Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp giúp giáo viên tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi ngày có hiệu quả...

Tài liệu Một số biện pháp giúp giáo viên tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi ngày có hiệu quả.

.DOC
25
3348
138

Mô tả:

PHẦN I LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học tốt ở bậc Trung học cơ sở. Để thực hiện mục tiêu trên thì việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở các trường Tiểu học là cần thiết. Đặc biệt là ở các trường HS 100% là người dân tộc H.Mông, học sinh chủ yếu là tiếp thu học tập tại trường, về nhà thường không có sự quan tâm của phụ huynh tạo thời gian cho con học, ôn bài. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy và hoạt động 2 buổi/ ngày mà vẫn đảm bảo được phương châm của giáo dục Tiểu học là “ Học nhẹ nhàng- tự nhiên- hứng thú- hiệu quả” ? Dạy học 2 buổi/ ngày là phương thức bổ sung thêm thời gian cho việc học tập, hoạt động của HS ở trường. Dạy học 2 buổi/ ngày sẽ sử dụng hiệu quả thời gian tăng thêm ở trường để tổ chức các hoạt động giáo dục theo một chương trình, kế hoạch được điều chỉnh và mở rộng. HS tham gia thực hiện phương thức học cả ngày sẽ được học tập, hoạt động cả buổi sáng, buổi chiều tại trường vào các ngày trong tuần. Dạy học 2 buổi/ ngày là giải pháp tích cực để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở Tiểu học. Học 2 buổi/ ngày nhằm tăng thêm thời lượng học tập và rèn các kĩ năng cho học sinh trên một đơn vị kiến thức đồng thời có thời gian dành cho các hoạt động giáo dục tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giúp học sinh củng cố kiến thức và phát triển năng khiếu, tránh được tình trạng quá tải trong học tập, làm cho việc dạy học trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn và tránh được tình trạng dạy thêm, học thêm ở Tiểu học. Trước yêu cầu trên, thầy, cô, những người làm công tác sư phạm phải hiểu và phải tìm kiếm những giải pháp giáo dục sao cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của các em thông qua các hoạt động vừa học- vừa chơi trong ngày do nhà trường tổ 1 chức. Đó chính là sự trăn trở không chỉ của các thầy, cô mà còn là của các nhà quản lý ngành giáo dục, của các bậc phụ huynh và của cả xã hội. Vậy làm thế nào để tổ chức dạy- học 2 buổi/ ngày có hiệu quả Để trả lời được câu hỏi trên tôi đã chọn nghiên cứu "Một số biện pháp giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả”. PHẦN II PHẠM VI VÀ THỜI GIAN ÁP DỤNG Phạm vi áp dụng : Giáo viên, học sinh tại trường tiểu học Bản Phố - Bắc Hà . Thời gian áp dụng:Kinh nghiệm được áp dụng thực hiện trong năm học 2013- 2014 PHẦN III THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC2 BUỔI /NGÀY TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC BẢN PHỐ 1.Thuận lợi: 1.1. Giáo viên. - 100% đội ngũ giáo viên của nhà trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn và đều được tham gia bồi dưỡng hè có nội dung về dạy học 2 buổi/ ngày. - Phần đa giáo viên nhiệt tình, có kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học có hiệu quả. 1.2. Cơ sở vật chất. - Cơ sở vật chất, điều kiện dạy học, đồ dùng trang thiết bị được cấp trên đầu tư, hỗ trợ tương đối đầy đủ nên việc dạy học của thầy và trò diễn ra khá thuận lợi. 1.3. Học sinh. - Đa số các em học sinh ngoan, ham học và biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập. Các em được trang bị tương đối đầy đủ sách vở và đồ dùng phục vụ học tập. 2. Khó khăn: 2.1. Giáo viên. 2 - Một số giáo viên còn lúng túng, chưa tự tin với việc lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập cho từng đối tượng học sinh ở buổi 2. - Thời gian giành cho việc soạn bài, nghiên cứu của giáo viên ở buổi 2 còn ít; không có tiết thiết kế, bài soạn sẵn cho từng tiết, giáo viên phải căn cứ vào đối tượng HS để lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp. - Một số giáo viên chưa có sự đầu tư cho việc soạn giảng buổi 2; lựa chọn nội dung đơn điệu, chưa phong phú các dạng bài tập, chưa thể hiện sự phân hóa học sinh theo vành đai chất lượng. - Hình thức dạy buổi 2 nghèo nàn, chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú cho học sinh. - Còn một số GV chưa coi trọng việc dạy buổi 2, xem dạy buổi 2 như là giờ làm bài tập của học sinh và học sinh giải quyết hết bài tập đó là hết nhiệm vụ của tiết học. Còn trong tiết đó, có bao nhiêu học sinh cần rèn kiến thức, kĩ năng? Cần rèn đến đâu? Các em có hứng thú học không? Có nhu cầu học hay không thì giáo viên ít chú ý đến vì thế chưa giúp được học sinh yếu rèn kiến thức, kĩ năng cũng như phát triển được năng lực cho học sinh khá giỏi. Vì vậy chất lượng dạy học buổi 2 chưa được theo mong muốn. 2.2. Học sinh. - Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh như: (Giỏi, khá,TB, yếu, khuyết tật, cá biệt...) nên GV gặp nhiều khó khăn khi thiết kế bài dạy và lúng túng khi dạy học theo đối tượng. - Một số HS yếu, ngại học, chóng chán, ỉ lại. - Một bộ phận không ít phụ huynh học sinh chưa quan tâm tới việc học của con em mình, không cho con đi học buổi 2 ở nhà trông em, đi làm nương, cắt cỏ ngựa …vv 2.3. Cơ sở vật chất. - Chưa có phòng đa chức năng nên việc tổ chức các hoạt động tập thể cũng gặp nhiều khó khăn. 3 - Tài liệu tham khảo còn ít, còn thiếu các phương tiện nghe, nhìn… Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm giúp giáo viên Tiểu học tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày có hiệu quả hơn. PHẦN IV NHỮNG BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ÁP DỤNG Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và phụ huynh. Tuyên truyền cho đội ngũ giáo viên có nhận thức đúng đắn về việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày thông qua nói chuyện, sinh hoạt chuyên môn, qua hội đồng giáo dục, qua dự giờ đồng nghiệp để họ thấy được tầm quan trọng của việc tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày sẽ góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà trường. Phân tích cho giáo viên hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa của việc dạy 2 buổi/ ngày để từ đó định hướng cho mình trong công tác chuẩn bị và thiết kế bài dạy phù hợp. Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa, các phong trào thi đua của nhà trường để tuyên truyền cho các bậc phụ huynh thấy được tầm quan trọng của dạy học 2 buổi/ ngày và sự phối kết hợp của phụ huynh trong công tác giáo dục của nhà trường là rất quan trọng. Biện pháp 2: Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp và phân loại đối tượng học sinh. a) Xác định số tiết tăng thêm cho các môn, các khối lớp. Trên cơ sở số tiết quy định theo QĐ16/2016 của Bộ GD&ĐT, theo yêu cầu của chuẩn KTKN cho từng môn học, dựa vào hướng dẫn của ngành và các yêu cầu cụ thể, các kĩ năng cần giáo dục cho học sinh, lấy ý kiến từ tổ chuyên môn, Hội đồng chuyên môn để thống nhất thời lượng các tiết cần tăng thêm ở các môn học đảm bảo 35 tiết/ tuần trong đó bao gồm (Các tiết cần tăng thêm về các môn Toán, Tiếng Việt… các môn tự chọn Ngoại ngữ, Tin, Rèn kĩ năng sống; Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ…). 4 Trên cơ sở định lượng số tiết tăng thêm đó, chỉ đạo các tổ khối chuyên môn chủ động lập kế hoạch vừa đảm bảo nội dung cần rèn luyện, vừa đảm bảo lượng thời gian quy định và phù hợp với đặc thù riêng của từng lớp. Thời lượng dạy theo phân loại đối tượng học sinh được bố trí hợp lý theo từng khối lớp: Khối lớp 1,2 dành 2 tiết riêng cho bồi dưỡng các môn năng khiếu, tự chọn và phụ đạo cho học sinh yếu. Khối 3,4,5 bố trí thời khóa biểu cho phân hóa đối tượng vào 2 tiết tăng buổi của Toán và Tiếng Việt. b) Rà soát và phân loại đối tượng học sinh. - Mỗi lớp học đều có nhiều đối tượng học sinh. Muốn dạy đến từng học sinh và dạy theo nhu cầu người học một cách hợp lý thì việc đầu tiên phải tìm hiểu và phân loại được đối tượng học sinh. Đây là việc làm rất quan trọng vì khi phân loại được học sinh của lớp, giáo viên mới hình dung ra nhóm học sinh nào cần gì để giáo viên để giáo viên có định hướng và kế hoạch phù hợp. + Kết hợp với kết quả của năm học trước và chất lượng khảo sát đầu năm học để giáo viên phân loại học sinh theo từng đối tượng: Yếu, trung bình, khá giỏi. + Tìm hiểu năng lực sở trường của HS qua giao tiếp, qua các hoạt động … Biện pháp 3: Lập thời khóa biểu phù hợp và định hướng nội dung giảng dạy cho số tiết tăng thêm. * Thời khóa biểu: Xây dựng thời khóa biểu cụ thể đến từng giáo viên và từng lớp, từng đối tượng học sinh trên cơ sở thời khóa biểu đó giáo viên xây dựng kế hoạch giảng dạy cho cá nhân mình theo tuần, tháng và học kì. + Thời khóa biểu chính gồm phần cứng cho toàn bộ các lớp, đây là thời khóa biểu được định lượng hóa cho các tiết học chính khóa và một số tiết tăng buổi tự chọn cố định. + Thời khóa biểu được mềm hóa, đây là thời khóa biểu được sắp xếp luân chuyển theo từng tháng. VD:1 tuần có 1 tiết Tiếng Việt và 1 tiết Toán có thể thay thế luân chuyển cho nhau tùy theo lượng kiến thức bài học cần rèn luyện bổ sung trong tuần. 5 + Hai tuần có 1 buổi năng khiếu tự chọn cho khối 1,2 ( gồm: Âm nhạc, Mĩ thuật, Tiếng Anh). Một tháng có một buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo khối. *Định hướng nội dung giảng dạy: Chương trình dạy chính khóa được dạy phân bố thành bài, đan xen trong suốt chương trình, không tường minh thành dạng cụ thể. Vì thế, nhà trường kết hợp với tổ khối chuyên môn tiến hành nghiên cứu kiến thức theo từng khối lớp và phân định kiến thức chính khóa thành các phần trọng tâm. Từ đó định ra các mảng, dạng tăng buổi cho từng nhóm đối tượng học sinh trong từng khối cụ thể như sau: * Các môn Toán và Tiếng Việt: + Khối 1-2: Tập trung vào lượng kiến thức trong tuần, hệ thống bổ sung kiến thức học sinh còn gặp khó khăn. Yêu cầu giáo viên dạy chắc kiến thức cơ bản, chú trọng đến đối tượng học sinh yếu sao cho học sinh đọc thông, viết thạo, biết tính toán trong phạm vi 100. Chú ý đến rèn chữ viết cho học sinh. + Khối 3: Đây là lớp thu nhận kiến thức bản lề của toàn cấp học. Yêu cầu giáo viên dạy kĩ các kiến thức trọng tâm để các em thuận lợi trong việc tiếp thu kiến thức ở lớp trên. Dù kiến thức ở lớp 3 chưa tường mình thành dạng như lớp 4,5 nhưng đã xuất hiện. Bởi vậy, yêu cầu giáo viên phải nắm được chương trình toàn cấp học để xác định được điểm dừng của chương trình và cung cấp các mảng kiến thức phù hợp cho từng loại đối tượng. Chú ý hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh. + Khối 4,5; Dạy theo các mảng đã học nhưng phát triển theo hình thức chuyên sâu và mở rộng cùng với việc bổ sung một số kiến thức mới. Chú ý cách rèn phương pháp tự học và nghiên cứu tài liệu - Đối với học sinh chưa đạt chuẩn ( còn yếu, kém) cần tập trung vào chuẩn kiến thức và kĩ năng cơ bản; giải quyết những kiến thức cơ bản mà học sinh chưa nắm vững, hay nhầm lẫn, hay quên; phân công bố trí giáo viên kèm cặp thêm và tổ chức một số sân chơi riêng. 6 - Đối với đội tuyển học sinh giỏi, đội tuyển giáo lưu: Được dạy lồng ghép trong các buổi phân hóa đối tượng; Ở các tiết này, các em được giao việc riêng và được hệ thống, tổng hợp kiến thức vào 2 buổi/ tháng theo lịch bồi dưỡng đội tuyển. - Hoạt động ngoài giờ lên lớp: Căn cứ vào chủ đề năm học, chủ đề từng tháng, các nội dung giáo dục lồng ghép ( Giáo dục môi trường, giáo dục Quyền và bổn phận trẻ em, giáo dục An toàn giao thông, giáo dục kĩ năng sống…) và tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp do Bộ GD&ĐT biên soạn, giáo viên lựa chọn những nội dung phù hợp chủ đề để tổ chức HĐNGLL cho học sinh ( Hoạt động thư viện, trò chơi dân gian, hát, múa, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch, vẽ tranh, thể dục thể thao; Tổ chức các ngày Hội; Hoạt động kỉ niệm các ngày lễ lớn; Hoạt động tham quan du lịch; Hoạt động nhân đạo; Hoạt động giao lưu; Hoạt động môi trường; Hoạt động Đội, Sao; Hoạt động câu lạc bộ,…). Lựa chọn hình thức tổ chức các hoạt động phong phú và sự tham gia tích cực của học sinh. - Đối với việc rèn kĩ năng sống: Tập trung rèn kĩ năng sống cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, lồng ghép trong các môn học và mọi hoạt động của nhà trường. Các kĩ năng cơ bản cần được quan tâm như cách cầm thìa, cầm đũa, cách mời người thân khi ăn; vệ sinh cá nhân, cách chào hỏi bạn bè, thầy cô… kĩ năng tự chăm sóc bản thân, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau, kĩ năng giao tiếp, ứng xử các tình huống hàng ngày, ý thức xây dựng đoàn kết tập thể, vệ sinh sức khỏe, ăn uống. Biện pháp 4: Lựa chọn, phân công, bố trí giáo viên. Để tạo sự công bằng trong định mức lao động cho giáo và phân công cụ thể công việc cho từng nhóm giáo viên, ngoài việc phân công theo chuyên môn còn phải dựa vào năng lực, sở trường của từng người để phân giáo viên theo các nhóm. + Nhóm dạy học sinh giỏi: Là những giáo viên dạy được toàn cấp, có kinh nghiệm trong giảng dạy, năng lực chuyên môn vững chắc, có khả năng hệ thống hóa các mạch kiến thức, có ý thức học hỏi và tìm tòi trong chuyên môn… + Nhóm phụ đạo học sinh yếu: Là những giáo viên chịu khó, nhẹ nhàng, gần gũi và yêu thương học sinh, hiểu biết tâm lý độ tuổi, dễ thông cảm sẻ chia, kiên trì rèn luyện và giáo dục học sinh… 7 + Nhóm tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Là những giáo viên có năng lực tổ chức các hoạt động, sự kiện; vui vẻ, cởi mở, hòa đồng, có năng khiếu hát, múa, hiểu biết về vấn đề xã hội… ( Gồm: Tổng phụ trách, giáo viên âm nhạc, cán bộ y tế học đường và một giáo viên dạy văn hóa có năng lực tổ chức các hoạt động tập thể). + Nhóm dạy các môn tự chọn: Gồm giáo viên Tiếng Anh. + Nhóm dạy các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, bồi dưỡng học sinh: Gồm BGH nhà trường và Hội đồng chuyên môn. Biện pháp 5: Nhân rộng tiên tiến điển hình Đây là giải pháp có hiệu quả, giải pháp này sẽ phát huy tinh thần tương trợ và tính tự giác của mỗi giáo viên trong công tác dạy học 2 buổi/ ngày. Chỉ đạo, xây dựng và tổ chức các chuyên đề dạy học buổi thứ 2 các môn học, ở các khối lớp. Giao trách nhiệm cho lực lượng nòng cốt để giúp đỡ đồng nghiệp như dạy mẫu, dự giờ, rút kinh nghiệm... phát hiện những thiếu sót để bổ sung kịp thời. Biện pháp 6: Đa dạng hóa các phương pháp và hình thức dạy học Trong dạy học không có phương pháp nào là vạn năng, không có hình thức dạy học nào là tối ưu cả. Vì vậy chúng ta phải biết phối hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách linh hoạt để phát huy tốt vai trò chủ động, sáng tạo của học sinh. Nếu hình thức dạy học đơn điệu, nghèo nàn, học sinh sẽ rất ngại học, chán học. Bởi thế, bên cạnh việc chủ động chọn nội dung, thời lượng thích hợp thì giáo viên quan tâm đến việc làm phong phú các hình thức dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh để phát huy tốt nhất vai trò chủ động, sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn của học sinh. Chẳng hạn trong tiết dạy giáo viên có thể đan xen giữa hình thức học tập cá nhân, học nhóm, học cả lớp, góc khám phá; thay đổi các dạng bài tập trắc nghiệm, tự luận, câu đố, xen kẽ giữa việc dùng đồ dùng học tập như bảng con, phiếu bài tập, vở ô ly,…Cụ thể có 1 số tiết trên lớp, một số tiết học ngoài thiên nhiên hay qua sân chơi trí tuệ, qua các cuộc thi,…Thế nhưng dù ở hình thức nào, phương pháp nào cũng cần đảm bảo các yêu cầu sau: 8 + Không ảnh hưởng đến thời lượng của tiết học. + Tạo niềm tin, ổn định tâm lý, tạo tâm thế, nhu cầu học cho học sinh. + Cách thức dạy học kết hợp với nghệ thuật chủ nhiệm phù hợp với tính cách, năng lực, đặc điểm tâm lý, hoàn cảnh từng học sinh để mọi học sinh đều thích học. Vị dụ: Luyện Tiếng Việt ( Lớp 3) Bài: Ôn về các kiểu câu, nhân hóa, dấu phẩy. I. Mục tiêu. - Học sinh cả lớp: + Củng cố hiểu biết về các kiểu câu Ai- làm gì? Ai- là gì? Ai- thế nào? ( Thông qua các mô hình) và thành phần câu ( Thông qua các câu hỏi). + Củng cố hiểu biết về nhân hóa và rèn luyện kĩ năng sử dụng biện pháp nhân hóa. + Ôn luyện về dấu phẩy. - Học sinh khá giỏi: Ngoài những yêu cầu chung, học sinh khá giỏi tổng hợp được nhiều kiến thức, kỹ năng trong một đơn vị và luyện khả năng tưởng tượng, liên tưởng, phản ứng nhanh. II. Chuẩn bị: - Học sinh: Bảng con, phấn, … - Giáo viên: Hoa điểm 10, 3 bảng nhóm. III. Các hoạt động dạy học: * Hoạt động 1: Học sinh làm bài cá nhân - Giáo viên gắn bảng phụ đã ghi bài 1 lên bảng. Bài 1: Gạch 1 gạch dưới bộ phận trả lời câu hỏi Ai; Gạch 2 gạch dưới bộ phận trả lời câu hỏi “ là gì?”, “ làm gì?”, “ thế nào?”. a) Mẹ là ngọn gió của con suốt đời. b) Khi được chăm sóc chu đáo, chị hồng nhung rất xinh tươi. c) Suốt ba tháng hè, bác trống ngủ khì trên giá. - Học sinh tự làm bài vào vở ô ly. 9 - Giáo viên chấm 1 số bài. - Chữa bài: Cho học sinh chia sẻ để khắc sâu kiến thức. Chẳng hạn: H. Từng câu trên thuộc mẫu câu nào bạn đã học? H. Trong 3 câu trên, câu nào sử dụng biện pháp nhân hóa? Câu nào sử dụng biện pháp so sánh? Vì sao bạn biết?... H. Tại sao phải sử dụng biện pháp nhân hóa, so sánh? H. Để người đọc, người nghe hiểu ý thì khi viết, khi nói bạn cần chú ý gì? * Hoạt động 2: Trò chơi “ Ai tài nhân hóa” Bước 1: Yêu cầu một học sinh có năng khiếu văn nghệ của lớp hát một bài trong đó có các con vật được nhân hóa ( VD: Chị ong nâu và em bé). Bước 2: Học sinh nêu tên con vật được nhân hóa trong lời bài hát? Nêu từ ngữ thể hiện sự nhân hóa . Bước 3: Chơi “ Ai tài nhân hóa” – Nhóm + Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. Các nhóm thi đua với nhau. + Giáo viên nêu tên trò chơi và luật chơi. + Giáo viên nêu 1 từ chỉ đối tượng nhân hóa như: cây lúa, cây tre, mây, con cá, mầm cây…Từng nhóm thảo luận nhanh, đưa ra 1 cụm từ hoặc 1 câu có cách nhân hóa đúng. + Giáo viên lần lượt ghi điểm qua các lượt thi. + Nâng cao mức độ phân hóa học sinh: Mức 1: Yêu cầu học sinh nói câu có đối tượng được nhân hóa nhưng hạn chế 1 trong 3 cách nhân hóa theo lệnh của trò chơi. Mức 2: Yêu cầu học sinh nói nhanh câu có dùng biện pháp nhân hóa câu đó có mẫu: Ai- làm gì? + Tổng kết trò chơi. *Hoạt động 3: Thi điền dấu câu Bài 3: Điền dấu phẩy vào vị trí thích hợp trong câu sau: a) Bé Lan múa hát rất hay. b) Trước cổng trường cờ khẩu hiệu đã được căng lên. 10 c) Gió lớn làm những chị lúa ấp mình vào nhau e thẹn. - Học sinh làm bài cá nhân vào vở. - Chọn học sinh trung bình, yếu nêu kết quả- chữa bài, đổi vở kiểm tra chéo. - Chia sẻ: H. Tại sao bạn điền dấu phẩy ở vị trí đó? H. Khi đọc gặp dấu phẩy bạn cần lưu ý gì? - Cho học sinh đọc lại các câu văn đã được điền dấu . - Yêu cầu cao hơn: Đọc câu có hình ảnh nhân hóa trong bài tập 3. * Củng cố: Trò chơi “ Ai nhanh, ai đúng” - Nói câu theo mẫu Ai- thế nào? Có dùng hình ảnh nhân hóa và sử dụng dấu phẩy? Biện pháp 7: Giúp giáo viên lựa chọn nội dung buổi 2 phù hợp với đối tượng học sinh và dạy phân hóa theo đối tượng. a) Lựa chọn nội dung kiến thức cho phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh. Việc lựa chọn nội dung kiến thức cho từng tiết dạy ở buổi 2 là một công việc hết sức quan trọng và có ý nghĩa nhằm giúp giáo viên có định hướng trong quá trình giảng dạy (Tùy vào điều kiện và trình độ của học sinh lớp mình mà giáo viên cần linh hoạt vận dụng đưa nội dung kiến thức vào trong từng tiết học cho phù hợp). Việc lựa chọn nội dung phải dựa trên nhu cầu của người học. Các nội dung đưa ra cho học sinh phải gắn với nhiệm vụ học tập tương ứng để đạt được mục tiêu của tiết học. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy học thì hệ thống các bài tập phải được lựa chọn sao cho đa dạng và phong phú về nội dung, phải mang tính vừa sức và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Khi lựa chọn nội dung cho dạy buổi 2 phải căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt của từng bài, từng phần và khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh ở buổi 1. Xem các em đã tiếp thu kiến thức ở mức độ nào? Những gì đã đạt được so 11 với chuẩn và những gì cần bồi dưỡng thêm? Nắm bắt được những vấn đề đó thì giáo viên sẽ biết mình cần lựa chọn nội dung gì cho học buổi 2. Cụ thể: + Đối với học sinh yếu: Đây là học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản hay nói cách khác là các em chưa nắm được kiến thức theo chuẩn KTKN cần đạt. Với những học sinh này thì giáo viên cần chú ý hơn và hướng dẫn các em bằng những lời động viên, đưa ra hệ thống bài tập nhằm củng cố kiến thức cơ bản và câu hỏi gợi mở để các em nắm được chuẩn KTKN cần đạt. Giáo viên không ra thêm kiến thức mới cho các em. + Đối với học sinh trung bình: Qua tiết học chính khóa cơ bản các em đã nắm được nội dung kiến thức và biết vận dụng để làm các bài tập song các em cũng chỉ mới dừng lại ở tính rập khuôn, máy móc chứ chưa thành thạo và có kĩ năng làm bài. Với những học sinh này giáo viên cần đưa ra những nội dung kiến thức mang tính củng cố để hình thành kĩ năng vận dụng cho các em. + Đối với học sinh khá, giỏi: Đây là những học sinh có khả năng tiếp thu bài nhanh, sau tiết học chính khóa các em đã có kĩ năng vận dụng tốt kiến thức vào làm các bài tập. Chính vì thế ở tiết học buổi 2 ngoài việc rèn kĩ năng vận dụng kiến thức để làm bài tập thì cần tạo điều kiện để các em được phát triển năng khiếu của mình. Khi đưa ra nội dung kiến thức cho học sinh khá, giỏi phải dựa vào kiến thức cơ bản và nâng dần lên tùy vào mức độ nhận thức và tư duy của học sinh. Tránh quá khó gây sự nhàm chán của học sinh khi làm bài. b) Dạy học phân hóa đối tượng học sinh theo vành đai chất lượng. Với thời lượng số tiết tăng thêm không nhiều trong khi nội dung giáo dục Tiểu học đòi hỏi toàn diện, đổi mới phương pháp, yêu cầu phải dạy sát đối tượng. Để đảm bảo những vấn đề này giáo viên cần dạy phân hóa đối tượng song song hai hình thức: + Dạy phân hóa lồng ghép trong các tiết cơ bản. Với hình thức này, yêu cầu giáo viên phải đảm bảo 100% số học sinh nắm được nội dung bài theo chuẩn và có 12 hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh khá giỏi, học sinh năng khiếu có cơ hội phát triển tư duy; học sinh yếu được luyện tập và củng cố kiến thức. + Dạy phân hóa theo các nhóm riêng biệt cho từng loại đối tượng, được tổ chức dưới dạng câu lạc bộ ( Câu lạc bộ Toán, Tiếng Việt, Âm nhạc, Ngoại ngữ…). Đối với các tiết học buổi 2 là chương trình thuộc phần mềm nên giáo viên có thể tham khảo và xây dựng cho mình kế hoạch bài giảng theo quy trình sau: * Mục tiêu: ( Cần nêu rõ từng đối tượng) * Đồ dùng dạy học. * Các hoạt động dạy học. - Hoạt động 1: Củng cố kiến thức ( Ôn kiến thức cần luyện) - Hoạt động 2: Luyện kĩ năng và phát triển tư duy ( Thực hành luyện tập) ( Hệ thống bài tập đưa ra phải theo từng đối tượng và trình độ nhận thức của HS) - Hoạt động 3: Củng cố, dặn dò. Ví dụ về một tiết dạy học buổi 2: Luyện tập về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5 ( Toán lớp 4) I. Mục tiêu: * Đối với học sinh yếu:- Biết dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Biết kết hợp dấu hiệu chia hết cho 2 và 5. * Đối với học sinh trung bình.- Biết dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Biết kết hợp dấu hiệu chia hết cho 2 và 5.- Luyện kĩ năng làm bài. * Đối với học sinh khá, giỏi: Ngoài những mục tiêu như học sinh trung bình còn yêu cầu cao hơn đó là: Vận dụng kiến thức về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5 để làm dạng toán tìm một số khi chia cho 2 và 5 có dư. II. Chuẩn bị: - Học sinh: Bảng con, phấn, dẻ lau - Giáo viên: Bảng phụ 13 III. Các hoạt động dạy học: 1. Hoạt động 1: Củng cố kiến thức ( 5 – 7 phút) - Những số chia hết cho 2 là những số nào? Lấy ví dụ. - Những số chia hết cho 5 là những số nào? Lấy ví dụ. - Em có nhận xét gì về số vừa chia hết cho 2, vừa chia hết cho 5. - Giáo viên chốt lại kiến thức ôn. 2. Hoạt động 2: Luyện kỹ năng và phát triển tư duy Chia lớp thành các nhóm đối tượng: Học sinh yếu, trung bình, khá giỏi. * Đối với học sinh yếu: Củng cố lại kiến thức cơ bản của tiết chính khóa. Bài 1. Cho các số sau: 125; 678; 645; 1254; 1780; 1426; 575; 2170 a) Những số nào chia hết cho 2? b) Những số nào chia hết cho 5? c) Những số nào vừa chia hết cho cả 2 và 5? + Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: Đố bạn ( Một bạn nêu câu hỏi, một bạn trả lời). + Cho học sinh chia sẻ để khắc sâu cách nhận biết về dấu hiệu chia hết cho 2 và 5. * Đối với học sinh trung bình: Luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào làm bài tập. Ngoài bài tập của học sinh yếu thì làm thêm bài tập sau: Bài 2: Với bốn chữ số 2; 4; 5; 0 hãy viết tất cả các số có 4 chữ số vừa chia hết cho 2 và 5. + Tổ chức cho học sinh hoạt động theo hình thức cá nhân, sau khi học sinh hoàn thành bài tập thì chuyển sang hình thức thi đua xem ai viết nhanh và đúng nhất. + Chốt kiến thức. + Lưu ý: Đối với những dạng bài mang tính củng cố kiến thức giáo viên nên gọi những học sinh trung bình và học sinh yếu trình bày. 14 * Đối với học sinh khá, giỏi: Ngoài việc luyện kĩ năng thì giúp học sinh phát triển năng lực tư duy. Vì vậy ngoài các bài tập như học sinh trung bình thì giáo viên đưa thêm bài tập sau: Bài tập 3: Tìm số lớn nhất có 2 chữ số mà khi chia cho 2 và 5 đều dư 1. + Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 2 ( Hoặc hoạt động góc khám phá) + Các nhóm trình bày kết quả + Cho học sinh chia sẻ để rút ra quy tắc chung khi gặp dạng toán này. Ngoài ra ta có thể tổ chức dưới dạng phương pháp góc, sau khi thực hiện các yêu cầu của học sinh cả lớp, học sinh khá giỏi sẽ vào góc khám phá để thực hiện bài tập với yêu cầu cao hơn, nhằm phát triển năng lực tư duy đồng thời tận dụng được tối đa thời gian dôi dư của học sinh khá giỏi, vì khi các em thực hiện các yêu cầu của học sinh cả lớp sẽ hết ít thời gian hơn các em học sinh trung bình. 3. Hoạt động 3: Củng cố , dặn dò. - Hệ thống lại kiến thức vừa luyện - Nhận xét đánh giá tiết học. Đây là một trong những tiết dạy rất thực tế và thường xuyên trong chương trình dạy học buổi 2; vì chỉ cần nắm chắc trình độ của từng đối tượng học sinh và giáo viên chịu khó nghiên cứu, tìm tòi để lựa chọn nội dung kiến thức phù hợp với từng đối tượng học sinh thì sẽ đem lại hiệu quả cho tiết học. Biện pháp 8. Mạnh dạn điều chỉnh thời lượng, kết hợp đan xen các tiết học một cách hợp lý, tích hợp các kiến thức ở các lĩnh vực qua sân chơi trí tuệ cho học sinh. Ngoài những tiết ôn luyện kiến thức trên lớp thì việc tổ chức các sân chơi trí tuệ cho học sinh cũng vô cùng quan trọng bởi lúc đó các em được ôn kiến thức, được luyện kĩ năng, được phát triển toàn diện trong không khí thi đua sôi nổi, vui tươi, lành mạnh. Để làm được điều đó thì giáo viên cần xây dựng tốt các tiết hoạt động tập thể nhằm đảm bảo mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. Giáo viên có 15 thể đan xen các tiết vào nhau, xâu chuỗi các tiết tạo thành một buổi sinh hoạt câu lạc bộ ( Câu lạc bộ toán học, câu lạc bộ âm nhạc, câu lạc bộ mĩ thuật…), một buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, một sân chơi trí tuệ cho học sinh như các cuộc thi: Rung chuông vàng, nhà sử học nhỏ tuổi… Ví dụ: Cuộc thi “ Rung chuông vàng”- Dành cho học sinh khối 5. I. Mục tiêu: - Thực hiện yêu cầu giáo dục toàn diện cho học sinh. - Tạo không khí thi đua học tập qua đó kiểm tra đánh giá kết quả cũng như khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh ở các môn học. II. Chuẩn bị: - Học sinh: Bảng con, phấn, dẻ lau. - Giáo viên: Còi, chuông, bảng phụ. III. Thành phần - Học sinh trong lớp - Giáo viên chủ nhiệm. IV. Tiến hành: - Giáo viên đưa từng câu hỏi xen kẽ các lĩnh vực khác nhau đã chuẩn bị trong giáo án trình chiếu. - Học sinh ghi đáp án vào bảng con. Chẳng hạn: Câu hỏi môn Toán: Câu 1: Có bao nhiêu gam trong 2,7 tấn? Câu 2: 3% của 6m là? Câu 3: Số lớn nhất có 2 chữ số chia hết ch 5 là số nào? Câu 4: Hình vuông có diện tích 36cm2 thì có chu vi là bao nhiêu? Câu 5: Trong cùng một năm, ngày 8 tháng 3 là thứ 5 thì ngày 2 tháng 4 là thứ mấy? 16 Câu 6: Bán kính hình tròn tăng thêm 0,5 thì diện tích hình tròn như thế nào? Câu 7: Tích sau có tận cùng là chữ số mấy? 7 x 17 x 27 x 37 x …x 87 x 97 Câu hỏi môn Tiếng Việt: Câu 1: Có mấy kiểu câu em đã được học? Câu 2: Tìm 2 từ đồng nghĩa với từ bất diệt? Câu 3: Từ lời khuyên thuộc từ loại gì? Câu 4: Nêu 2 cặp từ chỉ quan hệ nguyên nhân- kết quả? Câu 5. Chủ ngữ trong câu “ Đằng sau những câu đơn giản là ý nghĩ đơn giản.” là từ gì? A. Đằng sau B. Đằng sau những câu đơn giản C. Những câu đơn giản Câu 6: Từ nào sau đây cùng nghĩa với từ phức tạp? A. đơn giản B. đơn sơ C. đơn cử Câu 7: Trong một bài văn có mấy cách mở bài? Câu hỏi về các môn khác: Câu 1: Sống ở đồng bằng Nam Bộ chủ yếu là dân tộc nào? A. Kinh, Thái, Khơ- me, Hoa. B. Kinh, Khơ- me, Mông, Hoa. C. Kinh, Khơ- me, Chăm, Hoa. Câu 2: Vị vua cuối cùng của triều đình nhà Lý là ai? Câu 3: Chiến thắng trên sông Bạch Đằng do ai lãnh đạo? 17 Câu 4: Ải Chi Lăng ở tỉnh nào của nước ta? Câu 5: Các loại cây cho củ cần chất khoáng nào nhiều hơn? Câu 6: Trong hoạt động hô hấp của con người, chất khí nào được thấm vào máu ở phổi đi nuôi cơ thể? Biện pháp 9: Đánh giá học sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng và theo năng lực. Khâu đánh giá và ghi nhận kết quả của học sinh cũng rất quan trọng. Dù học ở buổi nào thì việc đánh giá không những ghi nhận được kết quả học tập của học sinh mà còn phải tạo ra động lực giúp các em cố gắng vươn lên, tránh đánh giá máy móc làm học sinh tự ti, mặc cảm. Đặc biệt ở dạy buổi 2 khi mà vấn đề dạy học phân hóa càng rõ nét thì việc đánh giá học sinh cũng cần lựa chọn từng nội dung, từng hình thức đánh giá theo năng lực từng em, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của học sinh, đề cao quyền đánh giá lẫn nhau của học sinh. Với học sinh yếu cần đánh giá việc nắm chuẩn kiến thức cần đạt. Với học sinh trung bình thì ngoài việc nắm vững chuẩn kiến thức cần đánh giá thêm về kĩ năng làm bài của các em. Với học sinh khá giỏi, ngoài việc đánh giá những yêu cầu như học sinh trung bình cần đánh giá thêm ở khả năng tư duy, sáng tạo. Nghĩa là, khi đánh giá học sinh giáo viên cần quan tâm đến sự tiến bộ và đối tượng học sinh, không đánh giá ngang bằng, đại trà; việc đánh giá phải tế nhị, khéo léo thì mới có hiệu quả. Biện pháp 10: Phối hợp với các lực lượng giáo dục. a) Phối hợp sự hợp tác của đồng nghiệp. Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, nội dung không thể thiếu là thảo luận bài mới, bài khó dạy của tuần học sau; góp ý bổ sung cho nhau để lựa chọn những nội dung dạy buổi 2 chất lượng hơn ( Tuy nhiên phải phù hợp với đối tượng học sinh của từng lớp). b) Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội, sao.. Mỗi tiết học có hiệu quả hơn nếu nền nếp lớp học tốt. Bởi vậy cần phối hợp với ban thi đua để chấm điểm nề nếp và trao đổi về các hoạt động ngoài giờ phù 18 hợp, chẳng hạn, có thể dành 15 phút truy bài đầu giờ để tổ chức các hoạt động như: Đến giao lưu cùng các lớp bằng một số câu Tiếng Anh đơn giản trong giao tiếp hàng ngày hoặc kiểm tra bảng cửu chương, kĩ năng đọc, kĩ năng tính toán … như vậy, chỉ với 15 phút truy bài các em được rèn rất nhiều các kĩ năng nhờ vào các anh chị phụ trách sao. c) Phối hợp với cha mẹ học sinh. Mời cha mẹ học sinh tham dự một số tiết học, một số tiết sinh hoạt để nắm bắt, lắng nghe, trao đổi, bàn bạc các biện pháp giáo dục qua thông tin hai chiều nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Ghi nhật kí chủ nhiệm hàng ngày để nắm bắt những học sinh có tiến bộ và chưa có tiến bộ, trao đổi kịp thời với phụ huynh để có biện pháp phát triển những ưu điểm và tháo gỡ những hạn chế. Biện pháp 11: Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm là việc làm không thể thiếu trong chỉ đạo và quản lý nhà trường. Với quản lý- chỉ đạo dạy học 2 buổi/ ngày, việc kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm lại càng phải được quan tâm và đòi hỏi CBQL phải có năng lực chuyên môn sâu để cùng với giáo viên nghiên cứu, tổ chức thực hiện, cập nhật được chương trình nội dung giảng dạy. Từ đó để có hướng chỉ đạo việc đánh giá, rút kinh nghiệm hàng tuần, hàng tháng một cách thiết thực, kịp thời và điều chỉnh nội dung, phương pháp và có kế hoạch chỉ đạo phù hợp cho những tháng tiếp theo. Kiểm tra thường xuyên giáo án, chất lượng giờ dạy, tích lũy chuyên môn nghiệp vụ để bổ trợ cho việc học tăng buổi và kiểm tra chất lượng học sinh để lấy cơ sở đánh giá xếp loại giáo viên và học sinh. Sau mỗi đợt kiểm tra phải phân tích và chỉ ra những ưu điểm mà giáo viên đã đạt được; đồng thời điều chỉnh kịp thời những vướng mắc cho giáo viên; có đánh giá, xếp loại theo tháng. 19 Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những giáo viên, học sinh tích cực trong công tác dạy và học 2 buổi / ngày. Nêu gương những phụ huynh tích cực phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm, với nhà trường trong công tác giáo dục. PHẦN V KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Sau khi áp dụng các biện pháp vào thực tế dạy học 2 buổi/ ngày của nhà trường, tôi thấy chất lượng dạy và học được nâng lên rõ nét cụ thể là: * Đối với giáo viên: Giáo viên hiểu rõ hơn mục đích và ý nghĩa của dạy học 2 buổi/ ngày; Khi giáo viên được phân công nhiệm vụ phù hợp với khả năng, được tạo điều kiện để phát huy được năng lực của bản thân, có thời gian nghiên cứu sâu bài dạy, biết cách xây dựng và lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập một cách sáng tạo và phù hợp với đối tượng học sinh, không cảm thấy khó khăn khi thiết kế bài giảng ở buổi 2. Giáo viên cảm thấy tự tin hơn, không còn e sợ khi có ai vào dự giờ các tiết dạy buổi 2; Tâm lý của giáo viên phấn khởi vì khẳng định được mình trước tập thể. Cụ thể là: Kết quả thực nghiệm Trước khi Sau khi vận dụng các vận dụng các biện pháp biện pháp 30/36 36/36 20/36 36/36 18/36 36/36 18/36 36/36 - Giáo viên hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của dạy học 2 buổi/ ngày. Có ý thức nghiên cứu và đầu tư cho công tác soạn, giảng buổi 2. - Giáo viên có kĩ năng lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động dạy học 2 buổi/ ngày. - Giáo viên có kĩ năng dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh. - Giáo viên tự tin, biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và có khả năng đa dạng hóa các 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan