Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ ...

Tài liệu Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, liên hệ vào lĩnh vực đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm

.PDF
88
15
68

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN GIA NINH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC, LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN, VỆ SINH THỰC PHẨM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN GIA NINH MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC, LIÊN HỆ VÀO LĨNH VỰC ĐẢM BẢO AN TOÀN, VỆ SINH THỰC PHẨM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 5 1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật 5 1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức 5 1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật 10 1.2. Khái niệm đạo đức và pháp luật 11 1.2.1. Khái niệm đạo đức 11 1.2.2. Khái niệm pháp luật 15 1.3. Bản chất của đạo đức và pháp luật 16 1.3.1. Bản chất của đạo đức 16 1.3.2. Bản chất của pháp luật 21 1.4. Vai trò của đạo đức và pháp luật đối với xã hội 23 1.4.1. Vai trò của đạo đức 23 1.4.2. Vai trò của pháp luật 26 1.4.2.1. Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước 26 1.4.2.2. Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế xã hội 27 1.4.2.3. Pháp luật góp phần tạo dựng những quan hệ mới 28 1.4.2.4. Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia 28 Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 29 TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 2.1. Khái quát về Nhà nước pháp quyền 29 2.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền 29 2.1.2. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền 31 2.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền 35 2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật 39 2.2.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật 41 2.3. Thực trạng mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong điều kiện nền kinh tế thị trường 48 Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ XÃ HỘI VÀ ĐẢM 54 BẢO VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM BẰNG PHÁP LUẬT, KẾT HỢP VỚI ĐẠO ĐỨC TRONG BỐI CẢNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ HỘI NHẬP 3.1. Thực trạng vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại Việt Nam 54 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức 62 3.2.1. Giải pháp tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật 62 3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế 63 3.2.1.2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa 64 3.2.1.3. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật 64 3.2.1.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật 65 3.2.2. Giải pháp ghi nhận đạo đức nhiều hơn vào các văn bản pháp luật 66 3.3. Giải pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm 71 KẾT LUẬN 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cùng với Nhà nước, pháp luật là yếu tố ra đời sớm nhất trong một hình thái kinh tế xã hội. Điều này phần nào thể hiện được tầm quan trọng của pháp luật đối với xã hội. Bởi vậy, mỗi nhà nước trong quá trình phát triển luôn chú trọng xây dựng và sửa đổi để có được hệ thống pháp luật hoàn thiện. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật có thể coi là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia. Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật do đó xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện chính là góp phần trực tiếp nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là pháp luật là công cụ duy nhất giúp Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước còn có thể quản lý xã hội bằng các công cụ khác như: công cụ kinh tế, công cụ đạo đức… Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các mối quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều và đa dạng, điều này đòi hỏi Nhà nước phải luôn luôn nâng cao hiệu lực quản lý của các công cụ đã có và sử dụng thêm những công cụ mới. Một trong những công cụ được sử dụng phổ biến và có ý nghĩa lớn đó là công cụ đạo đức. Đây là công cụ có bề dày lịch sử, bắt nguồn từ tư tưởng Đức trị của Nho giáo mà người khởi xướng là Khổng Tử, được phát triển tương đối hoàn chỉnh và trở thành đường lối nhân chính dưới thời Mạnh Tử. Tư tưởng này vẫn luôn được kế thừa và phát triển qua các thời đại, song song tồn tại và cùng phát triển với tư tưởng pháp trị. Tại Việt Nam, tư tưởng này được thể chế hóa trong các quy định của pháp luật, thể hiện ở vai trò của đạo đức đối với việc quản lý xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với xã hội Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, điều này khiến vấn 1 đề đạo đức trở thành vấn đề cần được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đạo đức và Pháp luật thực sự gắn kết với nhau và phát huy được hiệu quả quản lý xã hội một cách tốt nhất. Với trăn trở đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề: "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh vực bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật không phải là vấn đề mới mẻ, tuy nhiên số lượng các công trình nghiên cứu về vấn đề này lại chưa nhiều, có thể kể đến một số công trình như: "Quyền lực và đạo đức" của PGS.TS Bùi Đình Phong đăng trên Báo Lao động ngày 19/07/2009; "Quan điểm mácxít về mối quan hệ Đạo đức - Chính trị - Pháp quyền" của Đỗ Hữu Nhân, đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 07/07/2005; "Các kiểu đạo đức trong lịch sử, tính kế thừa của sự phát triển đạo đức" của Đoàn Hữu Lượng, đăng trên Tạp chí Triết học, số ra ngày 14/08/2008; "Quan hệ pháp luật và đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh" của ThS. Trần Nghị - Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ; … Tuy nhiên, các bài viết này chỉ đơn thuần đề cập tới những nét cơ bản của vấn đề đạo đức và vấn đề pháp luật mà chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu sắc về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, vai trò của đạo đức và pháp luật trong đời sống xã hội, thực trạng vấn đề đạo đức và pháp luật, từ đó thấy được những bất cập của hai vấn đề trên và đưa ra giải pháp khắc phục những bất cập ấy. Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau: 2 - Làm rõ một số vấn đề lý luận về đạo đức và pháp luật như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội nước ta, liên hệ với vấn đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm. - Đưa ra các giải pháp về mặt đạo đức và pháp luật nhằm đảm bảo vấn đề an toàn, vệ sinh thực phẩm nói riêng và đảm bảo hiệu quả quản lý xã hội của đạo đức và pháp luật nói chung. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật, mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật. Về đề tài "Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, liên hệ vào lĩnh vực bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm" có nhiều vấn đề cần bàn luận, tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ một luận văn thạc sĩ chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của đạo đức và pháp luật; mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật; nêu lên và phân tích thực trạng đạo đức và pháp luật trong xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện qua vấn đề đảm bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội của đạo đức và pháp luật. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải … 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo có tính hệ thống về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. Luận văn có những điểm mới sau: 3 - Phân tích, làm sáng tỏ khái niệm đạo đức và khái niệm pháp luật. - Phân tích, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật. - Nêu lên được thực trạng vấn đề đạo đức và pháp luật của nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đưa ra được dẫn chứng sinh động nhằm minh họa. - Đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh xã hội của đạo đức và pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đạo đức và pháp luật. Chương 2: Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý xã hội và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm bằng pháp luật, kết hợp với đạo đức trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập. 4 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT 1.1. Nguồn gốc của đạo đức và pháp luật Khi tìm hiểu về bất kỳ vấn đề, yếu tố nào trong xã hội, điều trước tiên cần quan tâm đó là nguồn gốc hình thành, cơ sở của nó. Nhờ đó, ta có được cái nhìn sơ bộ, tổng quan nhất về sự vật, hiện tượng đồng thời thấy được tiến trình phát triển của chúng. 1.1.1. Nguồn gốc của đạo đức * Quan điểm về nguồn gốc đạo đức của các nhà triết học trước Mác: Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và duy vật) đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực khách quan. Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó. Những chuẩn mực đạo đức, do vậy là những chuẩn mực do thần thánh tạo ra để răn dạy con người. Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự thể hiện cái thiện tối cao từ đấng siêu nhiên; và tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự phán xét của đấng siêu nhiên đó. 5 Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới "ý niệm" hoặc "ý niệm tuyệt đối", về các lý giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy. Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực "tiên thiên" của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là "thiện ý" theo cách gọi của Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa là có trước và độc lập với những hoạt động mang tính xã hội của con người. Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L.Phoi-ơ-bắc đã nhìn thấy đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con người chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại. Những người theo quan điểm Đác Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy vật bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, từ xã hội. * Quan điểm mácxít về nguồn gốc của đạo đức: Khác với tất cả các quan niệm trên, Mác - Ăngghen đã quan niệm đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử. Theo Mác, Ăngghen, con người khi sống phải có "quan hệ song trùng". Một mặt, con người quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên để thỏa mãn cuộc sống của mình. Tự nhiên không thỏa mãn con người, điều đó buộc con người phải xông vào tự nhiên để thỏa mãn mình. Mặt khác, khi tác động vào tự nhiên, con người không thể đơn độc, con người phải quan hệ với con người để tác động vào tự nhiên. Sự tác động lẫn nhau giữa người và người là hệ quả của hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần mà cơ bản là hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. 6 Khi bàn về vai trò của lao động đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người, Mác, Ăngghen cho rằng "lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người" [22, tr. 641]. Rằng "người ta phải ăn, ở, mặc, đi lại trước khi làm chính trị, khoa học, nghệ thuật…" [21, tr. 15]. Xuất phát từ con người thực tiễn, chứ không phải con người thuần túy ý thức hay con người sinh học, hai ông đi đến quan niệm về phương thức sản xuất quyết định đối với toàn bộ các hoạt động của con người, xã hội loài người. Trong "Lời tựa" của tác phẩm "Góp phần phê phán chính trị - kinh tế học", Mác viết: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [21, tr. 15]. Luận điểm này chính là chìa khóa để khám phá tất cả các hiện tượng xã hội trong đó có đạo đức. Như vậy, đạo đức không là sự biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã hội, bên ngoài các quan hệ con người; cũng không phải là sự biểu hiện của những năng lực "tiên thiên", nhất thành bất biến của con người. Với tư cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. "Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ" [22, tr. 137]. Những phong tục đạo đức của người nguyên thủy, đời sống của xã hội văn minh là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và các hoạt động nhận thức của xã hội đó. Sự phát triển từ phong tục đạo đức của người nguyên thủy đến ý thức đạo đức của xã hội văn minh là kết quả của sự phát triển từ thấp đến cao của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. Xã hội Cộng sản nguyên thủy là bước đầu tiên con người thoát khỏi trạng thái động vật. Hoạt động thực tiễn của xã hội hết sức thấp kém, chưa tạo nên sản phẩm thặng dư, và do đó, tư hữu và chế độ tư hữu chưa có tiền đề khách 7 quan để xuất hiện. Trong xã hội chưa có hiện tượng áp bức xã hội, nhưng con người vẫn bị nô dịch bởi những lực lượng tự phát của tự nhiên. Tuy nhiên, xã hội nguyên thủy đã đem lại nội dung "ngây thơ" "thuần phác" nhưng "tốt đẹp thơ mộng" cho đạo đức người nguyên thủy. Đạo đức này chưa biết nói đến thói xấu, cái ác trong xã hội văn minh. Đây là "ý thức bầy đàn đơn thuần" của "bản năng được ý thức". Ý thức đạo đức chưa tách ra thành hình thái độc lập. Đạo đức của con người nguyên thủy là hình thái sinh thành trừu tượng của đạo đức. Hình thái của nó cũng trừu tượng và không có tính duy lý. Những hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp tạo nên những cơ sở kinh tế, xã hội và tinh thần cho sự phát triển ý thức đạo đức. Những hệ thống đạo đức của các giai cấp khác nhau và đối nghịch nhau đều lấy "những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi" [22, tr. 136]. Những hệ thống đạo đức đó phản ánh và điều chỉnh những quan hệ xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp, trong khi ý thức nói chung và đạo đức nói riêng của người nguyên thủy chỉ phản ánh hoàn cảnh gần nhất có thể cảm giác được. Đạo đức đã tự khẳng định mình là một hình thái ý thức xã hội, là lĩnh vực sản xuất tinh thần của xã hội. Đây là một bước tiến, làm đạo đức phát triển so với xã hội nguyên thủy. Tuy nhiên, bước phát triển này cũng làm nảy sinh những cái ác, tham lam, ích kỷ, lừa dối… mà loài người phải đấu tranh hàng ngàn năm nay để chống lại nó. Về mặt hình thức, đạo đức của xã hội văn minh đã phát triển vượt bậc. Do nhận thức của loài người vượt bỏ tư duy cụ thể, chuyển sang xây dựng lý luận… Nội dung đạo đức được thể hiện dưới hình thức kinh nghiệm, khái niệm, lý tưởng, chuẩn mực và đánh giá đạo đức, do đó đạo đức ngày càng phát triển về cấu trúc. Và đến lượt mình, sự hoàn thiện cấu trúc làm cho phản ánh và điều chỉnh đạo đức trở nên sâu sắc, tự giác. Nội dung của đạo đức được thể hiện dưới những hình thức cụ thể. 8 Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp, nội dung và hình thức của đạo đức phát triển nhưng chưa thật nhân đạo, chưa hoàn thiện. Sự hoàn thiện của nội dung đạo đức (thật sự nhân đạo) chỉ có thể đạt được khi con người chiến thắng được tình trạng đối kháng giai cấp và tạo ra những điều kiện để có thể "quên được tình trạng đối kháng giai cấp". Điều kiện đó chỉ có thể bắt đầu có được bằng đạo đức cộng sản trong xã hội cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự hoàn thiện đạo đức được bắt đầu từ đạo đức của giai cấp công nhân "có nhiều nhân tố hứa hẹn" để dẫn tới một kiểu đạo đức "thật sự có tính nhân đạo". Như vậy, xã hội cộng sản nguyên thủy với trình độ bắt đầu làm nảy sinh đạo đức do hoạt động thực tiễn và nhận thức đã phát triển đạo đức. Xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai mà hiện thực hôm nay đang bắt đầu xây dựng sẽ hoàn thiện đạo đức cả về nội dung lẫn hình thức. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó mà ngày càng phát triển, ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp. Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ người - người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng có đạo đức. Đạo đức "đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" [20, tr. 43]. Nhìn chung, về nguồn gốc của đạo đức có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm đều đưa ra những lý giải biện minh cho ý kiến của mình. Tuy nhiên, chúng tôi ủng hộ quan điểm mácxít và cho rằng đây là quan điểm khoa học nhất về nguồn gốc của đạo đức. 9 1.1.2. Nguồn gốc của pháp luật Theo học thuyết Mác - Lênin nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử có cùng quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, do đó những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy không có nhà nước bởi vậy không có pháp luật, nhưng xã hội cộng sản nguyên thủy cần đến quy tắc để điều chỉnh hành vi con người duy trì trật tự xã hội đó, bởi vậy đã xuất hiện các quy tắc xã hội bao gồm tập quán, tín điều, tôn giáo. Tập quán này được mọi người thi hành một cách tự nguyện theo thói quen không cần cưỡng chế, ép buộc. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng, nhà nước xuất hiện, cùng với nó pháp luật cũng được hình thành để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước. Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Pháp luật đầu tiên của xã hội loài người là pháp luật của nhà nước chủ nô. Có thể nói pháp luật hình thành từ các con đường: Nhà nước thừa nhận những quy tắc vốn tồn tại trong xã hội và cải tạo những quy tắc đó cho phù hợp với lợi ích của nhà nước (tập quán Pháp, án lệ) Thông qua con đường hoạt động xã hội, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tế mà trước đó không có. Bằng các con đường này, pháp luật được hình thành và thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội theo sự quản lý của nhà nước. Dù được hình thành bằng con đường nào thì pháp luật cũng thể hiện ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội, thể hiện bản chất của nhà nước đó và phù hợp với cấu trúc của nhà nước đó. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, pháp luật ngày càng được chú trọng và hoàn thiện. Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thể 10 hiện sự phát triển của một đất nước, nó cũng là tiêu chí đánh giá một xã hội văn minh. 1.2. Khái niệm đạo đức và pháp luật 1.2.1. Khái niệm đạo đức Đạo đức là một khái niệm mang tính trừu tượng cao, với mỗi cách nghĩ, tư tưởng khác nhau sẽ có quan điểm khác nhau về khái niệm đạo đức. Chỉ riêng trong lĩnh vực triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm đạo đức. Với Khổng Tử, đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói đến đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết: "Làm người có nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân..." [5, tr. 23]. Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử. "Nhưng thời đó nó trỏ cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người. Người có phận cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị dân, có đức hay không đều gọi là quân tử" [6, tr. 12]. Đến thời mình, Khổng Tử đã đề ra những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để thành người quân tử đáng được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng quân tử không còn thuần túy chỉ người cầm quyền như trước nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ người có đức dù họ cầm quyền hay không. Như trên ta thấy, với Khổng Tử, hiếu, đễ là gốc của đạo đức. Làm người trước hết phải có hiếu nghĩa, phải đền ơn sinh thành. Chính vì vậy ông từng mắng Tể Dư là bất nhân, bất hiếu không nhớ công cha mẹ bồng bế ba năm, mà muốn rút thời gian để tang từ ba năm xuống một năm: "Dư là đứa bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi bồng bế. Dư nó có được cha mẹ bồng bế trong ba năm hay không?" [7, tr. 42]. Khổng Tử đề cao đức hiếu bởi vì làm người phải có lòng kính yêu cha mẹ và người thân trong 11 nhà, thì mới biết yêu thương người ngoài, yêu thương đồng loại. Và làm người theo Khổng Tử trước hết phải có "đức", tu dưỡng "đức" rồi mới học văn. Đạo hiếu quan trọng như vậy, nhưng như thế nào là hiếu? Hãy xem Khổng Tử trả lời Tử Du hỏi về đạo hiếu: "Ngày nay người ta cho hiếu là có thể nuôi cha mẹ, nhưng đến chó ngựa kia người ta cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác gì?" [8, tr. 38]. Như vậy, theo Khổng Tử, hiếu đức không phải chỉ là nuôi dưỡng cha mẹ mà là chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ với sự thành kính, sự yêu thương thật sự. Mặc dù coi trọng hiếu đức như vậy nhưng quan niệm của Khổng Tử không khắt khe, nghiệt ngã, một chiều mà rất đúng mực "Thờ cha mẹ, nên nhỏ nhẹ khuyên can; nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc, lo buồn nhưng không được oán hận" [14, tr. 49]. Sau hiếu, đễ, nói đến "đức" là nói đến tính thiện. Khổng Tử quan niệm: "Bản tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng không đạt được mức tinh vi của đạo. Người có "đức", có tính thiện thì "thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo không kịp, thấy việc bất thiện thì như nhúng tay vào nước sôi" [16, tr. 56]. Nhưng điều chủ yếu "đức" không phải chỉ là thiện đức mà là hành động. Khổng Tử nói: "Biết (đạo lý) không bằng thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó" và "nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi đó là những mối lo của ta". Như vậy, đức là lời nói đi đôi với việc làm đúng như Khổng Tử đã nói: "Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" và "Người quân tử chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau mắn về việc làm". Đọc "Luận ngữ", chúng ta thấy Khổng Tử nói rất nhiều đến "đức", nhất là "đức" của người cầm quyền. Song đáng chú ý là Khổng Tử quan niệm về "đức" không phải như một cái gì biệt lập mà là trong sự thống nhất chặt chẽ không tách rời với tri thức, tài năng. Quan niệm này thực sự nhất quán từ Khổng Tử đến các môn đệ của ông. Với Khổng Tử thì "chất phác thẳng thắn 12 văn nhã thì là người quê mùa; văn nhã thẳng thắn chất phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư); văn và chất đều nhau mới là người quân tử" [15, tr. 37]. Là người hết sức coi trọng đạo đức như vậy đương nhiên, trong hoạt động của mình Khổng Tử bao giờ cũng hành xử theo đúng những chuẩn mực đạo đức mà ông tôn thờ, coi trọng và ra sức tuyên truyền nó trong xã hội, cho dù đời ông như chúng ta biết hết sức long đong, lận đận. Khổng Tử cho rằng: "Người có đức thì không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì có láng giềng ở đó" [42, tr. 28]. Với ông "sáng được nghe đạo lý, tối chết cũng được (không hận)". Bởi vậy, lẽ sống của Khổng Tử là "để tâm chí vào đạo, giữ gìn đức hạnh, nương theo điều nhân, vui với lục nghệ". Chính vì thế mà khi gặp nguy ở nước Tống bị quan tư mã là Hoàn Khôi tìm cách hãm hại, Khổng Tử thản nhiên nói: "Trời cho ta có phẩm đức, Hoàn Khôi làm gì được ta", hoặc khi ông đau nặng, Tử Lộ xin phép cầu đảo, Khổng Tử nói: "Khâu này cầu đảo từ lâu rồi" (ý nói ăn ở phải đạo thì chẳng cần phải cầu đảo). Thế mới biết ông tin và coi trọng đạo đức đến mức nào. Điều dễ nhận thấy là tuy Khổng Tử nói nhiều về "đức", tin vào "đức" và đề cao về "đức" như vậy, nhưng ông cũng nhận thấy rằng, xã hội thời ông đang thiếu "đức" một cách nghiêm trọng. Chính là thực tế xã hội và cuộc sống đã khiến ông phải buông ra những lời than thở: "Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc", "Học ba năm mà không có ý cầu bổng lộc, dễ được mấy người?" và "Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu rồi, người ta ít có đức đó". Ngay đối với lớp học trò được ông đào tạo theo lý tưởng đạo đức của mình, Khổng Tử cũng phải thừa nhận: "Anh Hồi (Nhan Uyên) lòng ba tháng không lìa đạo nhân, còn các anh khác chỉ được một ngày, một tháng là cùng". Có lần ông nói với Tử Lộ rằng: "... người biết đạo đức (nghĩa lý) ít lắm". Sống trong một xã hội "vô đạo", loạn lạc như vậy, một xã hội mà đầy rẫy những cảnh phản loạn, tàn bạo, dâm bôn, đạo đức suy vi, phần nhiều giả dối, 13 nói mà không làm, nhưng Khổng Tử với lòng yêu thương con người thắm thiết, vẫn tin ở con người, tin ở học thuyết của mình có thể cứu vớt cuộc đời. Với ông: "Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải đổi nữa” [16, tr. 63]. Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi nhận xét rằng: “Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, phải giáo hóa dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị, ông đã đạo đức hóa chính trị. Và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người trị dân, phải trị dân bằng đức, chứ không bằng bạo lực...” [16, tr. 76]. Thật vậy, Khổng Tử thật sự tin rằng, "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hóa dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)" [16, tr. 89]. Cơ sở tư tưởng "Đức trị" của ông suy đến cùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể cảm hóa được. Ông quan niệm phép trị dân "cần gì phải dùng biện pháp giết người?... Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của dân như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống" [16, tr. 89]. Khổng Tử từng bảo với học trò: "Xử kiện thì ta cũng như người khác thôi; phải làm sao (dạy dân phải biết nghĩa vụ nhường nhịn) cho dân không kiện nhau (thì mới hơn chứ)". Đọc "Luận ngữ" chúng ta thấy rõ, trước sau Khổng Tử chỉ tin vào đức chứ không tin vào "hình" bởi "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính". Tin vào "Đức trị" như vậy và cả đời ôm mộng cứu đời bằng "Đức trị" như Khổng Tử mà không có bậc vua chúa 14 nào dung nạp. Khổng Tử thật sự tin rằng: nếu có ai dùng ông làm quốc chính" thì một năm kỷ cương đã khá, ba năm sẽ thành công". Tóm lại, với Khổng Tử, "Đức trị" có sức mạnh vạn năng. Đó là đường lối "dù không ra lệnh dân cũng theo", như vua Thuấn chỉ kính cẩn đoan trang ngồi trên ngai, chẳng làm gì mà thiên hạ bình trị. Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm đạo đức cũng được đề cập đến tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng" [38]. Như vậy, có thể thấy đạo đức được hình thành qua quá trình phát triển lâu dài của xã hội và phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội. Cùng với thời gian, quan điểm về đạo đức cũng có những biến đổi nhất định sao cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Đạo đức không mang tính cưỡng chế, áp đặt và không phải do Nhà nước đặt ra giống như pháp luật, đạo đức do chính những cá thể trong xã hội tạo nên và nó được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó có sức sống mạnh mẽ và được củng cố bởi dư luận xã hội. Trong văn hóa người Việt nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, dư luận xã hội và những phong tục, tập quán đôi khi có ảnh hưởng và sức mạnh hơn cả pháp luật. "Phép vua thua lệ làng" - đây là tư tưởng đã ăn sâu, bám rễ vào tâm trí người Việt xưa và đến nay nó vẫn còn mang ảnh hưởng không nhỏ. Nhìn chung, khác với pháp luật, đạo đức được duy trì và bảo tồn nhờ những công cụ vô hình mang tính chất tinh thần, điều này tạo nên nét đặc trưng rất riêng của đạo đức mà không bất kỳ hình thái xã hội nào khác có được. 1.2.2. Khái niệm pháp luật Pháp luật là yếu tố xuất hiện sau khi hình thành nhà nước, là công cụ do nhà nước tạo ra để quản lý xã hội. Mỗi nhà nước khác nhau sẽ có hệ thống pháp luật mang bản chất khác nhau. 15 Hệ thống pháp luật của các nhà nước được hình thành dần dần từng bước phụ thuộc vào những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng nói chung, giai cấp thống trị đều tìm cách vận dụng các tập quán để phục vụ lợi ích của giai cấp mình, dần dần thay đổi nội dung của các tập quán và bằng con đường nhà nước nâng chúng thành các quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp luật của các nước còn được hình thành từ một nguồn khác, đó là các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành. Việc chuyển hóa các tập quán để nâng chúng thành luật chỉ là một bộ phận trong sự hình thành hệ thống pháp luật của các nhà nước. Những mối quan hệ phức tạp mới phát sinh trong xã hội, đòi hỏi phải có các quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật của các nhà nước ra đời. Tuy nhiên, hoạt động này lúc đầu còn đơn giản, phiến diện, nhiều quy định của các cơ quan tư pháp, tòa án đã có ý nghĩa như những nguyên tắc chung, những quy định chung. Hệ thống pháp luật được hình thành dần cùng với sự phát triển của nhà nước và hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan trung ương. Như vậy, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. 1.3. Bản chất của đạo đức và pháp luật 1.3.1. Bản chất của đạo đức Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc của đạo đức đã khẳng định đạo đức không phải từ sự "tiên nghiệm" càng không phải là lực lượng từ bên ngoài ấn vào xã hội, đạo đức là sản phẩm của xã hội. Đạo đức là lĩnh vực của quan hệ thật sự con người. Trong khi phát triển với tính cách là thực thể xã hội, con người lựa chọn và chịu trách nhiệm với sự lựa chọn, với hậu quả của những sự lựa chọn đối với hành vi ứng xử người - người. Tự do lựa chọn và sự lựa chọn có trách nhiệm nảy sinh trong 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan