Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa fdi và tăng trưởng kinh tế ở việt nam sau khủng hoảng 2008...

Tài liệu Mối quan hệ giữa fdi và tăng trưởng kinh tế ở việt nam sau khủng hoảng 2008

.PDF
83
279
103

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------- CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƢỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN “NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2012” TÊN CÔNG TRÌNH: MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM HẬU KHỦNG HOẢNG 2008 THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ ii MỤC LỤC 1. Lời mở đầu ............................................................................................................................. 1 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trƣớc đây..................................................................... 3 2.1 Những nhân tố nào dẫn dắt các dòng FDI đến với các nƣớc thu nhập thấp? ........................3 2.2 Tác động của FDI lên tăng trƣởng kinh tế .................................................................................6 3. Phƣơng pháp luận ............................................................................................................... 12 3.1 Những nhân tố nào dẫn dắt các dòng FDI đến với Việt Nam?...............................................12 3.1.1 Mô hình:................................................................................................................................12 3.1.2 Phương pháp lấy số liệu:.......................................................................................................14 3.1.2.1 Phương pháp đo lường sản lượng tiềm năng:.............................................................................. 15 3.2.1.2 Phương pháp lấy số liệu về chỉ số rủi ro quốc gia ....................................................................... 22 3.2 FDI và tác động tăng trƣởng ....................................................................................................24 3.2.1 Mô hình.................................................................................................................................24 3.2.1.1 Tác động FDI ở VN .................................................................................................................... 25 3.2.1.2 Tác động của ngưỡng (Threshold Effects) .................................................................................. 26 3.2.1.3 Mô hình Var: ............................................................................................................................... 28 3.2.2 Phương pháp lấy số liệu:.......................................................................................................28 4. Nội dung và kết quả nghiên cứu ......................................................................................... 29 4.1 Kết quả những nhân tố nào có tác động dẫn dắt các dòng FDI đến Việt Nam .....................29 4.1.1 Kết quả hồi quy OLS: ...........................................................................................................29 4.1.2 Kiểm định củng cố kết quả (robustness test) ........................................................................40 4.1.3 Tác động của suy thoái: ........................................................................................................45 4.2 FDI và tăng trƣởng kinh tế Việt Nam.......................................................................................48 4.2.1 Kiểm định nghiệm đơn vị: ....................................................................................................48 4.2.2 Mô hình hồi quy:...................................................................................................................49 4.2.3 Tác động của ngưỡng............................................................................................................62 4.2.4 Mô hình VAR .......................................................................................................................65 4.2.4.1 Kiểm định đồng liên kết: ............................................................................................................. 66 4.2.4.2 Mô hình VAR ............................................................................................................................. 67 4.2.4.3 Kiểm định Granger...................................................................................................................... 68 4.2.5. Hạn chế: ...............................................................................................................................71 5. Kết luận ................................................................................................................................ 72 5.1 Các giải pháp thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài FDI cho Việt Nam ..........................................72 5.2 Làm sao để FDI trở thành động lực thúc đẩy tăng trƣởng hiệu quả..........................................73 Phụ lục Tài liệu tham khảo iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CBO ........................... Văn phòng ngân sách quốc hội Mỹ CPI ............................. Chỉ số giá cả tiêu dùng EU............................... Liên minh Châu Âu FDI ............................. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp GDP ............................ Tổng sản phẩm quốc gia GMM ......................... Generalized Method of Moment System Estimation IMF ............................ Quỹ tiền tệ quốc tế ICRG .......................... Chỉ số đo lường rủi ro quốc gia OECD......................... Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới OLS ............................ Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất WB ............................. Ngân hàng thế giới VAR ........................... Mô hình tự hồi quy vecto VECM ........................ Mô hình tự hiệu chỉnh sai số vecto DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: GDP tiềm năng của tất cả các nước cần khảo sát ........................................ 19 Bảng 3.2: Bảng mô tả biến ............................................................................................ 29 Bảng 4.1: Bảng kết quả hồi quy 1 ................................................................................. 30 Bảng 4.2: Kết quả kiểm định B-G.................................................................................. 32 Bảng 4.3: Hệ số thống kê theo tiêu chuẩn ADF ............................................................ 33 Bảng 4.4: Bảng sai phân các biến ngẫu nhiên .............................................................. 33 Bảng 4.5: Bảng kết quả kiểm tra đồng liên kết của các biến ........................................ 34 Bảng 4.6 : Kết quả mô hình VECM với các hệ số của biến nội sinh............................. 37 Bảng 4.7 : Hiệu chỉnh phần dư trong mô hình VECM .................................................. 38 Bảng 4.8: Sai phân cho các biến .................................................................................. 41 Bảng 4.9: Kết quả kiểm định Granger .......................................................................... 43 Bảng 4.10: Kết quả mô hình VECM với hệ số của các biến nội sinh và hiệu chỉnh phần dư của mô hình. ......................................................................................................................... 44 Bảng 4.11: Kết quả của mô hình VECM khi xem xét tác động của suy thoái ............... 46 Bảng 4.12: Hiệu chỉnh sai số của mô hình VECM ........................................................ 47 Bảng 4.13: Kết quả kiểm định tính dừng bằng kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test) ................................................................................................................................................... 49 Bảng 4.14: Kết quả hồi quy biến tăng trưởng bằng GMM (1) ...................................... 50 Bảng 4.15: Kết quả kiểm định Wald Test ...................................................................... 51 Bảng 4.16: Kết quả hồi quy biến tăng trưởng bằng GMM (2) ...................................... 52 Bảng 4.17: Ma trận phương sai – hiệp phương sai....................................................... 54 Bảng 4.18: Kết quả hồi quy tăng trưởng bằng GMM cho mẫu trước năm 2008 (1) .... 55 Bảng 4.19: Kiểm định Wald Test cho mẫu trước năm 2008 (1) .................................... 55 Bảng 4.20: Kết quả hồi quy tăng trưởng bằng GMM cho mẫu trước năm 2008 (2) .... 56 vi Bảng 4.21: Ma trận phương sai – hiệp phương sai cho mẫu trước năm 2008 ............. 57 Bảng 4.22: Bảng tóm tắt lại 10 phương trình hồi quy cho các ngưỡng ........................ 62 Bảng 4.23: Kiểm định tính đồng liên kết trong mô hình. .............................................. 66 Bảng 4.24: Kết quả mô hình VAR ................................................................................. 67 Bảng 4.24: Kiểm định nhân quả Granger ứng với 2 độ trễ. ......................................... 68 DANH MỤC HÌNH Hình 3.1: Bộ lọc chuỗi Hodrick-Prescott của Trung Quốc và Anh .............................. 18 Hình 4.1: Lược đồ phần dư của các chuỗi số liệu......................................................... 40 Hình 4.2 : Đồ thị phần dư của mô hình ......................................................................... 45 Hình 4.3: Đồ thị phần dư............................................................................................... 53 Hình 4.4: Đồ thị phần dư cho mẫu trước năm 2008 ..................................................... 57 Hình 4.5: Cơ cấu vốn FDI theo ngành giai đoạn 1988 – 2007 ..................................... 61 Hình 4.6: Kết quả kiểm định phần dư ........................................................................... 70 viii TÓM TẮT Bài nghiên cứu với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, trước và sau khủng hoảng, xoay quanh hai vấn đề chính yếu, một là những yếu tố nào có vai trò trong việc định hướng dòng FDI vào Việt Nam, hai là FDI có tác động ra sao lên tăng trưởng Việt Nam để từ đó có thể rút ra các biện pháp thu hút vốn FDI hiệu quả cũng như làm cho FDI có tác động tích cực lên tăng trường kinh tế. Bài nghiên cứu đạt được một số kết quả đáng chú ý. Với câu hỏi, yếu tố nào tác động lên dòng vào FDI của Việt Nam, bằng phương pháp nghiên cứu được hỗ trợ bởi mô hình hồi qui OLS đã cho kết quả đi từ đúng như dự đoán như ảnh hưởng của GDP nước đi đầu tư lên FDI là tích cực cho đến những kết quả bất ngờ rằng dòng vào FDI của Việt Nam đi ngược với GDP của chính nước mình hay lãi suất thực RIR của nước đi đầu tư tăng lại có tương quan dương với FDI vào Việt Nam. Khi sử dụng mô hình VECM để kiểm tra tác động của suy thoái lên chiều quan hệ này, một điều thú vị mà tôi tìm được phải kể đến kết quả rằng “khi suy thoái, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam nhiều hơn so với khi không suy thoái”. Đồng thời khi kiểm định thực nghiệm chiều ngược lại của mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam, khi mà tăng trưởng đóng vai trò là một biến phụ thuộc, sử dụng mô hình GMM, cho thấy rằng hệ số tương quan của FDI là âm. Từ đó, tạo điều kiện cho bài nghiên cứu đi sâu vào phân tích tác động “ngưỡng” – một trong những phương pháp nghiên cứu của bài. 1 1. LỜI MỞ ĐẦU Thập kỉ vừa qua đã chứng kiến một sự gia tăng chưa từng thấy của các dòng FDI vào các nước thu nhập nhập thấp. Sự dấy lên của dòng vào được qui cho thanh khoản toàn cầu phong phú và sự gia tăng trong giá cả hàng hóa, kết hợp với nền tảng kinh tế tốt hơn và những cải cách thị trường phương Đông ở nhiều quốc gia thu nhập thấp. Tuy nhiên, sự công phá của suy thoái tài chính toàn cầu đã thay đổi bức tranh đó. Hoạt động kinh tế ở hầu hết các nước phát triển – nguồn chính của FDI – đã thu nhỏ lại đáng kể, trong khi sự căng thẳng của điều kiện tín dụng toàn cầu đã kìm hãm khả năng tài trợ của các tổ chức đa quốc gia và làm gia tăng ác cảm với rủi ro. Khôi phục kinh tế ở các nước phát triển được trông chờ sẽ rất chậm chạp và thanh khoản toàn cầu càng thêm khó khăn và ít phong phú trong những năm sắp tới. Cạnh tranh giữa những nước đang phát triển để thu hút FDI sẽ có thể trở nên ác liệt hơn so với những năm trước đó. Trong khi FDI từ những thị trường mới nổi, một nguồn quan trọng của FDI đang tăng lên của các nước thu nhập thấp, được mong chờ sẽ có khả năng phục hồi nhanh, tổng thể dòng FDI đến các nước thu nhập thấp có thể thấp đáng kể so với trước khủng hoảng (WB 2010). Những vấn đề này đặt ra những câu hỏi quan trọng và những thay đổi chính sách cho các nước thu nhập thấp. Rằng FDI là một hình thức có sức ảnh hưởng to lớn của dòng vốn vào của các nước thu nhập thấp , một sự đảo ngược trong những dòng này không chỉ tác động trực tiếp lên nhu cầu tài trợ bên ngoài, mà còn có một ảnh hưởng lên đầu tư và phát triển (IMF 2010). Trong năm 2011, vốn FDI đăng ký và tăng thêm của Việt Nam đạt 14,7 tỷ USD, chỉ bằng 74% năm 2010. Sang 2012, phần FDI thực hiện dự kiến vẫn duy trì 11 tỷ USD. Lý giải cho sự sụt giảm vốn đăng ký năm vừa qua, một phần do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới. Hòa vào xu hướng chung của dòng FDI nói chung, và dòng FDI vào các nước thu nhập thấp nói riêng, có thể thấy được FDI vào Việt Nam đã giảm sút. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng của Việt Nam, nhất là trong thời kì hậu suy thoái còn nhiều khó khăn này hay không? Dựa vào các nghiên cứu trên Thế 2 giới về vấn đề này, tôi thực hiện bài nghiên cứu nhằm tìm kiếm câu trả lời cho hai vấn đề lớn như đã trình bày ở phần tóm tắt. Trên cơ sở đó, bài nghiên cứu sẽ chia thành năm phần chính. Mở đầu bài nghiên cứu, tôi sẽ trình bày một cách ngắn gọn mục tiêu nghiên cứu và những kết quả đạt được như trên. Nội chung nghiên cứu chính, tức là các phần trình bày sẽ được tóm tắt trong phần giới thiệu, cũng như vấn đề tại sao phải nghiên cứu đề tài đó. Phần thứ hai là phần trình bày các nghiên cứu và các kết quả đã đạt được trước đây. Đây là bài nghiên cứu mối quan hệ có tính hai chiều, một chiều FDI là biến phụ thuộc, trong các biến độc lập có biến tăng trưởng của nước phát triển – nước đi đầu tư và cả nước chủ nhà – Việt Nam; chiều còn lại tăng trưởng của Việt Nam sẽ là biến phụ thuộc và FDI là một trong những biến độc lập bên. Vì thế, phần trình bày các nghiên cứu trước đây, nhóm chia làm hai phần riêng biệt mỗi vấn đề. Phương pháp nghiên cứu và nội dung, kết quả được trình bày trong phần ba và phần bốn, trả lời cho hai câu hỏi lớn đã đặt ra ở phần giới thiệu sẽ có riêng hai phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên đều sử dụng hai mô hình hồi quy đã từng được các tác giả Era Dabla-Norris, Jiro Honda, Amina Lahreche, và Geneviève Verdier sử dụng trong bài nghiên cứu “FDI-flow to low income countries: Global driver and Growth Implication” Working paper/10/132, năm 2010. Phần kết luận, thảo luận, kiến nghị của nhóm nằm trong phần cuối cùng của bài nghiên cứu. 3 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 2.1 Những nhân tố nào dẫn dắt các dòng FDI đến với các nước thu nhập thấp? Với sự lớn mạnh về nền kinh tế vĩ mô và ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế ở các nước phát triển, chúng có vai trò gì đối với nguồn vốn FDI chảy vào các nước kém phát triển trong thời kỳ trước khủng hoảng? Cũng câu hỏi đó, chúng ta nên quan tâm đến điều gì khi mà ảnh hưởng của suy thoái kinh tế là không nhỏ đến việc thu hút FDI của các nước chậm phát triển hiện nay? Để trả lời các câu hỏi đó, nhiều bài nghiên cứu và phân tích đã được các chuyên gia tài chính cũng như các tổ chức kinh tế thế giới lớn như World Bank, IMF đề xuất, không ít bài nghiên cứu trong số đó như một cuộn băng tua chậm, giúp chúng ta thấy được một cái nhìn bao quát về tác động của nguồn vốn FDI đến các nước kém phát triển cũng như các nền kinh tế mới nổi trong thời kỳ trước khủng hoảng đến nay. Trọng tâm của phần nghiên cứu này chủ yếu để chỉ ra những yếu tố, nhân tố quan trọng, góp phần giải thích tại sao nguồn vốn lại chảy vào nước này hay châu lục này mà tại sao không phải chảy vào nước khác hay châu lục khác. Các tác giả đã chia những yếu tố tác động trên thành hai loại chính: yếu tố “đẩy” (push factor) và yếu tố “kéo” (pull factor). Yếu tố đẩy – liên quan đến đặc điểm, mức độ lớn mạnh của nước đi đầu tư, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng kinh tế, chính trị, luật pháp…Tương tự như vậy, yếu tố kéo phản ánh mức độ thu hút nguồn vốn FDI của các nước kém phát triển – thường là những nước tiếp nhận đầu tư, ví dụ như ưu đãi thuế, ưu đãi mang tính chính trị của chính phủ hai nước, mức độ tự do hoá thương mại… Chúng được gọi chung là những yếu tố “đóng góp” (contributing factors). Calvo et al. (1993) và Fernandez-Arias (1996) đã phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đẩy và kéo trong việc phân phối các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn vay hay các danh mục đầu tư chứng khoán ở thị trường mới nổi, nhấn mạnh sự liên 4 quan của các yếu tố bên ngoài - yếu tố đẩy lên việc thu hút vốn. Với cùng quan điểm, Reinhart and Reinhart (2008) cho rằng những yếu bên ngoài có một thành phần chu kỳ quan trọng ảnh hưởng đến FDI thông qua các kênh khác nhau. Sự tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển có thể tác động đến FDI thông qua tác động thu nhập (income effect) và tác động thay thế (subsitution effect). Cụ thể như sau, trong thời kỳ suy thoái, khi mà thu nhập ở các nước phát triển giảm làm cho mức độ đầu tư ở trong cũng như ngoài nước cũng giảm xuống theo, kết quả là vốn FDI thuận chu kỳ. Nhưng tác động thay thế thì có xu hướng ngược lại, nếu như công ty phân phối nguồn vốn của mình dựa trên tỷ suất lợi nhuận, suy thoái ở các nước phát triển sẽ hiển nhiên dẫn đến tăng khả năng sinh lợi cũng như mức độ thu hút của đồng vốn khi đầu tư ra bên ngoài nhiều hơn so với đầu tư trong nước, đây được gọi là dòng vốn FDI phản chu kỳ. Quan điểm này cũng nhận được sự đồng tình của Calvo et al. (2003) Sự di chuyển thuận chu kỳ lãi suất ở các nước phát triển tác động đến việc tài trợ bằng nguồn vốn FDI. Phần lớn nguồn vốn FDI được huy động chủ yếu ở thị trường tài chính thế giới, do đó chi phí huy động vốn rất nhạy cảm đối với sự thay đổi trong tỷ lệ lãi suất này. World Bank (2010)với một bài nghiên cứu gần đây cho giai đoạn 20032007 đã nhận thấy rằng khi lãi suất trên toàn cầu giảm xuống sẽ dẫn tới hệ quả là chi phí đi vay thấp hơn, điều này đóng góp không nhỏ cho việc tăng thêm 70% nguồn vốn chảy vào các nước đang phát triển, đặc biết là nguồn vốn FDI. Bằng cách sử dụng tổng hợp dòng vốn FDI và chu kỳ kinh tế của Mỹ đại diện cho chu kỳ của tất cả các nước đi đầu tư, Reinhart and Reinhart (2001) và Calvo et al. (2001) dòng vốn FDI trung bình vào những nước đang phát triển (đặc biệt vùng Mỹ Latin và Caribbean) thường cao hơn khi nền kinh tế tăng trưởng và chính sách tiền tệ mở rộng. Levy, Yeyati, Ugo Panizza (2007) đã nghiên cứu tác động của chu kỳ kinh tế (business cycle) và lãi suất (rate of return) ở những nước phát triển (đặc biệt là các nước trong khối OECD) ảnh hưởng như thế nào đến dòng FDI vào các nước đang phát triển. Sau khi tổng hợp các dòng FDI từ 3 nguồn lớn (Mỹ, châu Âu và Nhật Bản), bài 5 nghiên cứu chỉ ra rằng dòng FDI có xu hướng ngược chiều đối với “output” và chu kỳ lãi suất ở trường hợp của Mỹ và châu Âu, trong khi đó ở Nhật Bản lại không rõ ràng về tác động hay chúng chỉ có ảnh hưởng không đáng kể đến dòng chảy của vốn FDI. Cùng ý kiến như trên, Albuquerque et al. (2005) cũng cho thấy một mức tăng trong lãi suất ở các nước phát triển sẽ dẫn đến mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đối với dòng vốn FDI chảy vào các nước đang phát triển. Kết luận ở trường hợp của Mỹ và Châu Âu là hoàn toàn phù hợp giữa mối quan hệ kinh tế ngược chiều của mức độ đầu tư trong nước (local investment) và “dòng vốn FDI” – phản ánh khả năng thực hiện hành vi kinh doanh chênh lệch lãi suất-arbitrage của nhà đầu tư khi đứng trước các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Dữ liệu bài nghiên cứu của ba tác giả Levy, Yeyati, Ugo Panizza (2007) về FDI song phương được lấy từ nguồn OECD International Direct Investment Statistics, chi tiết hơn dữ liệu bao gồm 22 nước đi đầu tư (source countries), 56 nước tiếp nhận đầu tư (host countries), do đó sẽ có 1,232 cặp quốc gia và khoảng 22,213 quan sát. Bài nghiên cứu có dựa trên mô hình “trọng lực” – gravity model, đây là một trong những điều kiện chuẩn cho những bài nghiên cứu thực tiễn về các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại song phương giữa 2 nước, và gần đây đã đưa thêm yếu tố phân tích về địa điểm FDI. Trong thiết lâp đơn giản này, mô hình cho rằng dòng chảy thương mại song phương (trong trường hợp của chúng ta là FDI) phụ thuộc vào “sản phẩm” của 2 nước tạo ra và “khoảng cách” giữa chúng – điều này cũng tương tự như lực hấp dẫn của Newton vậy. Quan điểm này cho rằng, nếu như hai quốc gia sản xuất những sản phẩm mà hai bên đều đang cần hoặc chúng có chung đường biên giới hay khoảng cách đia là gần nhau thì vốn FDI song phương có xu hướng nhiều hơn ở những cặp quốc gia khác không có yếu tố này. Biến đặc trưng đưa vào để củng cố thêm về đặc điểm “trọng lực” kinh điển này chính là GDP trên đầu người, ngoài ra còn có thêm những chỉ báo giả định khác, chẳng hạn như xem hai nước có chia sẻ cùng biên giới chung hay không, có sử dụng chung ngôn ngữ hay có xài chung đồng tiền hay không (ví dụ như EU), hoặc có thể là nước thuộc địa của nhau, những giả định này sẽ được đặt chung thành biến giả (dummy variables). 6 Phân tích dài dòng như vậy, nhưng mục đích chính của bài nghiên cứu của Levy, Yeyati, Ugo Panizza (2007) chính là xoáy sâu vào bản chất chu kỳ của nguồn vốn FDI, do đó tác giả sử dụng mô hình trọng lực chuẩn có điều chỉnh. Cụ thể hơn, tác giả sử dụng logarit tuyến tính của GDP xu hướng (log-linear trend GDP) (đại diện cho mức GDP bền vững) thay vì sử dụng số liệu GDP từng năm ở các nước đi đầu tư, để làm nổi bật tác động của việc mở rộng hay suy thoái của những nước này lên dòng chảy FDI. Tóm lại, các bài nghiên cứu trên đây đã đánh giá vai trò quan trọng của các yếu tố bên ngoài – yếu tố đẩy trong việc phân phối nguồn vốn FDI vào các nước đang phát triển. Nói chung, thường không như mọi người nghĩ,hầu hết các bài nghiên cứu đặc biệt là bài nghiêu cứu của Levy, Yeyati, Ugo Panizza (2007) kết luận rằng suy thoái ở những nước công nghiệp chính là cơ hội tốt cho dòng vốn FDI chảy vào các nước kém phát triển để tìm kiếm cơ hội arbitrage, và thường chính là những nước có mối quan hệ mật thiết với khối EU và nền kinh tế lớn nhất thế giới – Mỹ. 2.2 Tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế Như đã nói, dòng ra FDI đến các nước thu nhập thấp đã thu hẹp lại suốt cuộc suy thoái ở các nước phát triển và nhạy cảm với lãi suất. Cuộc suy thoái toàn cầu hiện tại có mối quan hệ mật thiết nào không và hậu quả của nó cho viễn cảnh phát triển trung hạn của các nước thu nhập thấp trong đó có Việt Nam (dưới mức trung bình) như thế nào? FDI được mong chờ sẽ sản sinh nhiều lợi ích phát triển đáng kể bởi vì, thêm vào làm tăng đầu tư, nó sẽ có một tác động tích cực lên năng suất thông qua chuyển giao công nghệ và chuyên gia quản trị. Vì thế, một sự đảo ngược FDI sẽ tác động bất lợi lên đà phát triển đã đạt được suốt 1 thập kỉ qua của các nước thu nhâp thấp. Về lý thuyết, FDI được trông chờ sẽ đem lại những lợi ích phát triển trực tiếp và gián tiếp tiềm năng cho các nước đang phát triển, và đặc biệt cho các nước có thu nhập thấp. Lợi ích trực tiếp từ những tranh luận tân cổ điển tiêu chuẩn nói rằng FDI có thể chảy từ các nền kinh tế giàu vốn đến các nền kinh tế nghèo nàn nguồn vốn với mức cao tương đối của thu nhập trên vốn. Những dòng này có thể bổ sung nguồn tiết kiệm nội địa có hạn trong các nền kinh tế nghèo nàn nguồn vốn và bằng cách giảm chi phí vốn, 7 thúc đẩy tăng trưởng. Những lợi ích gián tiếp lên sự phát triển liên quan tới năng suất đạt được của các nước nhận FDI thông qua chuyển giao công nghệ (áp dụng những phương pháp sản xuất mới), tiếp thu kĩ năng (giáo dục và huấn luyện nhân công), cạnh tranh (sử dụng hiệu quả để tồn tại bởi các doanh nghiệp nội địa), và xuất khẩu (mở rộng tiềm năng xuất khẩu của doanh nghiệp nội địa) (Moran, 2005). Các bằng chứng thực nghiệm về lợi ích phát triển của FDI, dựa vào bằng chứng thông qua các quốc gia, đã không mang đến kết quả cuối cùng. Sự khác biệt về phương pháp luận, thời kì xem xét đã đưa đến sự không thống nhất ở các nghiên cứu thực nghiệm. Blonigen và Wang (2005), chỉ ra vấn đề về dữ liệu gộp đối với các nước với mức độ phát triển khác nhau, lưu ý rằng dữ liệu gộp với các nước đã phát triển và đang phát triển có thể dẫn đến nhiều suy luận không chính xác. Trong khi một vài nghiên cứu kết luận rằng có những lợi ích liên hệ với FDI, một số không có tác động hoặc tác động có giới hạn (những kết quả không vững chắc thông qua các lựa chọn chi tiết) thông qua kênh truyền thống như là như tích lũy vốn đầu tư cho đất nước (Kose at al, 2009a). Vài bài nghiên cứu đã đưa ra mối quan hệ dương tích cực giữa FDI và tăng trưởng. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu và phát triển, với dữ liệu thời kì từ 1970 đến 2005 của India, Pakistan, Malaysia, Thailand, Chilê và Mexico bằng mô hình VECM và kiểm định quan hệ nhân quả Granger, Miankhel, Thangavelu (2009) cho thấy mối quan hệ trong dài hạn giữa FDI với tốc độ tăng trưởng ở các nước Ấn độ, Malaysia, Chi lê. Cùng quan điểm, Chakraborty và Basu (2002) khi khám phá tác động hai chiều giữa FDI và tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ bằng mô hình VECM, sử dụng dữ liệu 1974-1996 phát hiện trong dài hạn FDI có tương quan dương với GDP và độ mở của thương mại, tuy nhiên lại không đáng kể trong ngắn hạn. Dua và Rashid(1998) cũng cho ra kết quả tương tự. Archanun Kohpaiboon trong nghiên cứu tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế trong quá trình chuyển đổi thể chế của Thái Lan từ thể chế “ thay thế nhập khẩu” sang “khuyến khích xuất 8 khẩu”cũng tranh luận rằng tốc độ tăng trưởng phụ thuộc vào dòng FDI và có quan hệ đồng biến trong giai đoạn “khuyến khích xuất khẩu”. Tuy nhiên, như đã nói, kết quả nghiên cứu là có nhiều đối nghịch. Nếu như Chakraborty và Basu (2002) tranh luận rằng mối quan hệ là tích cực thì cũng với mẫu nghiên cứu là Ấn Độ, Agrawal (2005) sử dụng dữ liệu gộp của 5 nước Nam Á trong đó có Ấn Độ từ 1965-1996 cho thấy hệ số tương quan của FDI với GDP âm, mặc dù không có ý nghĩa. Tương tự, Pradhan (2002) sử dụng hàm Cobb-Douglas với FDI là biến đầu vào và cho ra kết luận rằng hệ số tương quan không có ý nghĩa trong thời kì 1969-1997. Trong khi đó, Bhat (2004) dùng kiểm định nhân quả Granger và DickeyFuller thì lại cho rằng không có mối quan hệ nhân quả hai hướng này. Với Archanun Kohpaiboon, ông cũng tranh luận rằng: ngược lại với giai đoạn “khuyến khích xuất khẩu”, giai đoạn “thay thế nhập khẩu” của Thai Lan, tác động này mang dấu âm. Theo ước tính của tác giả, trung bình mỗi năm tác động âm này chiếm đến 4% trong suốt giai đoạn nghiên cứu từ 1970 đến 1996. Ủng hộ cho quan điểm này, Hanson (2001)đã tranh luận rằng việc FDI sản sinh ra những hiệu ứng lan tỏa tích cực là yếu, còn tác giả Grog và Greenwood(2002) đã kết luận rằng tác động của FDI lên tăng trưởng hầu như là tiêu cực. Đóng góp khá nhiều vào các tranh luận xoay quanh mối quan hệ tích cực hay tiêu cực của FDI lên tăng phải kể đến bài nghiên cứu của tác giả Alfano (2003), đây là một phân tích thực nghiệm sử dụng dữ liệu các nước giai đoạn 1981-1999 nói rằng FDI có tác động rất khác nhau lên sự tăng trưởng. Dòng FDI chảy vào khu vực khai khoáng dẫn đến một tác động tiêu cực lên tăng trưởng, nơi FDI vào khu vực sản xuất lại cho thấy một tác động tích cực và khu vực dịch vụ thì cho ra một tác động mơ hồ, không rõ ràng. Mặc dù bị giới hạn về dữ liệu sử dụng, các kết quả của ông khá vững chắc đối với các yếu tố quyết định khác của sự tăng trưởng, như là thu nhập, vốn con người, phát triền tài chính nội địa, chất lượng định chế nhà nước hay độ trễ của FDI. Tương đồng với ý kiến của Alfano, Chandana và Peter Nunnenkamp (2006) cũng cho thấy các tác động khác nhau của FDI lên tăng trưởng sau khi nghiên cứu trường hợp của Ấn Độ, sử dụng kiểm định nhân quả Granger với khung làm việc đồng liên kết. Ông cho thấy rằng FDI và sản lượng đầu ra tương tác mạnh mẽ trong lĩnh vực 9 sản xuất, ngược lại với lĩnh vực khai khoáng, thì vắng mặt quan hệ nhân quả giữa 2 yếu tố đang xét. Riêng khu vực dịch vụ, khu vực đã thu hút phần lớn FDI vào nó từ sau khi Ấn Độ cải cách kinh tế, thì FDI lại có tác động chỉ tạm thời lên sản lượng đầu ra. Một hướng tiếp cận khác cũng được khá nhiều tác giả quan tâm và những nghiên cứu thực nghiệm này - tiếp cận bằng cách xem xét đến các điều kiện ban đầu khác nhau với một khái niệm được sử dụng xuyên suốt: “ngưỡng” - đã có nhiều thành công hơn trong việc chỉ ra mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng. Kose et al. (2009b)chỉ ra các ngưỡng xác định mà một quốc gia cần đạt được trước khi nó có thể nhận được lợi ích tăng trưởng của các dòng tài chính bao gồm FDI. Chính xác là, nghiên cứu xác định rằng khả năng một quốc gia có thể đạt được thuận lợi từ ảnh hưởng của FDI dựa vào một loạt các yếu tố:  Sự phát triển mảng tài chính: thị trường tài chính nội địa phát triển tốt phải là một công cụ phân bổ hiệu quả các dòng tài chính nước ngoài, bao gồm cả FDI, để cạnh tranh các dự án đầu tư (Aoki, 2006). Các thị trường tài chính nội địa sâu cũng có thể cung cấp các khoản tín dụng cần thiết cho các doanh nghiệp địa phương khi mà họ cần tài trợ để đạt được những thuận lợi về hiệu ứng lan tỏa công nghệ có liên hệ với FDI (Alfaro, 2004). Norris, Honda, Amina và Verdier(2010) cũng tìm ra hệ số dương đáng kể của FDI đối với những nước có nền tài chính phát triển cao, đối với những nước có nền kinh tế phát triển thấp, hệ số là nhỏ hơn và không có ý nghĩa thống kê, sau khi chia các quốc gia thành các nhóm theo tiêu chí “trên” hay “dưới” giá trị trung bình cho mỗi giai đoạn 5 năm từ 1989-2008 để nghiên cứu. Sâu sắc hơn, các tác giả Azman-Saini, Hook Law, Halim Ahmad đã sử dụng mô hình hồi qui dựa vào khái niệm tác động ngưỡng. Mô hình cho phép mối quan hệ giữa tăng trưởng và FDI là tuyến tính với các chỉ số thị trường tài chính hoạt động như một hệ thống kích hoạt chuyển đổi. Sử dụng các quan sát của 91 nước từ 1975 tới 2005 (bởi vì tầm ảnh hưởng của FDI lên tăng trưởng của các nước thu nhập thấp tăng lên trong thời gian này), tác giả tìm ra bằng chứng mạnh mẽ của tác động ngưỡng trong mối liên hệ FDI và tăng trưởng. Đặc biệt, tác giả tìm ra rằng tác động của FDI lên tăng trưởng chỉ thật sự có khi sự phát triển tài 10 chính vượt một mức ngưỡng nào đó. Không thì lợi ích của FDI là không tồn tại. Phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của chính phủ trong việc xây dựng chính sách. Chính sách hướng về thu hút FDI nên đi tay trong tay, không trước chính sách nhằm thúc đẩy phát triển thị trường tài chính.  Chất lượng của định chế nhà nước: việc bảo hộ quyền sở hữu yếu kém ở các nước nghèo ngụ ý rằng đầu tư nước ngoài có thể không trực tiếp vào các dự án ấp ủ vốn lâu, hay tỉ suất sinh lợi ban đầu thấp mà những dòng đầu tư như vậy có thể hữu ích đối với các nước gặp khó khăn về tài chính (Rajan and Zingales, 1998). Chất lượng cơ quan nhà nước kém có thể giới hạn tác động qua lại giữa các công ty nước ngoài và trong nước trong việc thuê mướn lao động. Do đó làm giảm tác động gián tiếp của FDI (Antras, 2003). Norris, Honda, Amina và Verdier (2010) cũng đồng tình với mối quan hệ này giữa FDI và chất lượng định chế nhà nước.  Các khu vực của dòng vào: lơi ích hiệu ứng lan tỏa tiềm năng của FDI có thể khác nhau rõ rệt thông qua khu vực sản xuất và dịch vụ (Alfaro and Charlton, 2007). FDI trong lĩnh vực khai khoáng có thể có những đóng góp rất giới hạn cho tăng trưởng bởi vì nó liên quan đến các dự án lớn và hầu như không sử dụng các sản phẩm được sản xuất hay lao động nội địa.  Sự mở cửa thương mại: mức độ càng cao của sự mở cửa thương mại và định hướng xuất khẩu của nền kinh tế có thể làm dễ dàng hơn cho sự chuyển giao các kĩ năng quản trị, thông qua FDI, làm sôi động hơn thị trường đầu tư nội địa ( Balasubramanyam, 1996). Tuy nhiên, cũng có bài nghiên cứu không tìm ra bằng chứng đo lường sự khác nhau trong tác động phát triển giữa các nước “trên” hay “dưới” của mức độ độ mở thương mại và cho rằng đây là một biến đại diện kém hiệu quả (Norris, Honda, Amina và Verdier 2010).  Nguồn vốn để lại: công nghệ và các hiệu ứng lan tỏa năng suất khác liên quan đến FDI chỉ có thể chuyển hóa vào tăng trưởng kinh tế khi mà nước chủ nhà có mức độ 11 vốn con người (human capital) (Borensztein et al, 1998) hay cơ sở hạ tầng vật chất (Kinda, 2007) thấp.  Chính sách vĩ mô: chính sách vĩ mô đúng đắn có thể tạo ra một sự kích thích chung cho hiệu ứng lan tỏa FDI đến đầu tư nội địa thông qua việc tăng sản phẩm biên của những cuộc đầu tư mới và tạo ra môi trường khả dụng cho quá trình truyền bá công nghệ (Mody và Murshid, 2005). FDI chỉ có tác động lên tăng trưởng khi các nước có lạm phát thấp – ngụ ý sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô (Norris, Honda, Amina và Verdier 2010). Norris, Honda, Amina và Verdier (June 2010) cũng đã đóng góp thêm bộ 2 chỉ số khá hấp dẫn để bổ sung cho các tiêu chí trên, cũng được chia “trên” và “dưới” so với ngưỡng:  Sự cải cách kinh tế: 2 tiêu chí được sử dụng nằm trong khu vực thương mại và tài khoản vốn là chỉ số thuế quan trung bình (đại diện cho tự do hóa thương mại) và chỉ số tự do hóa tài khoản vốn ( thành phần phụ trong bài của Abiad et al 2008, cái mà cho thấy sự giới hạn lên sự trao đổi vốn giữa dân cư và tổ chức tín dụng đối với người không phải dân cư trong nước). Và kết quả là các tác giả không đo lường được sự khác nhau nào giữa các nước khác nhau về tự do hóa thương mại trong giai đoạn 19892008, nhưng giai đoạn 1973-2008 thì lại có. Tương tự, đối với tự do hóa tài khoản vốn cũng không làm nên sự khác nhau giữa các nước đối với việc FDI tác động lên tăng trưởng. Mỗi hướng tiếp cận – dù là tập trung tổng thể hay xác định ngưỡng của từng yếu tố quyết định – đều có những ưu nhược điểm. Các nghiên cứu vĩ mô đã tập trung chủ yếu vào tổng thể FDI vì một phần có lí do hạn chế về dữ liệu. Với cách tiếp cận của Alfano (2003) chẳng hạn, ông đã cho thấy các tác động tiêu cực có thể có lên sự tăng trưởng của một nước từ FDI, chi tiết từng khu vực của dòng vào (khai khoáng, sản xuất, dịch vụ), không đơn giản là có tác động hay không tác động. Điều này, có một ý nghĩa quan trọng cho các nước đang muốn thu hút FDI, nên tập trung vào khu vực nào 12 trong việc tiếp nhận FDI. Tuy nhiên, như đã nói, cách tiếp cận với khái niệm “ngưỡng” như Norris, Honda, Amina và Verdier (2010) có nhiều thành công hơn, nó cho thấy rõ ràng hơn các mối quan hệ gián tiếp giữa FDI và tăng trưởng qua các yếu tố quyết định. Mang một ý nghĩa quan trọng cho các quốc gia muốn hấp thu FDI hiệu quả bằng cách cải thiện các yếu tố quyết định, ví như sự phát triển thị trường tài chính chẳng hạn. Trên cơ sở đó, tôi định hướng nghiên cứu vấn đề này theo hướng đi của các tác giả Norris, Honda, Amina và Verdier (2010), vì hai lí do chính. Thứ nhất, các bài nghiên cứu đều đã xác nhận hướng tiếp cận này có nhiều thành công hơn. Thứ hai, điều này phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay, khi mà chúng ta có khá nhiều yếu tố quyết định cần cải thiện để hấp thu FDI tốt nhất theo quan điểm đạt được mức “trên” ngưỡng hay không? Từ đây, câu hỏi nghiên cứu của bài được hình thành, xoay quanh hai vấn đề lớn về mối quan hệ giữa dòng vào FDI và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. 3. PHƢƠNG PHÁP LUẬN 3.1 Những nhân tố nào dẫn dắt các dòng FDI đến với Việt Nam? 3.1.1 Mô hình: Mô hình đo lường tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn FDI cũng gần tương tự như mô hình của Levy-Yeyati et al (2007) mà tôi đã đề cập ở trên: Trong đó: FDIijt là FDI song phương của các nước đi đầu tư và Việt Nam GDPi và GDPj lần lượt là GDP của nước đi đầu tư (source countries) và Việt Nam (host countries), chỉ tiêu GDP này đại diện cho độ lớn thị trường của quốc gia đó. TRADE là tổng giá trị giao dịch thương mai song phương giữa nước đi đầu tư và Việt Nam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan