cũng được. Nói cách khác, học sinh mà đặc biệt là học sinh THPT là đối tượng dễ bị ảnh hưởng những thói hư, tật xấu của xã hội một cách nhanh nhất. Nhất là trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin thì điều đó không tránh khỏi. Trên thực tế, hiện nay Đất nước đang chuyển mình vào xu thế hội nhập toàn cầu, Trường THPT Nông Cống 3 cũng đang tiến đến mục tiêu Trường THPT đạt chuẩn quốc gia và khẳng định thương hiệu trong tương lai, đổi mới phương pháp đào tạo nhằm phát huy tính tích cực trong học tập cũng như hoạt động của học sinh (HS) là một trong các phương hướng cải cách giáo dục nhằm tạo ra những con người lao động sáng tạo, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước – có cả đức lẫn tài. Để đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng nước nhà trong giai đoạn hiện nay, tôi thiết nghĩ, việc rèn luyện ý thức tự giác cao cho học sinh trong mọi hoạt động ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là điều vô cùng cần thiết. Xã hội đang cần có một lực lượng lao động trẻ vừa hồng vừa chuyên, thực sự năng động, sáng tạo, tự chủ trong công việc, trong cuộc sống. Nhà trường là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong quá trình giáo dục ấy, giáo viên chủ nhiệm (GVCN) có vai trò, chức năng và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, trong sự nghiệp “Trồng người”. GVCN là người động viên, giúp đỡ học sinh biết vượt qua hoàn cảnh bản thân để trau dồi kiến thức, rèn luyện tu dưỡng tốt để trở thành con người có tri thức, có bản lĩnh, lí tưởng, có phẩm chất đạo đức tốt và nhân cách cao đẹp. Giáo dục học sinh phải giáo dục toàn diện cả tri thức và đạo đức, bởi “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” (Hồ Chí Minh). Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị TW8 khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo”, nêu rõ mục tiêu cụ thể “đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng 2 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, đạo đức, lối sống…Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”. Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, tổ chức giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách học sinh ở lớp chủ nhiệm nay từ năm lớp 10 là hết sức cần thiết, quan trọng không kém với việc truyền đạt kiến thức chuyên môn. Vì vậy, tôi xin chia sẻ cùng đồng nghiệp một vài kinh nghiệm qua đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở lớp 10B7 Trường THPT Nông Cống 3”. II. Mục đích nghiên cứu Tôi tiến hành đề tài này với mục đích cơ bản sau: Một là, giúp giáo viên chủ nhiệm tìm ra những giải pháp tối ưu nhất nhằm nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, quản lý, giáo dục đạo đức, hình thành và phát triển nhân cách, giúp các em phát triển một cách toàn diện hơn. Hai là, đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các giáo viên làm công tác chủ nhiệm. III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 10 - Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và ứng dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm vào thực tế ở lớp 10B7 - Trường THPT Nông Cống 3, năm học 2019-2020. IV. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp quan sát: Các hoạt động học tập, hoạt động phong trào và sinh hoạt tập thể của HS. - Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, Phụ huynh, bạn bè của HS. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường. - Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong nhà trường. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: 3 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Trường THPT Nông Cống 3 đóng trên địa bàn xã Công Liêm, học sinh gồm 7 xã vùng 3 của huyện Nông Cống. Năm học 2019-2020, trường có 27 lớp, số học sinh theo đạo Thiên Chúa thuộc 2 xã Công Chính và Tượng Sơn. Những năm gần đây, hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức khá nhiều. Học sinh trong vùng, phần đông là con gia đình nông dân, một số ít con nhà buôn bán. Điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, cha mẹ ít quan tâm đến việc học hành, rèn luyện, tu dưỡng của con cái. Cá biệt có những gia đình thả nổi con cái để các em sống tự do, ỷ vào nhà trường, trăm sự nhờ cả vào thầy cô. Việc quản lý con cái lỏng lẻo, một số gia đình nhận thức phiến diện, lệch lạc sai lầm, hoặc thiếu tri thức, phương pháp nuôi dạy con cái. Quan tâm nuông chiều thái quá trong việc nuôi dưỡng chăm sóc. Có những bậc cha mẹ còn sử dụng quyền uy với con cái một cách cực đoan hoặc có những tấm gương phản diện. Có nhiều em bị lâm vào hoàn cảnh éo le do bố mẹ bỏ nhau hoặc hoạn nạn nên khó khăn trong việc học tập và rèn luyện. Có những gia đình sử dụng những biện pháp giáo dục sai lầm, thiếu tính sư phạm, nặng về răn đe thuyết giáo, không thuyết phục, không tạo cơ hội cho con em rèn luyện trong lao động, sinh hoạt và trong đời sống cộng đồng. Tình thương một chiều hoặc quá nghiêm khắc, vũ lực thô bạo, cấm đoán hoặc quá nuông chiều, thỏa mãn về vật chất cho con cái của một số bậc cha mẹ là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng không tốt đến nhân cách các em. Với những trường hợp này, nếu học sinh ở trường không có ý thức tự quản, tự giác cao làm sao các em có thể hoàn thiện mình? Hơn nữa, thời kì kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế ngoài những mặt tích cực nó còn nảy sinh những vấn đề đáng lưu tâm. Đó là, bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa; những giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mĩ tục đang bị xói mòn; mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình lỏng lẻo, luân thường đạo lí bị đảo lộn. Hiện nay, một bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, không có tính tự chủ dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu. Số học sinh vi phạm pháp luật, thiếu lễ độ với người lớn, nói tục, gây gổ đánh nhau, không trung thực, ích kỷ, ham chơi, đua đòi... ngày càng nhiều. Ngay ở trong nhà trường, hiện tượng học sinh vô lễ với giáo viên, tình trạng học sinh kết thành băng nhóm thô bạo với bạn bè (bạo lực học đường) đang nổi lên đến mức báo động. Điều đáng quan tâm là một số Cán bộ quản lí, Giáo viên chưa thật sự là tấm gương sáng cho học sinh, chỉ lo chú trọng đến việc dạy tri thức khoa học, thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục tình cảm đạo đức cho học sinh. Còn một số giáo viên có những định kiến, thiếu thiện cảm, thiện chí với những học sinh vi phạm kỉ luật. Đôi lúc nhà trường và giáo viên còn sử dụng thái quá biện pháp hành chính, lạm dụng quyền lực, không chú ý nghe các em trình bày nguyện vọng, hoàn cảnh, lý do… dùng ngôn ngữ thiếu tế nhị, xúc phạm đến nhân cách của học sinh. Thiếu tình thương và cảm thông với học sinh nhất là với những em có hoàn cảnh éo le, thiếu tình cảm gia đình. Một vài giáo viên thiếu gương mẫu, mô phạm trong quan hệ giáo dục. Đôi khi việc đánh giá của giáo viên còn 4 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ thiếu công bằng, thiếu khách quan thiên vị hoặc định kiến. Sự kết hợp giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình, giáo dục ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, những năm gần đây, công tác quản lý của BGH nhà trường đã đi vào chiều sâu, thực sự tạo được nhiều chuyển biến mới trong nề nếp học đường. GVCN bám lớp sát sao, chặt chẽ bằng cách lên lớp 15 phút đầu giờ thường xuyên để nắm bắt tình hình lớp. Điều này là tốt vì nâng cao tinh thần trách nhiệm của GVCN đối với lớp. Song, không phát huy được năng lực tổ chức lớp của GVCN và khả năng tự quản của học sinh. Lớp 10B7 là năm đầu tiên các em bước chân vào Trường THPT Nông Cống 3 nên còn nhiều bỡ ngỡ, phải làm quen với môi trường học tập mới, Thầy cô mới, bạn bè mới. Qua tìm hiểu nắm bắt tình hình học sinh đầu năm, tôi thấy trong lớp rất nhiều thành phần: Có gia đình bố (mẹ) mất sớm; có gia đình bố mẹ đi làm ăn, con ở với ông bà; cá biệt có trường hợp gia đình rơi vào nghèo đói, túng thiếu vì tiền dồn hết vào chữa bệnh cho bố, mẹ vì ốm đau, bệnh tật nhưng không mang lại kết quả. Các em chủ yếu là con gia đình nông dân có điều kiện kinh tế vô cùng khó khăn. Tuy vậy, các em vẫn vượt lên hoàn cảnh gia đình để tiếp tục theo đuổi ước mơ, khát vọng của mình. Trong lớp đa phần các em ngoan, lễ phép, chăm chỉ học hành, có động cơ học tập và định hướng nghề nghiệp một cách rõ ràng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp cá biệt học sinh xuống Trương THCS Công Liêm - nơi mình vừa học xong để gây gỗ đánh nhau bị xử lý kỉ luật (Phan Thị An: bị khiển trách trước toàn trường), các em ứng xử với người trên thiếu lễ phép, sử dụng điện thoại di động trong giờ học, đi xe máy điện, xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm, đi xe máy đến trường khi chưa đủ điều kiện tham gia giao thông, nói dối cha mẹ đi học nhưng không vào lớp nhiều ngày mà cha mẹ không biết chỉ khi GVCN đến nhà thì sự việc mới sáng tỏ. Từ thực trạng trên, là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm, tôi đã băn khoăn, trăn trở rất nhiều, vừa là lương tâm vừa là trách nhiệm mình cần phải làm gì để góp phần vào công tác giáo dục học sinh trong năm học đầu tiên của bậc THPT để tạo thành một nề nếp cho các năm học tiếp theo và từ đó giúp các em có hành trang bước vào đời. Tôi cho rằng, mấu chốt của sự thành công trong công tác chủ nhiệm là đầu tư đúng mức để xây dựng cho học sinh có ý thức tự giác, tự quản, tự làm chủ và tự chịu trách nhiệm về bản thân. Bởi vì GVCN không thể theo học sinh suốt cả buổi học, cả tuần hoặc cả tháng, cả năm; ngoài làm công tác chủ nhiệm GVCN còn làm nhiệm vụ giảng dạy ở các lớp khác. Hơn nữa, bản thân học sinh cần có năng lực tổ chức, tự quản, tự đánh giá từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để ngày mai đây sẽ bước vào đời một cách tự chủ, không bị tác động bởi hoàn cảnh, đây cũng là những kĩ năng sống cơ bản đối với mỗi học sinh. Vấn đề là GVCN sẽ hướng dẫn học sinh thực hiện điều đó như thế nào để có hiệu quả nhất. Tôi nhận thấy, việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp xây dựng nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đề ra một số biện 5 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ pháp và áp dụng ở lớp 10B7, Trường THPT Nông Cống 3, năm học 2019-2020 do tôi làm công tác chủ nhiệm, kết quả đạt được rất khả quan và tạo được một bước đột phá trong công tác chủ nhiệm. II. Một số biện pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm ở lớp 10B7 Trường THPT Nông Cống 3. 1. Vai trò, nhiệm vụ của GVCN lớp Công tác giáo dục học sinh trong trường THPT phụ thuộc rất lớn vào nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương pháp sư phạm dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp từ nhân cách người thầy với học sinh. Lúc sinh thời Bác Hồ đã có lời dạy chúng ta về rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân: “…Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức…Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”. (Trích các lời dạy của Bác về Rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công dân). Đối với một lớp học, GVCN có vai trò vô cùng quan trọng, là cầu nối đa chiều với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, gia đình và xã hội, đóng góp nhiều công sức trong việc giáo dục học sinh, chăm lo, dìu dắt các em về mọi mặt. Ngoài chức năng nhiệm vụ của một giáo viên bình thường, giáo viên chủ nhiệm còn là người quản lý toàn bộ hoạt động giáo dục của lớp. Trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, các giáo viên khác thông thường chỉ thực hiện qua bài giảng. Còn đối với GVCN, ngoài việc giáo dục đạo đức học sinh qua bài giảng còn phải giáo dục qua hoạt động thực tiễn của lớp. Để học sinh học tốt đòi hỏi lớp phải có phong trào thi đua, tạo không khí học tập sôi nổi. GVCN lớp phải tổ chức được phong trào đó. Muốn giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học sinh cá biệt, dìu dắt học sinh yếu kém trước hết phải là GVCN. Học sinh trong lớp không đoàn kết với nhau GVCN cũng phải tháo gỡ. Bên cạnh đó, GVCN là người trực tiếp xây dựng tập thể học sinh thực sự có khả năng tự quản mọi hoạt động của mình. Đây là chức năng rất đặc biệt của GVCN mà các giáo viên bộ môn không thể có. Đối với học sinh THPT, GVCN cần xác định mình chỉ là cố vấn cho các hoạt động của tập thể lớp. V.A. Sukhom linski đã khẳng định “Tôi dường như không phải là thầy giáo…và những con đường đến với trái tim trẻ thơ sẽ bị đóng kín đối với tôi nếu tôi chỉ là người đứng trên bục giảng”. Đây là một lời khẳng định về vị trí, ý nghĩa giáo dục về mặt tâm hồn, tình cảm của người “Thầy”. Tuy nhiên, để thực hiện được trọng trách này bản thân người làm chủ nhiệm phải thực sự yêu nghề, yêu trẻ bằng tình cảm chân thành nhất vì chỉ khi “Xuất phát từ trái tim mới đến được với trái tim”. Như vậy, con đường hình thành ý thức và sự phấn đấu cho HS không chỉ là ở những phương pháp, ở hệ thống lí thuyết mà phải bắt đầu ngay từ nhân cách, cách ứng xử sư phạm cũng như từ những hành động của người GVCN. Bởi vậy, GVCN cần: 6 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Thứ nhất, tạo tính tập thể và tinh thần đoàn kết trong lớp từ mỗi giờ học trên lớp. Mỗi GVCN đồng thời cũng là người phụ trách môn học nào đó của lớp, trong quá trình giảng dạy không chỉ chú ý về việc truyền đạt kiến thức mà còn phải tạo ra tính đoàn kết tập thể ở HS. Là giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, trong giờ dạy tôi luôn chú trọng việc liên hệ thực tế cuộc sống để hình thành kĩ năng sống qua mỗi bài học. Cách ứng xử cũng như việc xử lí các tình huống sư phạm ở lớp cũng góp phần hình thành ý thức đoàn kết, sự trân trọng các thành viên và tập thể lớp của HS. Thứ hai, biết lắng nghe và chia sẻ đối với học sinh. Trong quá trình làm việc với lớp chủ nhiệm, bản thân tôi đã giành ra những khoảng thời gian nhất định để lắng nghe HS bày tỏ về các vấn đề của cuộc sống, về mong muốn của tập thể. Cũng có thể lắng nghe HS nói về mình (qua bản giấy), phương pháp chủ nhiệm của mình ở nhóm HS thuộc về kênh “ thông tin mật”, hoặc là tham khảo qua các GVBM của lớp. Thông qua sự lắng nghe HS để tìm ra những vấn đề “bất ổn” để khắc phục hay những điểm tốt trong công tác chủ nhiệm để phát huy nhằm tạo được sự hài hòa, đồng thuận giữa GV và HS, từ đó tạo ra không khí thoải mái, phấn khởi trong tập thể HS. “ Lắng nghe” cũng còn có nghĩa là chia sẻ với HS, mỗi GVCN, không chỉ là người thầy của HS mà còn có thể trở thành người bạn lớn đáng tin cậy của HS. Tin tưởng và yêu quý GVCN các em thường tỏ bày về những khúc mắc trong cuộc sống, những vấn đề về gia đình, về tình cảm riêng tư. Đôi khi học sinh nhắn tin, viết thư tâm sự những va vấp của mình trong cuộc sống…Dù rất bận rộn, song tất cả những lời tâm sự ấy của HS, GV không thể xem thường mà phải biết cách lắng nghe, chia sẻ rồi giúp HS tìm ra những giải pháp, nếu không cũng là an ủi động viên để HS vững vàng hơn trong cuộc sống…. Thứ ba, GVCN phải có niềm tin với học sinh; Biết khen ngợi và khích lệ: Tin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh; Biết động viên, khen ngợi và khích lệ kịp thời khi các em có tiến bộ. Trong trường hợp HS phạm lỗi, thiết nghĩ tùy tính chất, mức độ và số lần vi phạm để tìm ra giải pháp và cách thức xử lí cho phù hợp, nhưng tuyệt nhiên không nên đánh mất niềm tin vào HS. Nếu HS có suy nghĩ mọi sự phấn đấu của mình sẽ là vô nghĩa khi cô đã ác cảm và không tin tưởng minh…. Thì rất có thể HS ấy sẽ buông xuôi và trượt dài theo chiều hướng tiêu cực. “Khen ngợi” là một cách tuyên dương, biểu dương khi học sinh đạt được những tiến bộ trong học tập và rèn luyện. Lời khen của GV đặt đúng lúc, đúng chỗ và kịp thời sẽ tạo thành một động lực lớn lao để HS phấn đấu và cố gắng hơn. GV không nên “ tiết kiệm” lời khen mà hãy sử dụng nó khi có thể. Khi HS làm được những việc tốt, khi nhìn thấy sự tiến bộ của tập thể chúng ta phải khen để HS cố gắng hơn, đương nhiên khen phải kèm với hàm ý khích lệ để các em phấn đấu, cũng cần phải chú ý cách “khen” bởi nếu không lại gây ra sự phản tác dụng đó là gây ra sự tự thỏa mãn ở HS. Kèm với lời khen, GVCN cũng có thể 7 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ tặng quà cho tập thể lớp trong những dịp đặc biệt. Món quà có thể không mang nhiều giá trị vật chất song nó lại có ý tinh thần rất lớn. Thứ tư , biết “vì tập thể học sinh” thân yêu. Chúng ta đều biết, muốn có một tập thể tiến bộ thì phải xây dựng được ý thức vì tập thể của HS. Muốn HS vì tập thể, trước hết cũng phải giúp HS cảm nhận được nhiệt huyết vì tập thể HS của GVCN. GVCN phải bảo vệ quyền lợi cho HS của mình, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của các em... Ngoài ra, tôi giành thời gian cho lớp nhiều hơn, cùng lớp đến thăm những HS có hoàn cảnh đặc biệt khi có thể… Từ đó cô trò gần gũi nhau hơn, không khí lớp trở nên thân thiện, tích cực hơn… Và HS có thêm niềm tin yêu vào tập thể của mình. Tôi cảm thấy các em hăng say hơn trong học tập và tích cực tham gia các hoạt động phong trào… Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của học sinh trong lớp. GVCN phải khơi gợi tiềm năng sáng tạo của học sinh trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện của mỗi tháng, mỗi học kì và cả năm học. GVCN là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hóa. Điều đó không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của học sinh mà nên cùng hoạt động, để kịp thời điều chỉnh hoạt động và giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động. Cần bàn bạc, tranh thủ các lực lượng trong và ngoài nhà trường tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh của lớp tổ chức hoạt động. 2. Tìm hiểu đối tượng học sinh lớp 10B7. Đối tượng mà chúng ta trực tiếp giảng dạy và giáo dục là học sinh THPT. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, độ tuổi vị thành niên là từ 10 dến 19 tuổi. Ở Việt Nam quy định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi. Như vậy, học sinh THPT là lứa tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em đang phát triển mạnh về thể chất, tâm sinh lý. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Các em có xu hướng tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. Ở giai đoạn này, sự chỉ bảo, kiểm tra, giám sát của người lớn nhiều khi làm các em tỏ ra khó chịu. Đây cũng là giai đoạn các em thích tìm tòi, khám phá phát hiện những điều chưa biết, những cái mới mẻ của cuộc sống. Đồng thời các em cũng muốn vượt khỏi sự ràng buộc của cha mẹ. Ở lứa tuổi THPT, sự giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu rất lớn. Các em có xu hướng tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp với tính tình để vui chơi đùa nghịch. Có những lúc, những nơi các em có hành vi không đúng, không phù hợp với lứa tuổi. Ở giai đoạn này, quá trình phát triển sinh lý ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của các em như: dễ bị xúc động, dễ bị lôi kéo, kích động, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế của các em yếu. Tính tình của các em không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì quá sôi nổi nhiệt tình, nhưng có trở ngại lại buông xuôi, chán nản. Lứa tuổi này các em cảm thấy cái gì cũng dễ 8 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ dàng đơn giản và luôn ở hai trạng thái hoặc tự ti hoặc hiếu thắng, dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ, nhiều lúc mình vi phạm nhân cách mà không biết. Vì thế, khi bắt đầu nhận lớp chủ nhiệm, công việc tìm hiểu học sinh phải tiến hành kịp thời, để từ đó phân loại học sinh theo nhóm đối tượng tùy thuộc vào hoàn cảnh từng học sinh. GVCN phải có những thông tin khái quát về gia đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, nền giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình với láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết nhưng GVCN phải thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. GVCN phải tìm hiểu tâm lí, lứa tuổi, năng lực học tập, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm. Lớp 10B7 tổng số 42 học sinh, trong đó 5 nam, 37 nữ, 100% là các học sinh mới tuyển từ lớp 9 ở các trường THCS ở các xã vùng 3 của huyện Nông Cống. Trong lớp có học sinh là người theo đạo Thiên Chúa, học sinh thuộc đối tượng con Hộ nghèo, Cận nghèo, có học sinh bố, mẹ mất sớm...Chất lượng đầu vào thấp so với các lớp cùng khối, thành phần học sinh thuộc nhiều đối tượng khác nhau, có học sinh cá biệt và đa phần các em có học lực Trung bình, không có học sinh xếp loại học lực Giỏi cho nên để xây dựng được một tập thể đoàn kết, học giỏi cũng rất khó khăn. Trường THPT Nông Cống 3 nằm ngay trên Tỉnh lộ 505 thuộc xã Công Liêm, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để các em đi lại, học tập, tuy nhiên cũng không ít cám dỗ dễ lôi cuốn các em vào các tệ nạn xã hội, chính vì thế mà lớp cũng có những thuận lợi và khó khăn: Thuận lợi: - Các em học sinh hầu hết đều lễ phép với thầy cô, biết vâng lời cha mẹ, tích cực tham gia các phong trào của lớp, của trường, đoàn thanh niên, các hoạt động xã hội. Thái độ học tập và rèn luyện của học sinh lớp 10B7 khá tốt. - Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao kịp thời của BGH, và tạo điều kiện tốt về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học được đảm bảo đầy đủ, kể cả có ghế ngồi cho học sinh dự tiết sinh hoạt dưới cờ. - Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác giáo dục cho các em. - Công nghệ thông tin phát triển, nên hầu hết phụ huynh học sinh đều có số điện thoại riêng, sự liên lạc giữa gia đình nhà trường và giáo viên chủ nhiệm dễ dàng hơn. Khó khăn: 9 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ - Trong lớp có học sinh cá biệt, tinh thần học tập, ý thức rèn luyện đạo đức, còn thụ động tham gia các phong trào của lớp như em Phan Thị An, Thiều Quang Nam, Trần Văn Mạnh... - Học sinh được tuyển từ nhiều Trường THCS trong huyện nên các em còn rụt rè, chưa có tình thần đoàn kết. - Ý thức tự giác học tập, rèn luyện của HS chưa tốt, còn ỷ lại. - Đa số HS hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện hộ cận nghèo và hộ nghèo như: Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Bùi Thị Lệ Thu, Lê Văn Long, Đỗ Đại Lâm... - Một số học sinh nhà ở xa trường học: Trần Lê Thủy Hà, Phạm Thị Thúy, Hồ Thị Hoài... - Một số học sinh sống thiếu tình cảm của bố, mẹ do bố, mẹ mất sớm: Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Trần Thị Dung, Bùi Thị Lệ Thu... - Một số học sinh thiếu thốn tình cảm của bố, mẹ do bố, mẹ đi làm ăn xa không có thời gian quan tâm chăm sóc cho các em, các em ở với ông, bà hoặc người thân như: Mai Thanh Thảo, Nguyễn Thị Lý, Phạm Thị Thúy, Thiều Quang Nam…. - Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhiều tiệm internet, game online mọc lên ngày càng nhiều, nếu các em không nhận thức đúng sẽ dễ bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội. - Một số phụ huynh chưa có trách nhiệm cao, phó thác con em cho GVCN. Trên cơ sở đó GVCN tiến hành như sau: - Nắm danh sách lớp, xếp tên học sinh theo thứ tự A, B, C… - GVCN tiến hành cho HS viết Lý lịch học sinh (phụ lục 1), học sinh phải viết chính xác thông tin để nhập Sổ điện tử trên VNEDU. - GVCN cần phải chú ý đến: Các em thuộc diện HS nghèo hiếu học có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Diện gia đình HS không hạnh phúc: Cha, mẹ li dị, sống không hợp pháp, ly thân… Đây là các em cần được quan tâm nhiều hơn; Lập và phân chia học sinh theo địa bàn cư trú, phân theo từng khu vực. - Luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết và tốt đẹp với HS, khuyến khích các em nói ra những gì mình nghĩ để tất cả các tiết sinh hoạt chủ nhiệm cũng như các giờ dạy học đều thoải mái, vui tươi và sôi nổi hơn. Từ đó, GVCN đề ra những kế hoạch hoạt động cụ thể đối với lớp, nên đặt ra những tình huống giả định có vấn đề và định ra biện pháp giải quyết trong quá trình chủ nhiệm để khi sự việc xảy ra GVCN sẽ không bị động khi xử lý tình huống. Có như vậy GVCN mới chủ động trong công tác quản lí học sinh trong lớp mình. 3. Công tác tổ chức lớp 3.1. Tổ chức Tuần sinh hoạt đầu năm 10 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ GVCN nhận lớp theo sự phân công của nhà trường, cho Học sinh tiến hành ghi Lý lịch trích ngang của bản thân. (Phụ lục 1) Tổ chức sinh hoạt lớp theo lịch của nhà trường. Tuần sinh hoạt lớp đầu năm học mới là rất quan trọng, làm thế nào để xây dựng lớp học thành đơn vị tập thể tự quản, có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau, phát huy khả năng tự giác, tự quản của học sinh theo đúng tinh thần đổi mới phương pháp giáo dục. Cho nên, ngay tuần sinh hoạt đầu năm giáo viên cần vạch ra, định hướng nhằm giúp các em thể hiện tinh thần trách nhiệm mạnh dạn phê và tự phê giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Do đó, cần phải ổn định nề nếp tổ chức lớp ngay từ tuần sinh hoạt đầu năm một số công việc sau: 3.1.1. Lực chọn ban cán sự cho lớp Cơ cấu của Ban cán sự lớp: Các em có tinh thần trách nhiệm cao về mọi mặt, nghiêm chỉnh chấp hành tốt nội quy của trường của lớp, có năng lực tổ chức các hoạt động phong trào cho lớp. (Diễn giải tại mục 3.2. Xây dựng nề nếp lớp tự quản). 3.1.2. Sắp xếp chỗ ngồi, chia tổ học tập Sắp xếp vị trí chỗ ngồi trong lớp cho đội ngũ cán bộ lớp: Là một việc làm tưởng như đơn giản nhưng lại hết sức quan trọng, bởi nếu không chú ý, vô tình sẽ tạo ra tính “ cục bộ” ảnh hưởng không nhỏ đến không khí lớp và tập thể . Ban cán sự lớp sẽ chia đều ở cả hai dãy (dãy bàn phía GV và cửa ra vào), ngoài ra còn phải phân bố đều trong tất cả các vị trí của lớp học, nhiều hơn ở giữa và cuối lớp để tiện quan sát lớp. Đồng thời, cán bộ lớp phải rải đều ở các tổ để tạo tính cân bằng và liên kết trong các hoạt động tập thể. 3.1.3. Tổ chức học Điều lệ nhà trường và viết cam kết thực hiện nội quy học sinh. (Kèm theo Phụ lục 2 và phụ lục 3) 3.1.4. Phát thảo nội dung thi đua của lớp dựa trên cơ sở nội dung thi đua của nhà trường (Kèm theo phụ lục 4). 3.1.5. Công bố các hình thức khen thưởng của lớp, của trường Căn cứ vào quy định và quyết định khen thưởng của nhà trường đầu năm. 3.1.6. Công bố các khoản thu đầu năm do trường quy định Ngoài việc thông tin đến HS các khoản thu theo quy định từ đầu năm học, GVCN thông tin đến HS chế độ miễn, giảm và những thủ tục miễn, giảm cho học sinh. Thời gian hết hạn giải quyết chế độ miễn, giảm và các khoản thu nộp theo quy định của nhà trường đầu năm. 3.2. Xây dựng nề nếp lớp tự quản. GVCN xây dựng nề nếp lớp tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ của năm học và tính chất phát triển của tập thể học sinh. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, có đạo đức tốt, có năng lực hoạt động, có uy tín với tập thể; rất ít GVCN dựa vào đặc điểm của quá trình 11 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản. GVCN nên căn cứ vào 3 giai đoạn phát triển và 5 đặc điểm của tập thể giáo dục mà lựa chọn đội ngũ tự quản. Ví dụ: Ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một lớp trưởng, bí thư chi đoàn (thủ lĩnh) có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu, biết cảm hóa các bạn…không nhất thiết phải là học sinh giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2 và 3 (khi tập thể đã phát triển có đủ 5 đặc điểm) rất cần có thủ lĩnh năng động, sáng tạo luôn tìm tòi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động để cuốn hút các bạn vào hoạt động. Lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động ngoại khóa, văn hóa xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể, rèn luyện năng lực tự quản, thái độ, tình cảm và hành vi của mỗi học sinh. 3.2.1. Yêu cầu của việc xây dựng nề nếp lớp tự quản. - Xây dựng được một tập thể học sinh tự quản mà nòng cốt của nó là đội ngũ cán bộ lớp có khả năng tự điều hành các hoạt động của tập thể mình. - Tạo được không khí tự rèn luyện, mạnh dạn, ý thức làm chủ ở học sinh. - Hình thành ở học sinh những kĩ năng tổ chức cơ bản như: + Kĩ năng nhận nhiệm vụ và lập kế hoạch hoạt động. + Kĩ năng điều khiển tập thể lớp thực hiện kế hoạch đó. + Kĩ năng đánh giá kết quả hoạt động và rút kinh nghiệm. 3.2.2. Cách thức tiến hành 3.2.2.1. Lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp đủ uy tín và có năng lực điều khiển tập thể lớp. Có hai cách hình thành: Thứ nhất: Giáo viên chủ nhiệm tự lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp trên cơ sở của việc tìm hiểu học sinh Thứ hai: Tập thể lớp tự lựa chọn, bầu ra đội ngũ cán bộ lớp trên thông qua hình thức bỏ phiếu kín. Nhưng tốt nhất, giáo viên chủ nhiệm cần định hướng cho tập thể lựa chọn, biến ý định của mình thành quyết định dân chủ của tập thể học sinh bằng việc xác định những tiêu chuẩn lựa chọn, mục tiêu nội dung hoạt động của lớp để chọn được người gánh vác công việc của tập thể. Khi lựa chọn những học sinh có đủ tiêu chuẩn vào đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm có thể: hoặc tự mình lựa chọn rồi thông báo cho lớp biết, hoặc dùng phiếu thăm dò ý kiến học sinh rồi sau đó sẽ quyết định chính thức. Nếu để tập thể học sinh tự lựa chọn thì phải tổ chức cho các em bỏ phiếu tín nhiệm những bạn xứng đáng nhất vào cán bộ lớp. Việc bỏ phiếu phải diễn ra công khai, đúng nguyên tắc, bảo đảm tính dân chủ, không áp đặt học sinh. 3.2.2.2. Đội ngũ cán bộ tự quản gồm có: - Lớp trưởng: Phan Thị An. - Các lớp phó: 12 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ + Lê Thị Thanh: Lớp phó học tập. + Thiều Quang Nam: Lớp phó lao động, TDTT. + Mai Thanh Thảo: Bí thư Chi đoàn, Lớp phó văn nghệ. + Lê Thị Ánh Nguyệt: Thư ký, Ghi Sổ đầu bài Tuỳ theo tình hình cụ thể của lớp, mỗi lớp có thể cử 1 đến 3 lớp phó. Mỗi người phụ trách một đến hai nội dung hoạt động của lớp như: học tập, lao động, văn nghệ, thể thao, vệ sinh môi trường… - Các cán sự bộ môn: mỗi môn học có một cán sự. Cũng có thể một cán bộ cán sự phụ trách một số môn. Cán sự của mỗi môn học phải là người học giỏi, say sưa, có nhiều sáng tạo trong môn học đó, có trách nhiệm đối với việc tổ chức giúp các bạn học yếu môn học này. Cán sự bộ môn hoạt động dưới sự điều khiển, tổ chức của lớp phó học tập nhằm duy trì các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các giờ học tự quản. Ngoài cán sự môn học, trong lớp cần có cán sự một số hoạt động của lớp như: Thư viện, báo chí, thư ký lớp học. - Đội cờ đỏ của lớp gồm một đội trưởng và các thành viên (mỗi tổ cử một đến hai thành viên). - Học sinh trong lớp được chia thành 4 tổ học tập, có trình độ mọi mặt tương đương nhau. Trong lớp, học sinh nên ngồi theo tổ. Mỗi tổ, có tổ trưởng và tổ phó. Mỗi tổ cũng có thể chia thành nhóm học tập và nhóm trưởng để điều khiển các hoạt động trong nhóm. 3.2.2.3. GVCN cần phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho đội ngũ cán bộ tự quản - Nhiệm vụ lớp trưởng: Tổ chức, theo dõi hoạt động tự quản của lớp (dưới sự chỉ đạo, cố vấn của GVCN) như: các tiết sinh hoạt tập thể lớp hàng tuần, các cuộc hội ý cán bộ cốt cán của lớp, các hoạt động giáo dục theo quy mô lớp. Luôn luôn có trách nhiệm quản lý lớp trong mọi hoạt động tập thể của trường, nhận xét, đánh giá kết quả thi đua các mặt của lớp hàng tháng, học kì và năm học. - Nhiệm vụ của lớp phó phụ trách lao động, TDTT: nhận nhiệm vụ, tổ chức, phân công, điều khiển các buổi lao động, vệ sinh của lớp, nhận xét, đánh giá kết quả; phụ trách các cán sự chức năng có liên quan như: cán sự vệ sinh, cán sự thư viện, cán sự tài chính...... Tổ chức các hoạt động thể thao lành mạnh: cầu lông, đá cầu, bóng chuyền… nhằm thu hút sự tham gia của các bạn sau những giờ học căng thẳng. Tuỳ theo từng công việc, lớp phó có thể tổ chức, điều khiển trực tiếp cả lớp hoặc thông qua tổ trưởng, cán sự liên quan. Hàng tháng (hoặc học kì) lớp phó tổng hợp kết quả và báo cáo cho lớp trưởng. Đồng thời cũng có thể lớp phó báo cáo kết quả đó trước lớp. - Nhiệm vụ của Bí thư Chi đoàn kiêm Lớp phó văn nghệ: Phụ trách các hoạt động của Đoàn Thanh niên, chú ý đến tư tưởng đoàn viên. Điều khiển và theo dõi các hoạt động văn nghệ của lớp thông qua tổ trưởng và cán sự chức 13 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ năng có liên quan; điều khiển các hoạt động văn hoá - văn nghệ. Nhận xét đánh giá kết quả trước lớp và báo cáo cho lớp trưởng. - Nhiệm vụ của lớp phó phụ trách học tập: Tổ chức, điều khiển các hoạt động tự quản học tập của lớp, tổ chức các câu lạc bộ học tập theo chủ đề; tổ chức thi tìm hiểu, giải đáp các thắc mắc trong học tập, đề xuất với GVCN; trao đổi kinh nghiệm học tập; phụ trách, điều khiển các tổ trưởng, các cán sự bộ môn hoạt động tự học, có kế hoạch giúp đỡ các bạn học kém; theo dõi, đánh giá kết quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng, học kì và báo cáo với GVCN trao đổi với đội ngũ tự quản để có nhận định đánh giá hoạt dộng chung của lớp. - Nhiệm vụ của các tổ trưởng: Theo dõi và điều khiển các hoạt động của tổ, nắm được tình hình cụ thể về học tập, kỉ luật của từng tổ viên, tổng hợp kết quả hàng tuần, nhắc nhở, động viên các thành viên của tổ và báo cáo kết quả với ban cán sự lớp. - Nhiệm vụ của các tổ phó: Nhận nhiệm vụ từ tổ trưởng và lớp phó liên quan, tổ chức phân công theo dõi các tổ viên thực hiện nhận xét, báo cáo cho tổ trưởng và lớp phó liên quan. - Nhiệm vụ của bàn trưởng (nhóm trưởng): Nhắc nhở các bạn trong nhóm (cùng bàn) giữ trật tự kỉ luật trong giờ học. - Nhiệm vụ đội cờ đỏ: Theo dõi kiểm tra, đánh giá, giữ gìn trật tự, kỉ luật, thực hiện nội quy của lớp và tổ, báo cáo kết quả hàng tuần, tháng cho lớp trưởng và báo cáo trước lớp. - Các cán sự chức năng: + Cán sự môn học: Liên hệ với giáo viên bộ môn, đề đạt nguyện vọng của lớp, xin ý kiến của giáo viên bộ môn....nhằm giúp lớp học có hiệu quả. + Cán sự vệ sinh: Kiểm tra, đôn đốc vệ sinh cá nhân, lớp sạch sẽ hàng ngày. + Cán sự tài chính: Thu, giữ quỹ lớp, quản lý chi tiêu,....... + Cán sự văn nghệ: Dạy bài hát mới cho lớp, quản ca, cùng với lớp phó văn thể chăm lo phong trào văn nghệ lớp. + Cán sự thể thao: Chăm lo phong trào thể thao của lớp. + Thư ký lớp: Bảo quản, ghi Sổ đầu bài, nghị quyết, biên bản họp lớp,..... 3.2.2.4. GVCN hướng dẫn nội dung ghi chép sổ công tác cho từng loại cán bộ. - Sổ công tác của lớp trưởng: Ghi nhận nhiệm vụ của lớp trưởng, kế hoạch phấn đấu của lớp (nội dung, chỉ tiêu, biện pháp) cả năm và hàng tháng; ghi chép tình hình hàng tháng do lớp phó, tổ trưởng, cờ đỏ.... cung cấp. - Sổ công tác lớp phó: Ghi nhiệm vụ của lớp phó, dự kiến kế hoạch hàng tháng (tóm tắt); kết quả hoạt động hàng tuần, hàng tháng. 14 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ - Sổ công tác tổ trưởng: Ghi tóm tắt nhiệm vụ của tổ trưởng; danh sách và địa chỉ của tổ viên; kết quả học tập (điểm tốt, xấu) kỷ luật trật tự, chấp hành nội quy và kết quả xếp loại đạo đức hàng tháng của tổ viên. - Sổ công tác cờ đỏ: ( mỗi thành viên một sổ) ghi chép tình hình kỷ luật trật tự, đạo đức hàng ngày (trong giờ và ngoài giờ học) ghi cụ thể việc tốt, việc xấu, tổ, thời gian; nhận xét hàng tuần hàng tháng đối với các tổ để báo cáo cho đội trưởng cờ đỏ tổng hợp đánh giá chung. - Sổ nhật ký lớp và sổ ghi biên bản của lớp: Thư ký lớp ghi những việc tốt, chưa tốt xảy ra trong buổi học (nhật ký) và ghi biên bản các cuộc họp lớp và các cuộc họp cán bộ lớp (ghi vào sổ nghị quyết- biên bản lớp). Bên cạnh đó, GVCN tổ chức cho học sinh phân tích, đánh giá, khái quát hoá kinh nghiệm hoạt động; kiểm tra, đánh giá hoạt động của họ, bảo vệ, xây dựng và phát triển uy tín của họ đối với tập thể, tuyệt đối không được tạo ra sự đối lập giữa họ với các thành viên trong tập thể. Kinh nghiệm cho thấy, kết quả giáo dục đối với lớp của GVCN phụ thuộc vào năng lực, uy tín của đội ngũ cán bộ lớp. Đội ngũ cán bộ lớp càng có năng lực tổ chức quản lý và gương mẫu mọi mặt với tập thể lớp bao nhiêu thì hoạt động giáo dục của lớp, của chủ nhiệm càng có hiệu quả cao bấy nhiêu. Bởi vậy, việc lựa chon, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ tự quản điều hành tốt mọi hoạt động của tập thể là hết sức quan trọng để xây dựng lớp tự quản. Tổ chức để học sinh tự đánh giá kết quả hoạt động của tập thể lớp. Qua đánh giá, các em rút ra được bài học kinh nghiệm để cho nhưng hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn. Mỗi lần như vậy là dịp để tập thể học sinh trưởng thành về nhân cách đạo đức và về kĩ năng sống, kĩ năng làm việc nhóm. 4. Giáo dục học sinh cá biệt. Học sinh cá biệt là thành phần gây khó khăn trở ngại nhiều nhất cho giáo viên chủ nhiệm, đây được xem như là những “con sâu làm rầu nồi canh”. Tuy nhiên, tôi chỉ trình bày một vài phương pháp liên quan đến việc giáo dục ý thức cho học sinh cá biệt ở lớp 10B7. Em Phan Thị An (hiện là Lớp trưởng) Biểu hiện: gây gỗ đánh nhau với học sinh Trường THCS Công Liêm (nơi em An đã từng học THCS từ lớp 6 đến lớp 9) Hình thức kỉ luật: Khiển trách trước toàn trường. Biện pháp giáo dục: Gặp riêng và trao đổi trên cơ sở tâm sự để hiểu được những nguyên nhân khiến học sinh trở thành “cá biệt”. Không kì thị, mạt sát học sinh mà bản thân tôi luôn có cái nhìn độ lượng, khoan dung, có sự kiên trì đối với học sinh vi phạm. Phân tích cho học sinh những đúng /sai, phải/ trái. Tin tưởng, giao nhiệm vụ cho học sinh: làm lớp trưởng (theo phương châm “lấy độc trị độc” đồng thời có những quy định ràng buộc đối với học sinh. 15 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Qua thời gian giáo dục em An đã thay đổi bản thân rất nhiều. Em đã gặp riêng giáo viên chủ nhiệm để xin lỗi vì hành động nông nổi của mình. Không vi phạm nội quy học sinh, là lớp trưởng gương mẫu, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm với lớp. Như vậy, ngay từ đầu, học sinh cá biệt khó có thể vào “khuôn” như những học sinh bình thường khác nhưng khơi dậy được tinh thần tập thể cũng giảm bớt những trở ngại cho giáo viên chủ nhiệm trong công tác quản lí. Đồng thời, từ đặc điểm tâm lí này, có thể dần dần giáo dục học sinh cá biệt theo chiều hướng tích cực hơn. 5. Đổi mới tiết sinh hoạt cuối tuần Thông thường giờ sinh hoạt lớp cuối tuần GVCN làm công tác tổng kết tuần và đề ra kế hoạch hoạt động của tuần học kế tiếp. Giờ sinh hoạt lớp thường rất nặng nề vì tất cả những khuyết điểm của học sinh trong tuần sẽ được GVCN kiểm điểm, phê bình, uốn nắn một cách nghiêm khắc có phần khắt khe. Không khí giờ sinh hoạt hết sức căng thẳng, cả giáo viên và học sinh đều phải gồng mình lên để với những hành vi chưa đẹp của học sinh và những ngôn ngữ thiếu thiện cảm của GVCN. Thoát ra khỏi quy luật khắt khe ấy, giờ sinh hoạt của lớp tôi chủ nhiệm là thời điểm mà học sinh tự phê bình và phê bình lẫn nhau, GVCN tham gia với tư cách là cố vấn, dự giờ và đưa ra ý kiến nhận xét cuối cùng trong giờ sinh hoạt. Thông qua giờ sinh hoạt lớp, GVCN kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của học sinh khi có học sinh vi phạm, lấy tình nghĩa thầy trò tâm sự cởi mở, chân thành với các em làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Trong khi giáo dục các em, GVCN không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, phải hết sức trân trọng những mặt tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt, việc tốt trong cuộc sống thậm chí có thể kể cho các em về sự nỗ lực phấn đấu vượt khó của bản thân mình để các em học tập. Có thể lúc ấy các em chưa hiểu ra nhưng mưa dầm thấm lâu, các em sẽ nhận ra điều mình làm chưa đúng và sửa chữa kịp thời. GVCN nêu những việc làm tốt, những cố gắng nỗ lực của các thành viên trong lớp để xây dựng tập thể lớp thành lớp tiên tiến. 6. Công tác phối hợp giữa GVCN với phụ huynh học sinh Nhà trường, gia đình và xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối với sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS. Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Nhà trường là môi trường giáo dục toàn diện, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục chuyên nghiệp cho nên nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ phía gia đình và xã hội. 16 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Gia đình được xem là môi trường giáo dục đầu tiên. Là cái nôi ươm mầm và nuôi dưỡng nhân cách học sinh. Nếu trong gia đình học sinh các em luôn được cha mẹ dành cho sự yêu thương, chăm sóc từ lời ăn tiếng nói đến nề nếp sinh hoạt, học tập hằng ngày, giúp đỡ các em cả về tinh thần và vật chất, động viên các em cố gắng vượt khó vươn lên trong học tập, rèn luyện thì các em sẽ trở thành con ngoan trò giỏi. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng làm được điều đó. Thực tế cho thấy, khó khăn, lúng túng nhất của các gia đình trong giáo dục con cái, đó là việc không nắm vững đặc điểm, sinh lý của trẻ, không có phương pháp giáo dục đúng đắn. Vì thế, nhiều khi việc giáo dục con cái của các gia đình đem lại kết quả không như mong muốn. Ở đây các bậc phụ huynh cần có sự tư vấn, giúp đỡ của giáo viên chủ nhiệm về phương pháp giáo dục, về đặc điểm sinh lý của học sinh THPT. Đầu năm học, GVCN tổ chức phiên họp phụ huynh học sinh. Đây là vấn đề cần thiết, là chìa khóa mở ra cánh cửa của mối liên hệ giữa Gia đình – Nhà trường và Xã hội nhằm giáo dục cho con em mình ngày càng tốt hơn. Thông qua cuộc họp này, GVCN đưa ra những giải pháp để xây dựng tập thể lớp vững mạnh, nhấn mạnh một số vấn đề như sau: Phổ biến bằng văn bản quy định về: Nội quy HS; Những thuận lợi và khó khăn của lớp; Phổ biến về nội quy của Nhà trường, của lớp. Xin ý kiến đóng góp của phụ huynh biểu quyết để thống nhất thực hiện. Thông qua các bậc phụ huynh, GVCN tìm hiểu và thu thập thêm một số thông tin về từng đối tượng HS về tính cách, sở thích, các hoạt động ở nhà của các em nhằm có cách cư xử hợp lý đối với từng cá nhân. Để có những kiến nghị thỏa đáng về tâm tư nguyện vọng của các bậc phụ huynh và ngược lại những thông tin liên lạc cần thiết từ nhà trường gửi đến phụ huynh. Bầu Ban chấp hành Hội cha mẹ học sinh của lớp gồm 3 người. bác: Trần Văn Thiết - Chi hội trưởng (Phụ hung em Trần Thi Dung) bác: Phan Thị Nguyệt - Chi hội phó (Phụ huynh em Phan Thị An) bác: Nguyễn Thị Thúy - BCH (Phụ huynh em Lê Thị Ánh Nguyệt) Thư kí ghi vào biên bản các nội dung của cuộc họp và tất cả các ý kiến đóng góp của phụ huynh. Thông qua ban đại diện Hội Cha mẹ học sinh, thông qua cam kết giữa gia đình và nhà trường, thông qua sổ liên lạc điện tử GVCN luôn cung cấp thông tin và tình hình học tập, rèn luyện của từng học sinh tới từng gia đình học sinh. Đồng thời, nhận được sự phản hồi thông tin từ phía cha mẹ học sinh để phối hợp giáo dục, đặc biệt là giáo dục học sinh vi phạm đạo đức, học sinh cá biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn. GVCN phải thật sự quan tâm phối hợp chặt chẽ với ban đại Hội Cha mẹ học sinh đặc biệt là phụ huynh của các em có học lực yếu, kém cũng như những HS cá biệt, để cùng nhau tìm ra phương pháp hiệu quả nhất, nhằm hạn chế 17 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ những tiêu cực làm sa sút về nhân phẩm, đạo đức của HS. GVCN cần quan tâm thương xuyên hoặc có thể đến nhà các em HS vi phạm nội quy HS để có thể nắm tình hình một cách chính xác nhất. 7. Thành lập diễn đàn Fecebook Trường THPT Nông Cống 3 dù là ngôi trường thuộc vùng khó khăn của huyện Nông Cống, những năm trở lại đây đa số HS cũng đã tiếp cận với công nghệ thông tin và đặc biệt là sử dụng các trang mạng xã hội. Vì thế, tôi đã nắm bắt đặc điểm này để thành lập các diễn đàn nhằm tạo ra một sân chơi lành mạnh cho HS nhằm xây dựng ý thức tập thể, tinh thần đoàn kết và cũng là nơi mà GVCN có thể hiểu được những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và đặc điểm tính cách của HS. Đây là trang mạng xã hội thu hút sự tham gia khá đông đảo của HS THPT, đa số HS đều vào fecebook như một nhu cầu thiết yếu để bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, tình cảm của mình trước những vấn đề của cuộc sống. Trang fecebook của tập thể 10B7 có 32 trên tổng số 42 thành viên tham gia. Trong đợt phòng dịch COVID -19, diễn đàn này chính là nơi để các em tham gia các môn học, bài học mà giáo viên sẽ giao nhiệm vụ trong khi HS nghỉ dịch ở nhà. Nhờ diễn đàn này mà sự tương tác giữa Giáo viên và HS được diễn ra thường xuyên. Ngoài việc học tập thì đây là nơi GVCN nắm bắt tâm tư, tình cảm của Học sinh nhanh nhất và rất hiệu quả. Ở đó, có thể tìm thấy những lời động viên của các em HS khi có bạn bị ốm, HS bị ốm nhận được rất nhiều chia sẻ của tập thể như khi em Nguyễn Thị Lý: bị đau mắt phải nằm viện điều trị, em Lê Thị Thu Hà: ngã xe bị gãy tay, các bạn học sinh trong lớp nhờ diễn đàn này để động viên các bạn: “Nhanh khỏe để đến lớp nhé”, “Bọn tớ rất nhớ cậu”, “ Cả lớp rất mong cậu về đấy”... Fecebook cũng là nơi để HS bàn luận về một vấn đề chung của tập thể, tỏ bày ý kiến, phân định đúng sai... bàn bạc để đi đến thống nhất ý kiến của các thành viên trong tập thể. Và cũng từ trang mạng này HS có thể trao đổi thông tin với nhau một cách rất nhanh chóng về mọi vấn đề liên quan đến cá nhân và tập thể HS trong lớp. Như vậy, fecebook là nơi HS có thể động viên, chia sẻ tâm tư, tình cảm, trao đổi thông tin... là cơ hộ để HS gần gũi, hiểu nhau hơn. Đồng thời, GVCN có thể nắm bắt rất nhanh chóng những vấn đề mà mình cần quan tâm về lớp chủ nhiệm, góp ý, chia sẻ, định hướng các em theo chiều hướng tiến bộ và tích cực hơn. III. Kết quả đạt được: Khảo sát tại hai lớp học, một lớp không sử dụng nội dung sáng kiến (lớp đối chứng 10B8) và một lớp có sử dụng phương pháp của sáng kiến kinh nghiệm (lớp thực nghiệm 10B7). Kết quả cụ thể: Xếp loại Tốt (Giỏi) Khá TB Yếu (HKI) SL % SL % SL % SL % 18 Sáng kiến kinh nghiệm Bùi Thị Thuỷ Lớp 10B8 H. Kiểm 27 64,29 10 23,81 5 11,9 0 0 (42HS) H. Lực 0 0 15 35,71 22 52,39 5 11,9 2.38 0 0 0 0 Lớp 10B7 H. Kiểm 41 97.62 1 (42HS) H. Lực 0 0 31 73,81 10 23.81 1 2.38 - Trong năm học: 100 % xếp loại hạnh kiểm Tốt; 100% học sinh lớp chủ nhiệm hứng thú với buổi sinh hoạt tập thể, các hoạt động phong trào. - Học tập: HS hứng thú học tập. Các tổ hoàn thành các chỉ tiêu mà tổ đã đăng ký về giờ học tốt, ngày học tốt. - Lao động, vệ sinh môi trường: Các em đã góp phần lớn vào việc bảo vệ, gìn giữ cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, tham gia lao động công ích, các công trình thanh niên như: trồng cây xanh, chăm sóc vườn hoa, xây bồn hoa… - Thực hành tiết kiệm chống lãng phí: Học sinh đã biết tắt quạt, tắt đèn điện, khóa vòi nước sau khi sử dụng. Sử dụng và phân bố thời gian hợp lý cho việc học, việc chơi, việc sinh hoạt để không lãng phí thời gian vào các trò chơi vô bổ, không tham gia các tệ nạn xã hội. - Thực hiện nội quy, nề nếp: Không có vi phạm nội quy Nhà trường, nội quy lớp học, các em lễ phép với Thầy cô, người lớn tuổi; thân ái, chia sẻ với bạn bè, người thân. Có tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách bằng những việc làm cụ thể và đầy ý nghĩa như: Mua tăm ủng hộ người mù (3 đợt): 625.000đ, quyên góp xây dựng Tượng đài Giáo viên và HS: 1.025.000đ, tham gia chương trình “Áo lụa tặng Bà” nhân dịp 22/12, phong trào “Giúp bạn vượt khó” chung tay giúp đỡ bạn nghèo tặng quà tết cho bạn nghèo: 380.000đ, tặng áo trắng đồng phục học sinh cho bạn nghèo trong lớp... 100% học sinh không bở giờ, bỏ tiết, nghỉ học vô lí do, đánh nhau trong trường; giảm tỉ lệ vi phạm Luật An toàn giao thông… - Tham gia các cuộc thi do Đoàn Thanh niên tổ chức: đạt giải Ba cuộc thi viết về Thầy cô và mái trường , giải Nhì văn nghệ chào mừng 20/11. Năm học 2019-2020 xếp thứ 5/27 lớp. Tập thể lớp được nhà trường khen thưởng danh hiệu Lớp tiên tiến, Đoàn trường khen thưởng Chi đoàn vững mạnh, nhiều cá nhân trong lớp được khen thưởng của nhà trường và Đoàn trường. GVCN nhiều năm liền được tập thể chủ nhiệm và Hội đồng thi đua công nhận GVCN giỏi. Nhìn vào kết quả đạt được cho thấy hiệu quả của cách làm là rất khả quan. Tại lớp 10B7, năm học 2019-2020 khi tôi đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm phù hợp với học sinh trong lớp, kết quả đạt được là chất lượng đạo đức và học tập của các em được nâng cao. C. KẾT LUẬN 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất