Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ văn hóa tày việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân...

Tài liệu Mối quan hệ văn hóa tày việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản

.DOCX
327
42
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Hà Thị Thu Hƣơng MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA TÀY – VIỆT DƢỚI GÓC ĐỘ THẨM MỸ QUA MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN KỂ DÂN GIAN CƠ BẢN Ket-noi.com chia sẻ miễn phí LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Hà Thị Thu Hƣơng MỐI QUAN HỆ VĂN HÓA TÀY – VIỆT DƢỚI GÓC ĐỘ THẨM MỸ QUA MỘT SỐ KIỂU TRUYỆN KỂ DÂN GIAN CƠ BẢN Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 62.22.36.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS. TS VŨ ANH TUẤN 2. GS. TS KIỀU THU HOẠCH HÀ NỘI - 2007 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN HỆ VĂN HÓA TÀY - VIỆT QUA TRUYỆN KỂ DÂN GIAN 1.1. Tổng quan về lý thuyết văn hoá tộc người 22 1.2. Phác hoạ quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá Tày – Việt trong lịch sử 28 1.3. Vai trò của truyện kể dân gian trong văn hóa tộc người 39 1.4. Tiếp cận truyện kể dân gian Tày, Việt theo tinh thần folklore học 45 Tiểu kết chương 1 54 CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG KIẾN TẠO THẾ GIỚI, KIẾN TẠO VŨ TRỤ 2.1. p cận hình thức cấu tạo cốt truyện Tiế 55 2.2. Tiếp cận theo motif 80 Tiểu kết chương 2 96 CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY- VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG VĂN HOÁ 3.1. Nhân vật anh hùng văn hoá, sự tiếp nối có cơ sở lịch sử 98 3.2. Các dạng thức của nhân vật anh hùng văn hoá 99 3.3. Sự tương đồng và khác biệt trong cấu tạo cốt truyện và trong việc tái tạo motif đặc trưng của kiểu truyện nhân vật anh hùng văn hoá Tày – Việt 102 3.4. Những nhân vật anh hùng văn hoá tiêu biểu mang dấu ấn văn hoá tộc người Tày và Việt, từ góc nhìn mối quan hệ văn hoá tộc người 130 Tiểu kết chương 3 153 CHƯƠNG 4: MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG CHIẾN TRẬN CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM 4.1. Sự vận động mang tính quy luật tạo thành kiểu truyện 154 4.2. Kết cấu của kiểu truyện người anh hùng chiến trận trong truyện kể dân gian TàyViệt 158 4.3. ng motif đặc trưng của kiểu truyện Nhữ 178 Tiểu kết chương 4 192 KẾT LUẬN 195 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 201 TÀI LIỆU THAM KHẢO 202 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC TẬP TRUYỆN DÂN GIAN CHÍNH ĐƯỢC KHẢO SÁT 226 DANH MỤC CÁC TRUYỆN ĐƯỢC DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT 227 PHỤ LỤC 2: ẢNH VÀ BẢN ĐỒ 298 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1. Giá trị thời sự của đề tài: 1.1.1. Cuộc sống hiện đại trong sự hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh như vũ bão đã làm cho nhu cầu nhận thức sâu sắc vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và văn hoá tộc người trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Coi trọng văn hoá truyền thống chính là coi trọng nền tảng sức mạnh tinh thần của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ V khoá VIII đã nêu rõ: "Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hoá. Cần phải hết sức coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống" [13, tr.63]. Xu thế trở về cội nguồn để khẳng định những giá trị văn hoá truyền thống là hướng đi mang tính tất yếu của thời đại. 1.1.2. Trong bối cảnh toàn cầu hoá của thời đại mới, việc khẳng định giá trị văn hoá truyền thống từ nhiều hướng tiếp cận khác nhau vừa là yêu cầu và vừa là thách thức đối với nhiều nhà nghiên cứu. Nhà thơ Cù Huy Cận đã khẳng định trong buổi toạ đàm về tuyên ngôn toàn cầu hoá về đa dạng văn hoá của Unesco vào ngày 23/8/2002: "Việc bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống hiện nay là một vấn đề cực kỳ quan trọng trước nguy cơ đồng dạng văn hoá, áp đặt các nền văn hoá của các nước phát triển với những quốc gia nhỏ bé. Điều này sẽ làm cho bản sắc văn hoá bị biến dạng và mất đi nét đặc trưng của nó…"[161]. Một trong những vấn đề mang tính thời sự của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay là ủng hộ đa dạng văn hoá và chống lại nguy cơ đồng dạng văn hoá. Muốn làm được điều đó, trước tiên mỗi dân tộc phải tự khẳng định được bản sắc văn hoá đặc thù của chính dân tộc mình trên con đường tiếp xúc hội nhập. Với cái nhìn tổng thể, văn hoá được hiểu là một phạm trù rất năng động với đủ các khía cạnh về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm… Với cách hiểu đó, văn hoá đã khắc hoạ nên sắc thái diện mạo của mỗi vùng, miền, mỗi quốc gia dân tộc. Đúng như nhận định của Trần Quốc Vượng, "Việt Nam là 1 một quốc gia nhưng là một quốc gia đa tộc… song nền văn hoá Việt Nam lại rất đa dạng, theo thời gian diễn triển, theo không gian gia đình - làng xã, vùng miền - tộc người… theo các mối giao lưu rồi giao thoa, hỗn chủng, đan xen, hỗn dung, tiếp xúc biến đổi, biến dạng nhưng cuối cùng vẫn hội tụ - kết tinh và định hình một nền văn hoá Việt Nam" [305, tr.199]. Như vậy, hướng nghiên cứu mối quan hệ văn hoá tộc người trong cộng đồng Việt Nam thống nhất cần được sự quan tâm đặc biệt của nhiều ngành nghiên cứu. 1.1.3. Nói như Tô Ngọc Thanh, nền văn hoá Việt Nam “là nền văn hoá kết tinh những giá trị văn hoá các tộc người, đồng thời lại là cơ sở cho quá trình giao lưu giữa các nền văn hoá tộc người để trở nên mạnh hơn, rộng hơn, nhanh hơn khiến cho văn hoá mỗi tộc người giàu có hơn và phát triển nhanh hơn" [196, tr.37]. Nghiên cứu quan hệ văn hoá giữa tộc người chủ thể Kinh (Việt) với các tộc người khác sẽ làm sáng tỏ quy luật phát triển theo hướng trao đổi, tiếp thu văn hoá bằng hoà hợp dân tộc để xây dựng nền văn hoá thống nhất nhưng lại mang phong cách độc đáo của mỗi tộc người. Cái độc đáo trong văn hoá của từng tộc người đã góp phần tạo nên diện mạo chung của văn hoá Việt Nam, có những yếu tố riêng mang tính đặc thù bên cạnh những yếu tố chung mang tính phổ quát. Trong đại gia đình các tộc người Việt Nam, tộc người Tày là tộc người có số dân đông thứ hai sau người Kinh (Việt), có quan hệ gắn bó với người Kinh theo suốt chiều dài của lịch sử từ thời mở nước đến tận ngày nay. Mối quan hệ văn hoá Tày - Việt là mối quan hệ đặc biệt, cần phải được bảo lưu và phát triển. 1.2. Giá trị lý luận của đề tài: 1.2.1. Kho tàng văn học dân gian cổ truyền, nhất là kho tàng truyện kể dân gian của các tộc người Việt Nam chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống vô giá đã được truyền giao qua nhiều thời đại. Qua truyện kể dân gian chúng ta có thể nhận diện được nguồn gốc các loại hình văn hoá với đặc trưng vùng, địa phương rõ nét cùng với phong tục tập quán, tôn giáo của một tộc người hay của cả một dân tộc. Vì thế, khai thác, giải mã truyện kể dân gian để tìm ra những giá trị văn hoá truyền thống tiềm ẩn qua nhiều lớp nghĩa là lý do mang tính học thuật đầu tiên. 1.2.2. Văn học dân gian với ưu thế về chất liệu ngôn từ trong sự phản ánh thực tại là sự tích hợp những giá trị ưu tú nhất của văn hoá dân gian và tiềm ẩn nhiều mạch nguồn văn hoá, tư tưởng của dân tộc. Văn học dân gian mang sức nặng của cả một gia tài văn hoá được trải nghiệm qua không gian và thời gian, được bảo lưu và trao truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Tìm hiểu, phân tích những giá trị của các tác phẩm văn học dân gian có nghĩa là góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc. 1.2.3. Văn hoá - văn học dân gian của tộc người Tày và Kinh (Việt) là một bộ phận không thể tách rời trong kho tàng văn hoá - văn học dân gian Việt Nam. Để hiểu sâu sắc hơn nền văn hoá Việt Nam, thì việc khám phá những giá trị thẩm mỹ và giá trị tư tưởng của kho tàng văn hoá - văn học dân gian của người Tày cũng như người Việt qua sự tiếp xúc ngôn ngữ, giao thoa, tiếp biến, dung hợp văn hoá theo cả hai chiều Tày - Việt và Việt - Tày là hướng nghiên cứu có ý nghĩa nhiều mặt, cả về lý luận lẫn thực tiễn trong việc sưu tầm, nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian nói chung và truyện kể dân gian nói riêng. Sự phát triển không ngừng của học thuật và sự mở rộng hướng tiếp cận nhiều chiều trong nghiên cứu đã giúp các nhà nghiên cứu văn hoá - văn học dân gian Việt Nam từng bước có được nhận thức chính xác về mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học dân gian với văn hoá dân gian. Đề tài đã được lựa chọn "Mối quan hệ văn hoá Tày – Việt dƣới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản" có cơ sở lý luận và thực tiễn nằm ngay trong bản chất đặc trưng của văn học dân gian: đặc trưng văn học và đặc trưng văn hoá. Hệ thống luận điểm của đề tài sẽ được giải quyết giữa hai góc độ ngữ văn và dân tộc học, bởi lẽ văn học dân gian là một thành phần hữu cơ của văn hoá dân gian có tính nguyên hợp và tính đa chức năng. Đặc biệt, đối với những di sản văn hoá dân gian đã lùi sâu vào dĩ vãng, là sản phẩm có căn rễ từ thời kỳ thị tộc, bộ lạc như thần thoại, truyền thuyết... thì tính nguyên hợp về lao động xã hội, về đối tượng phản ánh của nó rất nổi đậm. Đã từng có nhiều công trình thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau tiếp cận nghiên cứu đó ở những góc độ khác nhau như: dưới góc độ lịch sử, dưới góc độ xã hội học..., đến lượt mình, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ (chữ dùng của Đinh Gia Khánh). Nghiên cứu mối quan hệ văn hoá dưới góc độ thẩm mỹ có nghĩa là chúng tôi phải khảo sát, kết hợp với cảm nhận, phân tích, suy luận từ những hình tượng, hình ảnh cụ thể của từng kiểu truyện, kiểu nhân vật để tìm ra quan hệ văn hoá ẩn chứa bên trong. Trên cơ sở đó, lý giải sự tương đồng và dị biệt của những motif, những kiểu truyện tiêu biểu mang tính đặc thù của văn hoá tộc người và tính phổ quát của văn hoá dân tộc thông qua lăng kính nghệ thuật thẩm mỹ dân gian. Sự giới hạn “qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản” cũng có lý do nằm ngay trong thuộc tính của các kiểu truyện được chọn lựa. Đó là hầu hết các kiểu truyện được sử dụng làm đối tượng khảo sát đều nằm trong thể loại thần thoại, truyền thuyết hoặc thần thoại đã chuyển hoá thành truyền thuyết. Vấn đề cơ bản là thể loại truyền thuyết trong văn học dân gian Tày, Việt có đặc điểm trội là chuyển hoá rất nhanh từ thần thoại theo cả ba phẩm chất anh hùng hoá, lịch sử hoá, dân tộc hoá, có khả năng tích hợp đặc biệt phong phú, tiêu biểu và độc đáo các giá trị văn hoá Tày cũng như Việt, đồng thời biểu hiện rất đậm nét mối quan hệ văn hoá Tày – Việt. Thần thoại và truyền thuyết Tày, Việt đã bám sát và phản ánh những vấn đề quan trọng của lịch sử trong quá trình hình thành hai tộc người. Ở đó, từ ngôn ngữ đến văn hoá cổ truyền nói chung và ý thức tự giác của mỗi tộc người nói riêng đều tiêu biểu hơn so với tất cả các thể loại khác. Chẳng hạn có ít nhiều trong cổ tích và rất mờ nhạt trong truyện cười, truyện ngụ ngôn dân gian. Với cổ tích, do khuôn khổ luận án, chúng tôi xin được tiếp tục trong một công trình mới. Ở đề tài luận án này, xin được hiểu “cơ bản” đồng thời cũng có nghĩa là “ tiêu biểu”. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: 2.1.Vấn đề nghiên cứu so sánh văn hóa các dân tộc ở Việt Nam và nghiên cứu so sánh văn hoá Tày- Việt: 2.1.1. Đặt văn hóa các tộc người trong bối cảnh Đông Nam Á: Sự cần thiết của việc nghiên cứu so sánh văn hóa của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam, nhất là giữa văn hóa của người Kinh (Việt) và văn hóa các tộc người khác đã từ lâu được giới nghiên cứu văn hóa Việt Nam đề cập đến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, nghiên cứu so sánh văn hóa người Kinh với văn hóa các tộc người khác cư trú trên lãnh thổ Việt Nam thực chất là đặt văn hóa Việt Nam vào bối cảnh Đông Nam Á để phân tích, nhận diện. Có đặt văn hóa Việt Nam vào bối cảnh Đông Nam Á mới hiểu hết bản chất, đặc sắc của nền văn hóa này. Nghĩa là, việc nghiên cứu so sánh nói trên là con đường tất yếu để nhận diện bản sắc văn hóa Việt Nam. Thực ra đã có nhiều nhà nghiên cứu bàn về “bối cảnh Đông Nam Á” của văn hóa Việt Nam, trong đó có các học giả Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phạm Đức Dương, Cao Xuân Phổ ... Chẳng hạn Trần Quốc Vượng cho biết từ năm 1972, tại Hội nghị Đông Nam Á học Việt Nam lần thứ nhất, ông cùng Cao Xuân Phổ đã đọc tham luận Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, hoặc Hà Văn Tấn năm 1976 đã viết về văn hóa Hòa Bình trong bối cảnh Việt Nam [305, tr.18]. Năm 1982, Phạm Đức Dương với chuyên luận về Cội nguồn mô hình văn hoá - xã hội lúa nước của người Việt qua cứ liệu ngôn ngữ [40, tr.180] đã nêu vấn đề tiếp cận giải mã ngôn ngữ tiếng Việt trong bối cảnh Đông Nam Á, mà cụ thể ở đây là quan hệ giữa nhóm tộc người Việt – Mường và nhóm Tày – Thái. Ở đây, chúng tôi xin dừng lại nhiều hơn với Nguyễn Từ Chi, một trong những nhà nghiên cứu Việt Nam có ý thức rất sớm về việc cần thiết phải đặt văn hóa Việt Nam vào bối cảnh Đông Nam Á, người đã bước đầu triển khai chiến lược nghiên cứu này qua việc tìm hiểu văn hóa người Mường để từ đó, so sánh với văn hóa người Việt (Kinh). Theo ông, giữa “bộ mặt tộc người” và “cảnh quan” (tức môi trường tự nhiên) có mối quan hệ chặt chẽ. Ông cho rằng để hình thành một bản sắc văn hóa, có nhiều nhân tố khác nhau nhưng nhân tố môi trường là quan trọng nhất: “có nguồn gốc tộc người, có sự giao lưu văn hóa, nhưng điều kiện cho một nền văn hóa ra đời - môi trường mới là cái quan trọng nhất” [28, tr.628]. Khi giới nghiên cứu Việt Nam còn có những khó khăn trong việc nghiên cứu điền dã ở các nước Đông Nam Á, thì việc nghiên cứu bản thân “ba vùng môi trường lớn” của Đông Nam Á tại Việt Nam có thể khắc phục được khó khăn đó. Bởi vì nếu như Đông Nam Á có ba môi trường: vùng núi, vùng đồng bằng và vùng biển thì Việt Nam dẫu có nhiều dị biệt, nhưng vẫn có đủ các loại môi trường của Đông Nam Á nói trên. Như vậy, một chiến lược nghiên cứu “nhìn nhận Đông Nam Á từ góc độ Việt Nam ” như lời ông nói, lại có tầm cỡ của một kế hoạch nghiên cứu lớn đòi hỏi công sức của nhiều thế hệ và có thể sẽ đưa kết quả “đặt lại vấn đề dân tộc học trên bối cảnh Đông Nam Á” [28, tr.629]. Ông đã phác họa những nét đặc trưng chủ yếu của văn hóa các tộc người Việt Nam trên bốn vùng cảnh quan: vùng đồng bằng châu thổ và người Việt; vùng thung lũng chân núi với người Thái, người Mường ở Tây Bắc, người Tày Nùng ở Việt Bắc; vùng duyên hải cho biết cách ứng xử của cư dân Việt khi gặp biển; vùng hỏa canh: dọc Trường Sơn và cao nguyên Tây Nam Bộ. Điều đáng chú ý là ông đã nêu lên một loạt những giả thuyết cho thấy cần suy nghĩ về văn hóa Việt Nam trong quan hệ tương tác sống động trong lịch sử của các tộc người. Chẳng hạn, ông nghĩ, “xu hướng chuyển dịch tộc người là từ phương Bắc xuống” [28, tr.633], do đó, diễn ra một “sự hòa hợp” giữa các tộc người. “Chúng tôi ngờ rằng, buổi đầu, nhiều tộc người ở gò cao bị sức ép từ phương Bắc đã cùng nhau tràn xuống chiếm lĩnh toàn bộ đồng bằng sông Hồng. Khi đã chiếm đóng đồng bằng, các tộc người bắt đầu hòa hợp (...). Lúa nước (Thái) – giao lưu văn hóa- sức ép của người Hán, tất cả làm cho các tộc người khác nhau hòa hợp lại, người Việt được hình thành như vậy. Có thực thế hay không?”. Ông dẫn luận điểm của Gorman cho rằng cây lúa không phải được thuần dưỡng từ vùng trũng mà là ở chân núi, như ở vùng của các cư dân Tày, Thái, Nùng ở Việt Nam. Ông lưu ý dấu ấn của người Thái trong văn hóa nông nghiệp của người Việt “nông nghiệp cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ lại là nông nghiệp kiểu Thái” [28, tr.634]. Hệ thống thủy lợi ở đồng bằng Bắc Bộ là áp dụng “hệ thống thủy lợi Thái, Mường, Kinh”. Các luận điểm này như là những quan sát ban đầu, có luận điểm cần được nghiên cứu kỹ hơn nhưng có thể nói hướng đi như vậy là hết sức thú vị và mở ra những suy nghĩ về văn hóa Việt Nam trên bối cảnh rộng, giao lưu giữa các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. Cách nhìn mang tính hệ thống này cho phép hình dung văn hóa Việt Nam một cách sống động, cho thấy các tộc người có văn hóa mang bản sắc riêng đồng thời lại giao lưu, tiếp biến, làm giàu cho văn hóa của cả cộng đồng dân tộc mà người Việt là chủ thể. Cách nhìn đó là gợi ý quan trọng cho hướng nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này. Là nhà dân tộc học nên Nguyễn Từ Chi chưa quan tâm đến yếu tố văn học dân gian của văn hóa tộc người, tuy vậy “chiến lược” nghiên cứu trên đây là khoa học và hợp lý, có gợi mở quan trọng cho hướng nghiên cứu quan hệ giao lưu văn hóa các tộc người trên dải đất Việt Nam. Bản thân Nguyễn Từ Chi đã chọn văn hóa Mường làm đối tượng nghiên cứu để từ đó , hiểu kỹ thêm văn hóa Việt ( Kinh). Như Trần Quốc Vượng nhận xét, ngay từ đầu thập kỷ 60, “ông ( nói về Từ Chi) là chuyên gia lớn nhất về nghiên cứu Mường”... “từ việc nghiên cứu Mường trở về soi sáng việc nghiên cứu Việt” (305, tr. 959]. 2.1.2. Lịch sử nghiên cứu văn hoá tộc người và quan hệ văn hoá Tày – Việt: Văn hoá và văn hoá tộc người cùng với mối quan hệ văn hoá giữa các tộc người là một vấn đề rộng lớn thuộc phạm trù nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ chuyên môn khác nhau. Trong bài viết về Văn hoá tộc người - những bình diện nghiên cứu [96], chúng tôi đã khảo sát một số công trình nghiên cứu văn hoá tộc người tiêu biểu của Đặng Nghiêm Vạn, Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Đăng Duy, Hoàng Nam, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Chí Huyên… Chúng tôi cũng đã tham khảo các công trình có tính chuyên ngành về một vùng văn hoá hoặc một nhóm ngôn ngữ tộc người để tiếp cận văn hoá của tộc người Tày trong: Một số vấn đề lịch sử văn hoá các dân tộc ở Việt Bắc [186]; Văn hoá dân gian Cao Bằng[194], Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam[193], Giữ gìn, phát huy di sản các dân tộc Tây Bắc [202], Văn hoá dân gian Tày [129], Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam [206], Mấy vấn đề văn hoá và văn học dân gian Việt Nam [32], Đóng góp của các dân tộc nhóm ngữ Tày – Thái trong tiến trình lịch sử Việt Nam [207]… Trong đó, theo chúng tôi, Văn hoá dân gian Tày [129] là công trình có giá trị tổng kết theo hướng nghiên cứu truyền thống văn hoá Tày dưới góc độ lịch sử để khẳng định "Tiến trình văn hoá Tày phát triển theo quy luật ngày càng hoà nhập văn hoá khu vực, đồng thời giữ vững bản sắc…" [129, tr.259]. Công trình này đã cho chúng tôi một cách nhìn khá toàn diện về văn hoá tộc người Tày. Tuy nhiên, các công trình đã lược điểm ở trên mới chỉ dừng lại ở việc khảo tả những đặc trưng văn hoá tộc người hoặc phác hoạ diện mạo văn hoá của từng tộc người. Hầu như, mối quan hệ giữa tộc chủ thể – tộc người Kinh (Việt) với một tộc người khác trong khối cộng đồng theo quan hệ giao lưu, tiếp biến về văn hoá mới chỉ được điểm thoáng qua chứ chưa được khảo sát một cách cụ thể. Đấy là một hướng mở còn chờ sự khai thác của các nhà nghiên cứu. Theo sự khảo sát của Phan Hữu Dật, việc nghiên cứu văn hoá truyền thống đã sớm được tìm thấy trong tài liệu dân tộc học sớm nhất ở Việt Nam do chính người Việt Nam ghi chép còn lưu lại cho đến nay là tác phẩm Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) trong đó đã đề cập đến sự phân bố dân cư và văn hoá tập quán của người Việt. Còn văn hoá dân tộc thiểu số Việt Nam trong đó có văn hoá của người Thổ (Tày), Thái, Nùng, Dao, Mèo (Mông) đã được mô tả lần đầu trong Kiến văn tiểu lục của nhà bác học Lê Quí Đôn thế kỷ XVIII [29, tr.63 – 64]. Như vậy có hai hướng nghiên cứu cụ thể đã từng tồn tại: đó là hướng nghiên cứu lịch sử văn hoá của người Việt nói chung và lịch sử văn hoá của các tộc người khác trong đó có tộc người Tày nói riêng. Hàng loạt công trình của các nhà dân tộc học người Pháp và người Việt ngay từ những năm đầu thế kỷ XX đã cung cấp một bức tranh đa dạng về văn hoá các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. Các tác giả người Pháp như A. Bonifacy, E. Dignet đã viết về tộc người Tày, Nùng ở dạng miêu tả sinh hoạt và phong tục tập quán, có ý nghĩa bước đầu trong việc tìm hiểu những giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của tộc người Tày ở Việt Nam. Các tác giả Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám đã nghiên cứu về văn hoá, văn minh Việt Nam có Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh… Học giả Nguyễn Văn Huyên song song với việc nghiên cứu văn hóa người Việt cũng đã tiến hành nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian Tày với cảm hứng so sánh, nhìn văn hóa Tày trong bối cảnh Đông Nam Á rõ rệt. Trong gần mười năm từ 1936 - 1945, Nguyễn Văn Huyên đã xuất bản gần 50 công trình về các lĩnh vực sử học, dân tộc học và văn học dân gian…chủ yếu là nghiên cứu văn hoá văn minh Việt Nam. Ông đã "đặt nền móng cho nhiều định hướng cho khoa học xã hội mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị" [101, tr.7]. Riêng trong lĩnh vực nghiên cứu về dân tộc Tày - văn hoá - văn học dân gian Tày, ông đã có những đóng góp vô cùng quan trọng mở ra một định hướng nghiên cứu trên tổng thể văn hoá học từ văn hoá vật chất đến văn hoá tinh thần. Các vấn đề thuộc về văn hoá xã hội của người Tày như nhà cửa, ăn mặc, lối sống đến tín ngưỡng, thờ cúng, nhất là việc nghiên cứu ngữ - văn học Tày (ngôn ngữ, thi ca…) đã được ông khảo tả. Ông đã tiến hành nghiên cứu điền dã dân tộc học ở vùng Lạng Sơn - Cao Bằng, nơi cư trú chủ yếu của tộc người Tày Việt Nam. Từ nghiên cứu thực địa đó, Nguyễn Văn Huyên đã thu thập được những tài liệu về lịch sử và nền văn minh [101, tr.783] của một vùng văn hoá tộc người nói riêng, phục vụ cho mục đích tìm hiểu giá trị văn hoá của cả dân tộc nói chung. Ông là người đã rất sớm quan sát thấy mối quan hệ giữa người Tày với người Việt, và người Tày với các tộc người khác thông qua giao tiếp ngôn ngữ, thông qua hiện tượng song ngữ sống động của người Tày khi họ sử dụng cả hai thứ tiếng: tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt [101, tr.781]. Quan hệ văn hoá Tày - Việt thời kỳ đầu cách mạng thực sự chưa được khảo sát sâu và vẫn còn là một khoảng trống lớn, nhưng dần dần qua từng giai đoạn từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay vấn đề đã được mở rộng trong quá trình nghiên cứu thông qua các cuộc hội thảo khoa học và các bài chuyên luận...Tại Hội thảo khoa học về lịch sử văn hoá các dân tộc ở Việt Nam do Bảo tàng Việt Bắc tổ chức vào ngày 19 và 20/10/1981 tại Thành phố Thái Nguyên, tác giả Phạm Văn Thành đã đi tìm những căn cứ khoa học cho mối quan hệ văn hoá Tày - Việt tuy mới chỉ là Vài nét về mối quan hệ giao lưu văn hoá giữa người Tày và người Việt trong lịch sử [252, tr.189 -195]. Những luận điểm có tính đột phá của tác giả thực sự có ý nghĩa cho nghiên cứu của chúng tôi. Năm 1993, tại Hội thảo khoa học về việc tìm hiểu tiềm năng sưu tầm, khai thác nghiên cứu giá trị nền văn hoá dân gian của các dân tộc thiểu số ở Cao Bằng, Trần Quốc Vượng đã có bài tham luận với nhan đề Cao Bằng dưới cái nhìn dân gian về sự giao thoa văn hoá Tày – Việt [304]. Ngoài việc lý giải một cách thuyết phục hiện tượng giao thoa văn hoá Tày - Việt bằng nhiều cứ liệu xã hội và văn hoá dân gian ở Cao Bằng, ông còn chứng minh Cao Bằng là mảnh đất điển hình của sự giao thoa văn hoá giữa các tộc người. Những luận điểm rõ ràng và khá cô đọng của ông với nhiều cứ liệu đáng tin cậy cũng đã củng cố cho sự lựa chọn đề tài của chúng tôi. Việc nghiên cứu so sánh văn hoá Tày – Việt trong thời gian gần đây đã có những bước tiến theo hướng chuyên sâu hơn. Năm 2003, Đặng Thanh Phương đã hoàn thành luận án tiến sĩ lịch sử chuyên ngành dân tộc học về đề tài Tiếp xúc ngôn ngữ Tày - Việt (Kinh) ở vùng Đông Bắc Việt Nam [219]. Đây là một trong những đề tài góp phần khẳng định vấn đề tiếp biến văn hóa và ngôn ngữ trong mối quan hệ văn hoá Tày – Việt, một hướng nghiên cứu đang được quan tâm hiện nay của nhiều ngành khoa học. Tác giả của luận án đã xem xét về mối quan hệ Tày - Việt dưới góc độ lịch sử trên ba phương diện: “quan hệ lịch sử - văn hoá Tày – Việt; quan hệ Tày - Việt trong công cuộc dựng nước, giữ nước và dựng nước; quan hệ Tày - Việt về mặt lịch sử ngôn ngữ” [219, tr. 46 – 60]. Tác giả đã đi đến kết luận: trong quá trình hình thành cộng đồng Việt Nam trên vùng đất phía Bắc sông Hồng (quê hương của khối cư dân Phùng Nguyên - Đông Sơn) có sự tiếp xúc giữa người Tày cổ (lớp cư dân Tày - Thái cổ) với người Việt cổ (lớp cư dân Việt - Mường). Sự tiếp xúc này đã diễn ra liên tục từ thời cổ đại, qua trung đại, càng mạnh mẽ trong thời cận đại và phát triển ở đỉnh cao trong thời hiện đại. Kết quả trực tiếp của sự tiếp xúc đó đã để lại nhiều dấu vết trên các lĩnh vực văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, trong ngôn ngữ, trong huyết thống và trong lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của cả hai tộc người Tày và Việt [219, tr.60]. Những vấn đề bản chất, cốt lõi trong mối quan hệ Tày - Việt đã được tác giả luận án khảo cứu ở bước ban đầu. Nói cách khác, những khái quát lý thuyết của các nhà nghiên cứu đi trước đã được thế hệ nghiên cứu trẻ phát triển và kiểm định. Song nhìn chung vấn đề quan hệ văn hoá Tày - Việt trong luận án của Đặng Thanh Phương chủ yếu dừng ở góc độ nghiên cứu dân tộc học và nặng về khảo tả đúng với tính chất chuyên ngành. Công trình này được chúng tôi tiếp nhận như một tư liệu dân tộc học có giá trị gợi mở. 2.2. Nghiên cứu so sánh văn học dân gian Tày, Việt: 2.2.1. Nguyên lý lý luận chung: Đặt văn học dân gian các thành phần dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam trong bối cảnh các mối quan hệ văn hóa tộc người cũng là một định hướng chiến lược của giới nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Giới nghiên cứu ngày càng thấy rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu quan hệ lịch sử – văn hóa tộc người đối với việc nhận diện văn hóa Việt Nam nói chung. Về phương diện này, Chu Xuân Diên là nhà nghiên cứu nêu vấn đề một cách hệ thống hơn cả. Ông viết: Trong quá trình gia nhập cộng đồng quốc gia dân tộc, nếu như mỗi tộc người một mặt vẫn còn giữ lại được cho mình một căn bản văn hóa mang sắc thái tộc người riêng thì mặt khác do tác động của mối quan hệ lịch sử - tộc người, giữa các tộc người đã hình thành một căn bản văn hóa chung cho toàn thể cộng đồng quốc gia dân tộc. Căn bản văn hóa chung này là sợi dây liên kết văn hóa nói chung và văn hóa dân gian nói riêng của các tộc người thành một cấu trúc văn hóa, văn học dân gian riêng của toàn thể cộng đồng quốc gia dân tộc; nó nhào nặn lại văn hóa và văn học dân gian của mỗi tộc người, khiến cho văn hóa và văn học dân gian của mỗi tộc người đều “mang dấu ấn Việt Nam”, do đó có thể phân biệt được ngay cả với văn hóa và văn học dân gian của người đồng tộc với chính tộc người ấy ở cộng đồng chính trị- xã hội khác [32, tr.137 – 138]. Theo Chu Xuân Diên, cách tiếp cận theo hướng này có thể cho phép ta cắt nghĩa nhiều hiện tượng văn học dân gian cụ thể mà nếu không được xem xét trong bối cảnh mối quan hệ lịch sử- văn hóa tộc người thì ít có khả năng hiểu đúng [32, tr.138]. Nói cách khác, nhà nghiên cứu văn học dân gian buộc phải “đặt các hiện tượng văn hóa, văn học dân gian ấy vào trong mối quan hệ lịch sử văn hóa tộc người khác nhau ở Việt Nam để xem xét”[32, tr.143]. Như để minh họa cho nguyên tắc được xác lập trên, ông còn nêu một số hiện tượng văn hóa do các ngành khảo cổ học, dân tộc học và ngôn ngữ học cung cấp như: nhà nghiên cứu Từ Chi đã đọc thấy ở hoa văn trên cạp váy Mường một cấu trúc còn giữ được hoa văn trang trí trên trống đồng loại I; hoặc giữa hai nhóm cư dân Việt - Mường và Tày - Thái có nhiều điểm tương đồng về văn hóa sản xuất và đời sống vật chất, về văn hóa xã hội, địa bàn cư trú, tổ chức đê - thành, tổ chức gia đình, cơ cấu làng nước. Về cứ liệu văn học dân gian, Chu Xuân Diên cho biết, tuy thái độ có dè dặt hơn, nhưng giới nghiên cứu cũng đã đối chiếu nhiều đề tài và motif văn học dân gian của nhóm tộc người Việt - Mường và nhóm Tày - Thái. Chẳng hạn điều mà ông gọi là motif cấu trúc đôi (binary structure) của các truyện kể bắt nguồn từ hệ thần thoại về nguồn gốc vũ trụ và con người ở người Việt, Mường, Thái có nhiều nét tương đồng đáng để giới nghiên cứu phải quan tâm [32, tr.150]. Đồng thời, Chu Xuân Diên cũng đã chỉ ra những tiền đề cho sự hình thành tính thống nhất trong đa dạng của văn học dân gian các tộc người ở Việt Nam như: các mối quan hệ nguồn gốc lịch sử – văn hóa tộc người (các tộc người đều có chung một cơ tầng văn hóa Đông Nam Á tiền sử); quan hệ giao lưu tiếp xúc văn hóa tộc người từ thời tiền sử đến nay (các quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ); sự hình thành và phát triển của cộng đồng quốc gia dân tộc (chi phối đến sự tương đồng về đề tài và motif chung ở văn học dân gian các tộc người). Mặt khác, Chu Xuân Diên cũng khẳng định rằng cái chung và tính thống nhất “không xóa bỏ mà được thể hiện thông qua cái riêng và tính đa dạng của văn hóa, văn học dân gian từng tộc người” [32, tr.166]. Như vậy, Chu Xuân Diên là nhà nghiên cứu chú ý hệ thống hóa về mặt lý luận từ kết quả nghiên cứu của cả giới nghiên cứu văn hóa, văn học Việt Nam nhiều thập niên qua. Quả thật, những khái quát trên đây của những nhà khoa học như Nguyễn Từ Chi, Chu Xuân Diên không chỉ dựa trên kết quả nghiên cứu riêng của bản thân mà còn dựa trên nỗ lực nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian khác. Tuy vậy, ông chưa có điều kiện tiến hành nghiên cứu của riêng mình về quan hệ giao lưu tiếp biến văn hóa và văn học giữa các tộc người. 2.2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện kể dân gian Tày, Việt dưới góc nhìn mối quan hệ văn hoá tộc người : Trong di sản văn học dân gian của các tộc người thì truyện kể dân gian giữ một vai trò quan trọng, với hệ thống đề tài và motif vừa mang đặc trưng tộc người qua các phương thức biểu hiện riêng vừa mang dấu ấn chung của cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Đánh giá về thành tựu nghiên cứu văn hóa - văn học dân gian, hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã có hai công trình mang tính tổng thuật: Năm mươi năm, sưu tầm nghiên cứu phổ biến văn hoá - văn nghệ dân gian [198] và Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian [201]. Cả hai công trình đã chỉ rõ sự vận động, biến đổi của các hướng tiếp cận một số thể loại văn học dân gian theo quan điểm nghiên cứu thể loại qua lịch sử phát triển của ngành Folklore học. Trong đó có hai bài nghiên cứu đáng chú ý của Nguyễn Xuân Kính [198] và Nguyễn Thị Huế [201]. Đặc biệt là bài viết có tính tổng quan về quá trình sưu tầm, nghiên cứu truyện kể dân gian như một đơn vị thể loại nghiên cứu độc lập của Nguyễn Thị Huế đã phân tích và chỉ ra bước phát triển của quá trình nghiên cứu sưu tầm truyện cổ dân gian của người Kinh (Việt) cũng như của các tộc người khác qua từng mốc thời gian quan trọng. Nhìn lại thế kỷ XX, điều dễ thấy là ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn học dân gian Tày. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhất là sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, với chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng thì văn học dân gian của các tộc người thiểu số, đặc biệt là tộc người Tày đã được chú ý khai thác. Con số thống kê của Vũ Anh Tuấn cho thấy: trước Cách mạng Tháng Tám trong số 530 công trình, luận văn, bài viết nghiên cứu về văn học dân gian thì chỉ có 10 công trình về văn học cổ truyền miền núi trong đó chỉ có hai nghiên cứu về Tày. Từ Cách mạng Tháng Tám đến 1976 trong số 745 bài viết, công trình nghiên cứu văn học dân gian đã có 115 bài viết về văn học dân gian miền núi, trong đó có 9 công trình lấy văn học dân gian Tày làm đối tượng chính [287, tr.473]. Việc nghiên cứu văn học dân gian miền núi theo các mối quan hệ loại hình lịch sử tộc người và lấy tộc người Tày làm đối tượng, trên thực tế đã được mở đầu bằng công trình của Vi Hồng nhà nghiên cứu người Tày, vào năm 1979 với Sli, lượn dân ca trữ tình Tày – Nùng [74], một công trình khảo cứu loại hình trữ tình. Tiếp tục hướng đi của Vi Hồng, Vũ Anh Tuấn triển khai nghiên cứu truyện kể dân gian Tày, tức là đi vào lĩnh vực tự sự dân gian. Từ năm 1981 đến 1991, những bài báo của Vũ Anh Tuấn đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành từ nghiên cứu đầu tiên Thử tìm hiểu nét đặc sắc về thi pháp dân gian Tày qua việc khảo sát một số truyện cổ Tày dạng Tấm Cám [277], đến các chuyên luận Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc thù trong truyện cổ miền núi [278], Vấn đề nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian miền núi [279], Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi dưới góc độ loại hình [281]…Trong đó, tác giả luôn tuân theo một cơ sở lý luận chung dựa trên các nguyên lý nhận thức luận duy vật lịch sử về mối quan hệ lịch sử dân tộc và nghệ thuật dân gian để khẳng định một định hướng: loại hình học folklore không tách rời loại hình học lịch sử văn hoá tộc người [282, tr.7]. Nhận thức này đã kế thừa và góp phần phát triển kết quả những nghiên cứu về văn học dân gian miền núi của các tác giả đi trước như Phan Đăng Nhật, Võ Quang Nhơn… Năm 1987, Đặng Nghiêm Vạn bắt đầu công trình nghiên cứu Huyền thoại về nạn hồng thuỷ và nguồn gốc tộc người [292, tr.795 – 849]. Đây là một công trình được tiến hành trong hàng chục năm, có giá trị đích thực, có ý nghĩa sâu sắc trong việc xác định nguồn gốc tộc người và lý giải mối quan hệ văn hoá tộc người trên cơ sở dân tộc học và folklore. Chúng tôi coi những kiến giải khoa học cùng với những chứng cứ dân tộc học của ông trong công trình này như những luận đề cần thiết cho nghiên cứu của mình. Năm 1990, lần đầu tiên phương pháp loại hình học đã được Lê Chí Quế giới thiệu và phân tích cụ thể thích ứng với đối tượng của khoa học văn học dân gian ở Việt Nam [221]. Sau đó trong một bài viết khác ông đã nhấn mạnh "trong khoa học văn học dân gian ở thời đại chúng ta cần phải nghiên cứu cả quá trình lâu dài và phức tạp, tính đa dạng của các biến thể tộc người, các giai đoạn lịch sử, các vùng dân cư khác nhau" [192, tr. 224]. Quan diểm đó cũng chính là cơ sở cho thao tác nghiên cứu của chúng tôi trong khi thực hiện so sánh đối chiếu để khảo sát, thẩm định đánh giá những kiểu truyện dân gian Tày, Việt tiêu biểu với nhiều dị bản trong các cấu trúc mẫu kể xét theo các lớp văn hoá từ tầng nền, tầng trên đến tầng thêm. Năm 1991, sau hơn mười năm nghiên cứu văn học dân gian Tày, và sống ở những vùng văn hoá đậm chất Tày như Thái Nguyên, Sơn La, Cao Bằng Bắc Cạn, Lạng Sơn…Vũ Anh Tuấn đã khẳng định tính đặc sắc của văn học dân gian Tày, đặc biệt là truyện kể dân gian Tày trong luận án tiến sĩ: Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể dân gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam[282]. Chuyên luận đã nêu bật ba vấn đề có tính nguyên tắc là: 1. Nghiên cứu truyện kể dân gian Tày không tách rời việc xem xét nó dưới góc độ loại hình các mối quan hệ văn hoá tộc người. 2. Tính loại hình khu vực là một đặc điểm phổ quát trong các típ truyện kể dân gian Tày, trong đó mối quan hệ Tày Việt có ý nghĩa điều hoà lớn. 3. Phương pháp khảo sát cụ thể văn học dân gian một tộc người xét đến cùng vẫn là phải nhận diện cho được dấu hiệu thẩm mỹ đặc thù vì chức năng tộc người của văn hoá vẫn trực tiếp và bền bỉ tác động vào đời sống văn hoá một cộng đồng tộc người [282, tr.8]. Công trình của Vũ Anh Tuấn đã xây dựng được những luận điểm quan trọng có tính gợi dẫn trong vấn đề nghiên cứu truyện kể dân gian dưới góc nhìn mối quan hệ văn hoá tộc người. Tuy nhiên, do khuôn khổ yêu cầu của đề tài, tác giả mới chỉ tập trung vào khảo sát đối tượng truyện kể dân gian Tày, hoặc nếu có so sánh TàyViệt thì chỉ là một biện pháp để nhằm làm tăng tính chuyên biệt Tày. Bên cạnh Vũ Anh Tuấn còn có Hà Đình Thành, tác giả của loạt bài nghiên cứu so sánh truyện kể dân gian Tày Nùng [245 - 250]. Cũng trong lĩnh vực nghiên cứu truyện kể dân gian theo hướng so sánh loại hình văn hoá tộc người, sau đó đã xuất hiện nhiều bài nghiên cứu đáng chú ý như Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt Mường [163] của Phan Ngọc, Tìm hiểu quan hệ giữa truyện dân gian của người Tày và người Thái cổ với truyện dân gian
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan