GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ – CƠ HỘI - CHIẾN LƯỢC THÂM
NHẬP ( PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP) THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN
I. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ NHẬT BẢN
1) Nhân khẩu học:
Dân số
: 126,476 triệu
Cơ cấu dân số : 0-14 tuổi: 13,1%
15-64 tuổi: 64%
từ 65 tuổi trở lên: 22,9%
Thành phần
: Khi khai sinh: 1,056 nam/ nữ
Dưới 15 tuổi: 1,06 nam/nữ
15-64 tuổi: 1,02 nam/ nữ
Từ 65 tuổi trở lên: 0,74 nam/ nữ
Tổng dân số: 0,95 nam/nữ
Tỉ lệ sinh
: 7,31/1000 dân
Tỉ lệ tử
: 10,09/1000 dân
Tỉ lệ tăng dân số : - 0,278%
Tôn giáo
: đạo Phật, Thần đạo (84%), Thiên chúa (0,7%), tôn giáo
khác 15,3%
Tiền tệ
: đồng Yên (1 USD = 77 Yên)
Lực lượng lao động: 65,7 triệu người
(nông nghiệp: 3,9%, công nghiệp 26,2%, dịch vụ 68,9%)
Tỉ lệ thất nghiệp : 5,1%
2) Kinh tế - Tài chính - Cơ sở hạ tầng
Kinh tế chung
Cơ cấu kinh tế :
GDP
: 4.310 tỷ USD
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
GDP/ người
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
: 34.000 USD Ngân sách: Thu 1.638 tỷ USD
Chi 2.16 tỷ USD
Kim ngạch XK: 765,2 tỷ USD
Các sản phẩm XK chủ yếu gồm : xe máy, linh kiện bán dẫn, máy văn phòng,
hoá chất,…
Bạn hàng XK chính : Trung Quốc (19%), Mỹ (16%), Hàn Quốc (8%), Đài
Loan (6%), Hồng Kông (6%) ….
Kim ngạch NK: 636,8 tỷ (USD)
Các sản phẩm NK chủ yếu gồm : nguyên liệu, năng lượng, thực phẩm,hoá chất,
dệt may,...
Bạn hàng NK chính : Trung Quốc (22%), Mỹ (11%), Australia (6%), Ả rập Xê
út (5%), Các cảng chính: Chiba, Kawasaki, Kobe, Mizushima, Moji, Nagoya, Osaka,
Tokyo, Tomakomai, Yokohama
Sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ và các ngành công nghiệp, tinh thần và đạo
đức làm việc cao, nắm bắt công nghệ cao, và một tỷ lệ chi phí quốc phòng tương đối
nhỏ (1% GDP) đã giúp Nhật Bản trở thành cường quốc thứ 2 trên thế giới về công
nghệ sau Mỹ và nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới sau Mỹ và Trung quốc với một
tốc độ nhanh chưa từng có.
Công nghiệp, khu vực quan trọng trong nền kinh tế Nhật Bản, phụ thuộc nhiều
vào nguyên liệu thô và nhiên liệu nhập khẩu. Nông nghiệp, khu vực nhỏ nhất trong
nền kinh tế, được Chính phủ bao cấp và bảo hộ ở mức độ cao, có năng suất và sản
lượng thu hoạch cao nhất trên thế giới. Nhật tự cung cấp được đủ nhu cầu gạo trong
nước nhưng vẫn phải nhập khẩu 50% nhu cầu các loại ngũ cốc khác. Nhật có ngành
công nghiệp đánh bắt cá với sản lượng đánh bắt cao nhất trên thế giới, chiếm 15%
sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới.
Nhìn chung, Nhật Bản là thị trường mở qui mô lớn đối với các nhà đầu tư và
hàng hoá nước ngoài. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh ở thị trường Nhật Bản là rất cao
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
do lượng hàng hoá nhập khẩu nhiều và từ nhiều xuất xứ khác nhau. Để có thể trở
thành bạn hàng quốc tế của Nhật, cần thiết phải hiểu được các hoạt động và mối
quan tâm của phía Nhật trong việc nhập khẩu hàng hoá. Cần phải tiến hành đúng các
thủ tục nhập khẩu và luật lệ kiểm dịch, các tiêu chuẩn chất lượng cũng như luật lệ để
bảo vệ người tiêu dùng phải được xem xét đầy đủ
Kinh tế Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, đã tăng trưởng nhanh vượt bậc
so với dự đoán của các chuyên gia sau nhiều năm trì trệ, với tốc độ tăng trưởng trong
vòng 3 tháng (tháng 10-12/2006) là 1,3%, tăng so với 1,2% của 3 tháng trước đó.
Nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới này đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng
năm là 5,5%, mức nhanh nhất trong 3 năm trở lại đây.
Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản
Ngoại giao
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ 21/9/1973.
Hiện nay, Nhật Bản có Đại Sứ quán tại Hà nội và Lãnh sự quán tại Thành phố
HCM.
Việt Nam hiện có ba cơ quan đại diện ngoại giao ở Nhật Bản, gồm Đại sứ quán tại
thủ đô Tokyo và các tổng lãnh sự ở các thành phố Osaka, miền Trung, và Fukuoka,
miền Nam.
Tháng 11/2010, Việt Nam đã mở văn phòng lãnh sự danh dự thứ nhất ở thành
phố Nagoya, Aichi và văn phòng lãnh sự danh dự thứ hai ở thành phố Kushiro,
Hokkaido, Nhật Bản
Từ năm 1973 đến nay quan hệ ngoại giao Việt Nam và Nhật Bản tiến triển tốt.
Hàng năm, hai nước đều có các cuộc gặp cấp cao.
Lãnh đạo Nhật Bản thăm Việt Nam: Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 7 lần
(Murayama tháng 8/1994; Hashimoto tháng 1/1997, Obuchi tháng 12/1998, Koizumi
tháng 4/2002 và tháng 10/2004; Shinzo Abe tháng 11/2006, Naoto Kan tháng
10/2010). Hoàng Thái tử Nhật Bản thăm Việt Nam (9-15/2/2009).
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Lãnh đạo Việt Nam thăm Nhật Bản: Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Nhật 1995,
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 10/2002, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức
Nhật 4/1993, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức năm 1999 và sau đó thăm
làm việc 2001, 4/2003, 12/2003, 6/2004 và ghé thăm Nhật tháng 7/2005. Tháng
10/2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Nhật Bản. Đặc biệt, từ 2529/11/2007, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ Việt-Nhật, Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết thăm Nhật Bản cấp nhà nước. Tháng 3/2008, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Phú Trọng đã thăm chính thức Nhật Bản theo lời mời của Chủ tịch Hạ viện Nhật
Bản Yohei Kono. Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Hồ Đức Việt thăm Nhật Bản
(tháng 9/2008). Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã thăm chính thức Nhật Bản từ (1923/4/2009), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm làm việc tại Nhật Bản (tháng 5 và
tháng 11/2009). Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm Nhật
Bản (tháng 1/2010). Đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực
Ban
Bí
thư
thăm
Nhật
Bản
(tháng
6/2011)
Năm 2002, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhất trí xây dựng quan hệ Việt Nam Nhật Bản theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Trong chuyến thăm
Việt Nam 7/2004 của Ngoại trưởng Nhật Bản, hai bên đã ký Tuyên bố chung “Vươn
tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững”. Tháng 10/2006, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng thăm chính thức Nhật Bản mở ra một giai đoạn mới “hướng tới đối tác
chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”. Tiếp đó, trong chuyến thăm Nhật
Bản từ 25-29/11/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Yasuo
Fukuda ký Tuyên bố chung “Làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản” và
“Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược”.Viện trợ phát triển
chính thức ODA: Từ năm 1992 đến nay, tổng cam kết ODA của Chính phủ Nhật
Bản dành cho Việt Nam tính đến sau con số mới đạt được này đã lên tới 1.542 tỷ
Yên. Trong những năm trước, tổng số vốn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam vay
được ước tính trung bình khoảng 80 tỷ yên/năm. Riêng năm tài chính 2009 (từ tháng
4/2009 ~ 3/2010), tổng số vốn cho vay dự kiến đạt 180 tỷ yên. Khoản tín dụng này
không chỉ được dùng vào việc hỗ trợ Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng, môi trường,
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
mà còn giúp khắc phục hậu quả từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới.
Kinh tế
Ngày 7/4/2003, bắt đầu thực hiện Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản
Ngày 14/11/2003, ký kết Hiệp định bảo hộ thúc đẩy và tự do hóa đầu tư Việt –
Nhật, tạo cơ sở thuận lợi và thúc đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản tăng cường đầu tư vào
Việt Nam.
Ngày 25/12/2008, ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản
(VJEPA). VJEPA là một thoả thuận song phương mang tính toàn diện bao gồm các
lĩnh vực như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, cải thiện môi trường
kinh doanh, di chuyển lao động, hợp tác về tiêu chuẩn kỹ thuật... Hiệp định sẽ
khuyến khích hoạt động hợp tác kinh tế, trao đổi thương mại và đầu tư giữa Việt
Nam và Nhật Bản, qua đó phát huy hiệu quả các tiềm năng và lợi thế của hai nước
trong mối tương quan chung với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bắt đầu từ tháng
10/2009, Hiệp định này đã chính thức có hiệu lực, nâng quan hệ giữa hai nước lên
một tầm cao mới
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
(nguồn: Tổng cục Hải quan)
Trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam: chiếm khoảng 17% đến 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên,
nếu so với các nước xuất khẩu khác vào thị trường Nhật Bản thì tỷ lệ xuất khẩu của
Việt Nam còn rất khiêm tốn. Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất sang Nhật
Bản là: dầu thô, cà phê, chè, hàng dệt may, giầy dép, hải sản, thực phẩm chế biến,
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
hàng thủ công mỹ nghệ, gốm sứ và đồ gỗ gia dụng,....trong đó chỉ riêng 3 mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là dầu thô, hải sản và dệt may đã chiếm tới 70%91% tổng kim ngạch xuất khẩu, và mới chỉ đáp ứng nhu cầu nhỏ của thị trường Nhật
Bản đối với các mặt hàng này
(Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam)
Trung bình mỗi năm Việt Nam có dành 20-25 tỷ yên trả nợ ODA cho Nhật
Bản. ODA của Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam tập trung vào 5 lĩnh vực cơ bản, cụ
thể là:
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế
Xây dựng và cải tạo các công trình giao thông và điện lực
Phát triển nông nghiệp và xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn
Phát triển giáo dục và đào tạo y tế
Bảo vệ môi trường
Các Hiệp định đã ký giữa hai nước
Các Hiệp định vay ODA hàng năm (1992)
Hiệp định Hàng không (5/1994)
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (9/1995)
Hiệp định hợp tác kỹ thuật (10/1998)
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (12/2004)
Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ (8/2006)
Hiệp định Đối tác kinh tế song phương Việt-Nhật VJEPA (25/12/2008).
Một số thoả thuận khác:
Thỏa thuận cử đội hợp tác thanh niên hải ngoại (1994).
Biên bản về hợp tác trong lĩnh vực pháp luật (10/1996)
Sáng kiến chung Việt - Nhật về cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam
(11/2003), giai đoạn hai (7/2006), giai đoạn 3 (6/2008).
Tuyên bố chung giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao “Vươn tới tầm cao mới của
mối quan hệ đối tác bền vững” (7/2004).
Tuyên bố chung về hợp tác IT Việt Nam-Nhật Bản (6/2004).
Thoả thuận hợp tác giữa Học viện quan hệ quốc tế Việt Nam và Viện nghiên
cứu các vấn đề quốc tế Nhật Bản (2/2005).
Tuyên bố chung hợp tác du lịch giữa Tổng cục du lịch và Bộ Lãnh thổ, Hạ
tầng và Vận tải Nhật Bản (4/2005).
Tuyên bố chung giữa hai Thủ tướng Việt Nam-Nhật Bản “Hướng tới quan
hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á” (10/2006).
Bản ghi nhớ về việc thành lập Ủy ban Hợp tác Việt Nam - Nhật Bản
(5/2007).
Tuyên bố chung làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản và Chương trình
hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược (11/2007).
Thoả thuận hợp tác về lĩnh vực phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam giữa
Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Kinh tế-Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản
(5/2008).
Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp phụ trợ
ký kết giữa Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng và Bộ trưởng Kinh tếThương mại-Công nghiệp Nhật Bản (METI) Nikai (12/2008).
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Tuyên bố chung giữa Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Aso "Xây
dựng quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á" (4/2009).
Tuyên bố chung Việt Nam – Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ đối
tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á (10/2010)
Môi trường tự nhiên:
3) Môi trường tự nhiên:
Đặc điểm địa lý:
Vị trí địa lý
:
Nằm ở Đông Bắc Á, là một chuỗi đảo nằm giữa Bắc Thái
Bình Dương và Biển Nhật Bản, phía đông của bán đảo Triều Tiên
Diện tích
:
377.915 km2 trong đó gồm 13.430 km2 mặt nước và 364.485
km2 đảo. Có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Hokkaido, Honshu,
Shikoku và Kyushu cùng hàng ngàn đảo nhỏ chung quanh. Phần lớn đảo ở Nhật Bản
có rất nhiều núi và núi lửa.
Thủ đô
: Tokyo
Ngôn ngữ
:
tiếng Nhật
Biên giới đất
:
0 km
Đường bờ biển :
29.751 km
Phân chia hành chính: Đơn vị phân vùng hành chính cấp 1 của Nhật Bản là đô
đạo phủ huyện, cả nước được chia thành 1 đô, 1 đạo, 2 phủ, 43 huyện. Các đô thị lớn
tùy theo số dân và ảnh hưởng mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh chỉ định,
thành phố trung tâm, thành phố đặc biệt. Ngoài ra còn có các đơn vị như quận, chi
sảnh, khu, đặc biệt khu,… Căn cứ vào địa lý và nhân văn, đặc trưng kinh tế, Nhật
Bản thường được chia thành 8 khu vực lớn, bao gồm: vùng Hokkaidō, vùng Đông
Bắc, vùng Kantō, vùng Trung Bộ, vùng Kinki (còn gọi là vùng Kansai), vùng
Chūgoku, vùng Shikoku và vùng Kyushu-Okinawa
Khí hậu : đa dạng từ khí hậu nhiệt đới ở miền Nam tới khí hậu lạnh ở miền Bắc
Địa hình : phần lớn là đồi núi
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Tài nguyên : tài nguyên khoáng sản không đáng kể, tài nguyên thủy sản chủ
yếu là cá
4) Chính trị _ Pháp luật:
Hệ thống chính trị:
Tên đầy đủ : Nhật Bản
Thể chế chính trị : Quân chủ lập hiến
Ngày quốc khánh : 23/12
Thủ tướng : Naoto Kan (từ 4/6/2010)
Chủ tịch Hạ viện : Yokomichi Takahiro (Đảng Dân chủ) từ 9/2009
Chủ tịch Thượng viện : Eda Satsuki (Đảng Dân chủ) từ 8/2007
Ngoại trưởng : Okada Katsuya (Đảng Dân chủ) (bổ nhiệm lại 8/6/2010)
Thể chế nhà nước:
Thủ tướng là người nắm quyền cao nhất về các phương diện quản lý quốc gia
và chịu sự giám sát của hai viện quốc hội cùng tòa Hiến pháp có thẩm quyền ngăn
chặn các quyết định vi hiến của chính phủ. Hiến pháp của nước Nhật Bản, được
công bố vào ngày 3 tháng 11 năm 1946 và có hiệu lực kể từ ngày 3 tháng 5 năm
1947, quy định rằng nhân dân Nhật Bản thề nguyện trung thành với các lý tưởng hòa
bình và trật tự dân chủ.
Ở Nhật Bản, hoàng đế được gọi là Thiên hoàng. Đương kim Thiên hoàng Akihito,
sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 tại thủ đô Tokyo, lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm
1989, đặt niên hiệu là Bình Thành
Quốc hội Nhật Bản là cơ quan lập pháp cao cấp nhất, gồm có Hạ viện với 512
ghế và Thượng viện với 252 ghế. Hạ viện được bầu ra từ 130 đơn vị bầu cử với số
nghị viên từ 2 tới 6 vị tùy theo dân số. Nhiệm kỳ của Thượng viện là 6 năm, mỗi 3
năm được bầu lại một nửa. 100 Thượng nghị sĩ được bầu theo sự đại diện tỉ lệ tức là
do các cử tri toàn quốc, số còn lại 152 ghế được bầu từ 47 đơn vị bầu cử tỉnh. Hạ
viện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm hay bất tín nhiệm Nội các, đây là một quyền lực
chính trị quan trọng nhất của nền chính trị đại nghị. Các công dân Nhật Bản trên 25
tuổi đều có quyền ứng cử Dân biểu và trên 30 tuổi có thể tranh cử ghế Thượng viện.
Quyền được thực hiện phổ thông đầu phiếu thuộc về mỗi người dân nam nữ trên 20
tuổi
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Các đảng phái chính trị:
Đảng Dân Chủ Tự Do (LDP): Thành lập tháng 11 năm 1955, là
đảng tư sản-bảo thủ lớn nhất, hiện chiếm 296/480 ghế tại Hạ viện và 115/252 ghế tại
Thượng viện. Đảng LDP cầm quyền liên tục 38 năm từ 1955 đến 1993
Đảng Dân chủ (JDP): Thành lập ngày 28 tháng 9 năm 1996,
thành phần chủ yếu gồm các nghị sĩ tách ra từ Đảng Xã hội và Đảng Sakigake.
Tháng 4 năm 1998, Đảng Dân chủ sát nhập thêm Tân đảng ái hữu và liên hiệp cải
cách dân chủ, thành lập Đảng Dân chủ mới, trở thành đảng đối lập lớn nhất. Hiện
nay, đảng này có 113/480 ghế tại Hạ viện và 82 ghế tại Thượng viện. Ngày 5 tháng
10 năm 2003, Đảng Dân chủ đã sáp nhập với Đảng Tự do thành Đảng Dân chủ với
204 nghị sĩ trong đó có 136 Hạ Nghị sĩ. Sau cuộc bầu cử thượng viện ngày 29 tháng
7 năm 2007, Đảng Dân chủ trở thành đảng lớn nhất trong thượng viện
Đảng Công Minh (NKP): Thành lập vào tháng 11 năm 1964.
Năm 1998, các thế lực đảng Công Minh cũ trong Tân đảng Hoà bình ở Hạ viện và
Công Minh ở Thượng viện hợp nhất thành lập Đảng Công Minh mới.
Đảng Xã hội Dân chủ (SDP ): Tiền thân là Đảng Xã hội (JSP)
thành lập tháng 11 năm 1945, có cơ sở chủ yếu trong tầng lớp trí thức, có khuynh
hướng xã hội dân chủ. Đến đầu 1990 là đảng đối lập lớn nhất trong Quốc hội. Do bị
thất bại lớn trong bầu cử Hạ viện năm 1993, Đảng Xã hội Dân chủ buộc phải thay
đổi hầu hết các chính sách cơ bản (về lực lượng tự vệ, Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ...)
để liên minh với các đảng khác. Từ tháng 8 năm 1994 đến hết 1995, Đảng Xã hội
Dân chủ liên minh với LDP và Shakigake để lập nội các do Chủ tịch Đảng
Murayama làm Thủ tướng. Murayama là Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản đến thăm
Việt Nam vào năm 1994 nối lại quan hệ Nhật - Việt từ sau 1945. Ngày nay nội bộ
đảng ngày càng suy yếu, phân hóa nghiêm trọng. Do nhiều nghị sĩ đã bỏ đảng và gia
nhập đảng Dân chủ (tháng 9 năm 1996), Đảng Xã hội Dân chủ hầu như bị tan rã và
thất bại lớn trong bầu cử tháng 10 năm 1996, mất nửa số ghế. Hiện nay đảng này
chiếm 7/480 ghế trong Hạ viện và 5 ghế trong Thượng viện
Đảng Cộng sản (JCP): Thành lập năm 1922, song chỉ sau Thế
Chiến Thứ Hai mới được ra hoạt động công khai. Hiện nay giữ 9/480 ghế tại Hạ
viện, 7/242 ghế trong Thượng viện. Đảng Cộng sản Nhật Bản có tổ chức chặt chẽ,
kiên định đường lối; chủ trương xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Nhật Bản thông qua
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
cách mạng dân chủ và đấu tranh nghị trường; bảo vệ quyền lợi của người lao động,
chống tư bản Nhật. Gần đây, Đảng Cộng sản đã thay đổi lập trường trên một số vấn
đề như thừa nhận Nhật Hoàng, Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ..., tranh thủ lôi kéo các
đảng
đối
lập
để
tiến
tới
lập
chính
quyền
liên
hiệp
dân
chủ.
Ngoài ra còn có một số đảng đối lập trong Quốc Hội như: CLB Cải Cách...
5) Văn hóa:
Trà đạo được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà. Trong văn hóa
Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12
Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là
sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài
mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng
tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện
liên quan tới thú uống trà.Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn
đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà.
Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật
thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶 茶 ), một sản
phẩm đặc sắc thuần Nhật.Từ uống trà, cách uống trà, rồi nghi thức uống trà cho đến
trà đạo là một tiến trình không ngưng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn
hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo
trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo với ý nghĩa đích thực của từ
này. Hiển nhiên ở đây trà đạo, không đơn thuần là con đường, phép tắc uống trà, mà
trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách hòa
mình với thiên nhiên, từ đó tu tâm dưỡng tính để đạt giác ngộ.
Dùng đũa khi ăn
II.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MỘT SỐ NGÀNH TIÊU BIỂU
Phương thức
Ngành
Cơ hội
Thách thức
thâm nhập chủ
yếu
Dịch vụ
Thị trường nhật bản có mức Cạnh tranh cao về chất lượng,
sống cao nên ngành dịch vụ
Độ độc đáo , giá trị dịch vụ
Franchising
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
phát triển mạnh
mang lại cho khách hàng
nhu cầu về các loại hình dịch
Có nhiều rào cản văn hóa
vụ nhiều
Văn hóa ẩm thực nhật chủ yếu Do địa hình ốc đảo nên lượng
Thủy sản
sử dụng mặt hàng thủy sản tươi đánh bắt thủy hải sản cao,
Xuất khẩu
cạnh tranh trực tiếp thế mạnh
sống
Tâm lý sính đồ ngoại
của nước sở tại
Địa hình chủ yếu là đồi núi nên
Cạnh tranh với các nước có
Nông sản
sản phẩm nông nghiệp chủ yếu
nền nông nghiệp phát triển
là nhập khẩu
Nhật bản rất chú trông về
Công nghiệp Tài nguyên khoáng sản của
công nghiệp nặng, và kỹ thuật
nặng
Nhật Bản không đáng kể,
cao
Công nghiệp Công nghiệp nhẹ chưa được
nhẹ
chú trọng
Đòi hỏi cao về chất lượng
Xuất khẩu
Đầu tư
Liên doanh
Liên minh
chiến lược
Xuất khẩu
Liên doanh
Đặc điểm về địa lý, Nhật Bản
là một trong số những nước rất
hiếm về tài nguyên thiên nhiên,
ngoại trừ nguồn hải sản, do đó
hầu hết các sản phẩm gia dụng,
trang trí nội, ngoại thất đều
phải nhập khẩu.
Đòi hỏi cao về chất lượng.
Thủ công mỹ Xu hướng tiêu dùng và sính đồ
Cạnh tranh với nhiều nước
ngoại của người Nhật Bản
nghệ
trên thị trường .
ngày càng gia tăng và sức tiêu
thụ của thị trường này rất lớn,
vào khoảng 3.000 tỷ Yên, bao
gồm cả hàng gia dụng, trong
đó đồ gỗ nhập khẩu chiếm 37%
thị phần tại thị trường Nhật.
Nhật bản - thị trường đứng thứ
Xuất khẩu
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
hai nhập khẩu sản phẩm gỗ của
Việt Nam
III.
PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VI MÔ & CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP
1)
Lựa chọn ngành :
“Tại Nhật Bản vẫn chưa có nhiều quán ăn Việt Nam, trong khi món ăn Việt
Nam lại khá quen thuộc với nhiều người Nhật. Đặc biệt là các món như phở và nem
được nhiều thanh niên Nhật Bản ưu thích. Các món ăn Việt Nam có lượng calo thấp,
nhiều rau, rất tốt cho sức khỏe. Đây sẽ là những điểm chúng tôi tập trung vào khi
giới thiệu món ăn Việt Nam tại Nhật Bản. Tôi cho rằng các quán ăn Việt Nam là một
cơ hội kinh doanh tốt ở Nhật Bản”.
Qua nghiên cứu môi trường vĩ mô của thị trường Nhật Bản chúng tôi thấy
ngành dịch vụ ở thị trường nhật bản có nhiều tiềm năng phát triển và phù hợp với
định hướng của công ty. Nên chúng tôi quyết định đầu tư vào ngành dịch vụ ăn
uống ở nhật bản.
2)
Phân tích môi trường ngành Dịch Vụ ăn uống
Kinh tế:
Ngành dịch vụ thực phẩm năm 2008 có doanh số bán lẻ là 234,4 tỷ USD, bao
gồm 4 phân đoạn sau: 1) nhà hàng; 2) khách sạn; 3) quán bar và quán cà phê; và 4)
các công ty dịch vụ thực phẩm phục vụ trường học, bệnh viện và các tổ chức khác.
Hình 2. Kênh phân phối loại hình cung cấp dịch vụ thực phẩm (2008)
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu ngành dịch vụ thực phẩm
Bảng 1. Thị phần doanh số bán hàng các nhà hàng theo loại thực phẩm (2008)
Nhà hàng phục vụ nhiều loại thực phẩm
Nhà hàng mỳ
Nhà hàng sushi
Các nhà hàng khác
70,7%
8,4%
10,7%
10,1%
100%
Nguồn: Trung tâm nghiên cứu ngành dịch vụ thực phẩm
Nhà hàng:
Đây là kênh tiêu thụ có tiềm năng xuất khẩu tốt nhất trong số 4 kênh dịch vụ
thực phẩm nói trên. Phân đoạn này đóng góp một nửa doanh số bán hàng thực phẩm
và bao gồm bốn loại hình chính như mô tả trong Bảng 1. Loại hình phân phối này có
doanh số bán hàng năm 2008 khoảng 126,44 tỷ USD, tăng 0,9% so với năm 2007.
Cụ thể, doanh thu của các nhà hàng phục vụ nhiều loại thực phẩm tăng 0,9 %; các
loại nhà hàng khác (bao gồm nhà hàng fast food) tăng 3,3%; trong khi nhà hàng mỳ
và nhà hàng sushi lần lượt giảm 0,2% và 0,1%
Một số chuỗi nhà hàng kinh doanh kiểu gia đình có thể là kênh phân phối mặt
hàng thực phẩm rất tiềm năng. Mục tiêu của các nhà hàng này là cạnh tranh về giá
nên họ rất chủ động trong việc tìm kiếm nguồn cung ứng nước ngoài. Các nhà hàng
này đặc biệt quan tâm đến thực phẩm sơ chế, trái cây và rau quả theo mùa, nước sốt
và gia vị đặc biệt, và các món tráng miệng.
Các nhà xuất khẩu có thể tiếp cận trực tiếp với các chuỗi nhà hàng lớn; còn với
các chuỗi nhà hàng nhỏ thì nên xây dựng quan hệ với các công ty thương mại hoặc
các nhà bán buôn dịch vụ thực phẩm
Khách sạn và các điểm du lịch, giải trí:
Đây là kênh tiêu thụ khá lớn thực phẩm tuy nhiên họ có xu hướng tiêu thụ thực
phẩm phương Tây và rất khó tiếp cận
Quán bar và quán cà phê:
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
chiếm 20,5% tổng doanh thu của ngành dịch vụ thực phẩm. Tuy nhiên, doanh
số bán hàng thực phẩm của loại hình này năm 2007 giảm 4,1% và năm 2008 giảm
1,5%. Mặc dù vậy, đây vẫn là một phân khúc thị trường quan trọng đối với các loại
đồ uống và thực phẩm ăn nhẹ xuất khẩu.
Các tổ chức cung cấp dịch vụ thực phẩm :
Bao gồm nhà ăn tại các nhà máy, văn phòng, bệnh viện, và nhà ăn học sinh với
tổng doanh số bán hàng năm 2008 là 31,77 triệu USD, chiếm 13,6% tổng doanh số
của toàn ngành dịch vụ thực phẩm.
Ngành chế biến thực phẩm. Đây cũng là phân đoạn quan trọng để thâm nhập
vào thị trường Nhật Bản vì họ có khả năng nhập khẩu những loại thực phẩm sau:
Thành phần thực phẩm để sản xuất trong nước
Thành phẩm được dùng để bán dưới thương hiệu của họ;
Thành phẩm được bán dưới thương hiệu của nhà xuất khẩu, nhưng được phân
phối qua hệ thống của nhà nhập khẩu
Cung cấp thực phẩm thông qua các nhà chế biến thực phẩm sẽ có những ưu
điểm sau:
Họ mua với số lượng lớn
Họ có hệ thống phân phối tinh vi
Họ có kiến thức về hoạt động kinh doanh của nhà cung cấp
Bán hàng trực tuyến tại Nhật Bản
Năm 2008, tổng số thuê bao sử dụng Internet tại Nhật Bản là 94 triệu thuê bao,
tăng gần gấp đôi kể từ năm 2000. Ngày nay, việc sử dụng Internet đang ngày càng
phổ biến tại Nhật Bản và vì thế thương mại điện tử tại đây cũng rất phát triển
Thực phẩm là một trong những mặt hàng chủ yếu được bán trên mạng. Theo
một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Viện nghiên cứu Yano, việc bán hàng thực
phẩm của siêu thị, GMS và các cửa hàng tiện ích qua Internet đang gia tăng và với
tổng doanh số trong năm 2008 là 222 triệu USD, và tăng 26% đạt 280 triệu USD
trong năm 2009. Dưới đây là một số trang web chính bán thực phẩm tại Nhật Bản:
Tên công ty
Website
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
Rakuten
e-Yukiseikatsu
Oisix Co., Ltd.
Pal System Consumers Cooperative
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
http://www.rakuten.co.jp
http://www.eu-ki.com
http://www.oisix.com
http://www.pal.or.jp/group/
Union
Radish Boya
http://www.radishbo-ya.co.jp/
Polan Organic Farming Association http://www.pofa.jp/
(POFA)
Tengu Natural Foods
http://www.alishan.jp/shop/nfoscomm/catalog/
Văn hóa
Văn hoá ăn uống Nhật Bản
Đồ ăn thường ngày của người Nhật Bản chủ yếu là cơm, cá, rau. Thịt ít có
trong thành phần bữa ăn. Điều này đôi khi được các sách nước ngoài gán cho là do
ảnh hưởng của đạo Phật.
Sự tiếp xúc ngày một tăng với các nước khác trên thế giới kể từ thời Minh Trị
đã làm thay đổi bữa ăn của người Nhật Bản, đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, khi nền kinh tế thịnh vượng và mức sống đã được nâng lên. Việc tiêu thụ các
sản phẩm sữa, thịt cũng như bánh mì và các sản phẩm làm từ bột mì đã tăng mạnh
trong khi đó tiêu thụ gạo và các thức ăn truyền thống giảm dần. Đã có sự Âu hoá
rộng rãi trong khẩu phần ăn thường ngày như có thể thấy trong các sơ đồ về lượng
thực phẩm được tiêu thụ.
Do có sự cải thiện hệ thống phân phối hàng hoá nên sự khác biệt về ẩm thực
giữa người dân thành thị và nông thôn đã không còn nữa. Ở các thành phố, có nhiều
nhà hàng chuyên nấu các món ăn nước ngoài, trong đó có một số nhà hàng bán với
giá phải chăng. Xu hướng này, ở một mức độ nhất định, cũng đang phát triển tới các
tỉnh. Nhiều món ăn thông thường được dùng hiện nay là những món ăn đã được
Nhật hoá từ các món của các nước khác, thí dụ như món sukiyaki, một món ăn gồm
thịt, rau và các nguyên liệu khác được trần qua nước có pha rượu ngọt, xì dầu và gia
vị; món tempura gồm cá, hải sản và rau được chiên giòn; món tonkatsu được làm
bằng thịt lợn tẩm bột; và món cơm cari.
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
Hầu hết người Nhật dùng đũa để ăn. Bữa sáng thường đơn giản, bữa trưa cũng
khá nhẹ nhàng và bữa ăn chính là bữa tối, khi cả gia đình có mặt đầy đủ. Người Nhật
đang có xu hướng chuộng đồ ăn chế biến sẵn, tiện lợi khi nấu tại nhà hoặc tìm kiếm
hương vị lạ từ các món ăn nước ngoài khi ăn tiệm. Khẩu vị của thế hệ trẻ cũng có rất
nhiều thay đổi. Thanh niên thích ăn thịt hơn cá, và thích các món ăn Âu hơn các món
ăn Nhật Bản truyền thống.
Người Nhật với đồ ăn nước ngoài
Trong cuộc sống thường ngày, ngoài các đồ ăn như sushi, mì nước, cơm…. thì
người Nhật khá thích các món ăn của nước ngoài.
Các món ăn nước ngoài không đóng vai trò thay thế mà chỉ là thực phẩm bổ
sung cho thực đơn thường ngày của người Nhật.
Thậm chí spaghetti (mì ống kiểu Ý) và hamburger (bánh kẹp thịt) là các món
một số người thích ăn và thường ăn.
Người Nhật cũng rất thích các món ăn của Pháp và một số người Nhật đã đoạt
giải cao trong các cuộc thi tranh tài về làm bánh tại Pháp.
Các tiệm bánh tại Nhật có nhiều loại bánh mì với các kiểu khác nhau như bánh
loại Pháp, Ý…..Các món ăn của Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam là các món cũng
được người Nhật ưa thích.
Tại Tokyo, Nagoya hiện đã có một số quán ăn bán đồ Việt Nam mà thậm chí
không có người Việt Nam nấu hay phục vụ mà chỉ toàn là nhân viên người Nhật.
Các siêu thị Nhật bày đủ loại thực phẩm tây Âu và Đông Á và khách tiêu dùng cảm
thấy
siêu
thị
của
Nhật
nhiều
khi
có
quá
nhiều
sự
lựa
chọn.
Khác với đồ ăn của Việt Nam trong đó khá đa dạng về nước chấm thì dường như các
món
ăn
Nhật
lấy
xì
dầu
(soya
sauce)
là
nước
chấm
chính.
So với đồ ăn của Việt Nam thì đồ ăn của Nhật có phần nào nhạt hơn và người Nhật
không ăn ớt nhiều như người Việt.
Thị hiếu của người tiêu dùng nhạt bản rất đa dạng những cũng khác độc đáo.
Theo thương vụ việt nam tại nhật bản, người nhật rất chú ý đến chất lượng hàng hóa.
Sồng trong môi trường có thu nhập cao nên người nhật cũng đồi hỏi rất khắt khe về
chất lượng hàng hóa, bao gồm vệ sinh an toàn, hình thức và dịch vụ hậu mãi.
Đối thủ cạnh tranh ( các cửa hàng thức ăn nhanh, các nhà hàng)
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
KFC:
-
Thượng hiệu mạnh toàn thế giới về gà rán
Tài chính mạnh
Năm 1992: KFC khai trương nhà hàng thứ 1.000 tại Nhật Bản
KFC là hệ thống nhà hàng phục vụ gà rán lớn nhất với hơn 10.000 nhà hàng
tại 92 quốc gia. KFC và hệ thống nhượng quyền đang tạo việc làm cho hơn 200.000
người trên toàn thế giới.
KFC phục vụ hơn 4.5 tỉ miếng gà hằng năm và khoảng 7 triệu thực khách một
3)
ngày trên toàn thế giới (dữ liệu năm 1998)
Lựa chọn phương thức thâm nhập: Fachising của phở 24
Theo một kết quả nghiên cứu, gần 90% công ty kinh doanh theo hình thức
nhượng quyền thương mại tiếp tục hoạt động sau 7 năm, trong khi chỉ còn lại
khoảng 20% công ty độc lập còn tồn tại, điều này đồng nghĩa với 80% công ty độc
lập phải đóng cửa sau 7 năm ra đời
Franchising:
Nhượng quyền thương hiệu là một mô hình kinh doanh độc đáo đã ra đời cách
đây khoảng 150 năm. Trong suốt quá trình phát triển, mặc dù phải trải qua nhiều
sóng gió và biến đổi của thị trường nhưng mô hình này vẫn có một sức sống rất
mạnh mẽ và đang ngày càng trở thành một phương thức kinh doanh phổ biến trên
toàn cầu
Thực tế cho thấy, những thương hiệu nổi tiếng trên toàn thế giới hiện nay đều
là những thương hiệu đã đạt được những thành công to lớn khi thực hiện nhượng
quyền như: McDonald’s, KFC, Qualitea, Lotteria, Dilmah, Jollibee….Nhượng
quyền không chỉ giúp những thương hiệu này tỏa đi khắp năm châu bốn bể mà còn
mang lại cho các doanh nghiệp những khoản lợi nhuận khổng lồ. Với dự kiến mở
thêm khoảng 750 cửa hàng mới trên khắp thế giới trong năm 2011 thì đến quý 2 của
năm này doanh thu của McDonald đã tăng đến 16% đạt 6,91% tỷ USD, cao hơn dự
báo là 6,65% tỷ USD
Tại Việt Nam chúng ta, nhượng quyền đã được biết đến cách đây khoảng 15
năm và đang ngày càng trở nên phổ biến tại các nhiều doanh nghiệp. Đặc biệt, hoạt
GVHD: QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
ĐỀ TÀI 2: MÔI TRƯỜNG CHÂU Á
động nhượng quyền ở nước ta không chỉ diễn ra sôi nổi trong nước mà bước đầu đã
có những thương vụ nhượng quyền thành công ở nước ngoài. Điển hình cho sự
thành công này phải nói đến thương hiệu Phở 24 của Tập đoàn Nam An. Với các
thương vụ nhượng quyền thành công ở nước ngoài thương hiệu Phở 24 đã có mặt ở
nhiều quốc gia trên thế giới như Philippines. Indonesia, Canada, Hàn Quốc, Nhật
Bản và Trung Quốc. Tương tự, Cafe Trung Nguyên cũng là một cái tên gặt hái được
nhiều thành công với việc thiết lập các chuỗi quán cafe nhượng quyền tại Nhật Bản,
Thái Lan, Trung quốc và Cămpuchia…Tuy nhiên, có một thực tế dễ dàng nhận thấy
đó là số lượng các thương vụ nhượng quyền thành công ra nước ngoài của ta hiện
đang rất ít. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này của các doanh nghiệp
ta. Trước hết nhượng quyền ra nước ngoài là một hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi
các doanh nghiệp phải am tường về nhượng quyền, pháp luật kinh doanh quốc tế,
thị trường, khách hàng và đối tác. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp khác lại không
thể tiến hành nhượng quyền do thương hiệu bị đối thủ đăng ký bảo hộ trước hay do
đòi giá quá cao….Tất cả những vấn đề này khiến việc thực hiện nhượng quyền của
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Thậm chí tại một số doanh nghiệp
còn bị thất bại. Bởi vậy, để đảm bảo thành công khi thực hiện nhượng quyền thương
hiệu, một số doanh nghiệp đã có vạch ra chiến lược rất cụ thể, như chủ trương của
thương hiệu phở 24 là không phát triển quá nóng để đảm bảo chất lượng của các
thương vụ nhượng quyền. Một số doanh nghiệp tìm đến sự tư vấn của một số công
ty chuyên nghiệp trong lĩnh vực nhượng quyền. Nhưng cũng có một số doanh
nghiệp chấp nhận bán mô hình kinh doanh trước, rồi phát triển từ từ ra các nước ở
khu vực và trên thế giới
Cùng với sự phát triển của các hệ thống nhượng quyền quốc tế nổi tiếng tại
Việt Nam như Jollibee, KFC, hệ thống siêu thị Parkson, Hard Rock Café, Chilli’s,
The Body Shop... thì sự xuất hiện các hệ thống nhượng quyền của Việt Nam như cà
phê Trung Nguyên, Phở 24, Qualitea, Bakery Kinh Đô... và đặc biệt có những
thương hiệu Việt Nam tích cực nhượng quyền ra nước ngoài. Cũng trong thời gian
này, Bộ Công Thương xác nhận đăng ký cho 3 thương hiệu của Việt Nam nhượng
quyền ra nước ngoài, gồm thương hiệu Fashion T&T của doanh nghiệp tư nhân Đức
- Xem thêm -