Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mối quan hệ giữa fdi, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.pdf...

Tài liệu Mối quan hệ giữa fdi, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.pdf

.PDF
79
1197
121

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM --------------- NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM --------------- NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI, PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Mối quan hệ giữa FDI, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực được thu thập từ những nguồn đáng tin cậy và các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội đồng. TP.HCM, tháng năm Tác giả luận văn Nguyễn Thị Ánh Tuyết MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục cụm từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu Tóm tắt ........................................................................................................... Trang 1 1. Giới thiệu..................................................................................................... Trang 2 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ............................................. Trang 6 2.1 Mối quan hệ hai chiều giữa FDI, phát triển tài chính ............................ Trang 6 2.2 Phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ............................................ Trang 9 2.3 FDI, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế ................................... Trang 10 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................... Trang 13 3.1 Dữ liệu .................................................................................................. Trang 13 3.2 Phương pháp nghiên cứu …………………………………………….. Trang 20 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu ……………………………………... Trang 24 5. Kết luận ....................................................................................................... Trang 42 7.Các kết quả hồi quy trên Stata bằng phương pháp GMM............................ Trang 44 Tài liệu tham khảo DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT Cụm viết tắt CAP DBA/GDP Tên đầy đủ tiếng Anh Tên đầy đủ tiếng Việt Gross Capita Formation Tích lũy tài sản cố định gộp trên (%/GDP) GDP Deposit Money Bank Assets to GDP Tỷ lệ tiền gửi ngân hàng trên GDP FD Financial Development Phát triển tài chính FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội GDPGR GDP per capita growth GMM IMF INF Generalized Method of Moments Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người Phương pháp ước lượng GMM International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế Inflation, GDP deflator Lạm phát (annual %) M2/GDP MNEs Money and quasi money (M2) as % of GDP Multinational Enterprises Tỷ lệ tiền M2 trên GDP Công ty đa quốc gia NSAV OLS PCGDP PO Cụm viết tắt UNCTAD WB National Saving Tiết kiệm quốc gia Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương nhỏ nhất Domestic credit to private sector (% of GDP) Population growth Tên đầy đủ tiếng Anh Tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP Tăng trưởng dân số Tên đầy đủ tiếng Việt United Nations Conference Diễn đàn thương mại và phát triển on Trade and Development của Liên Hiệp Quốc World Bank Ngân hàng thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 1.1: Dòng vốn FDI ròng chảy vào các quốc gia đang phát triển từ 1995-2011 Bảng 3.1: Các quốc gia đang phát triển được chọn mẫu. Bảng 3.2: Bảng mô tả các biến sử dụng trong mô hình hồi quy Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến trong mô hình Bảng 4.2: Mô tả hình dáng phân phối của các biến Bảng 4.3: Hồi quy với DBAGDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (không có biến tương tác). Bảng 4.4: Hồi quy với DBAGDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (có biến tương tác). Bảng 4.5: Hồi quy với M2GDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (không có biến tương tác) Bảng 4.65: Hồi quy với M2GDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (có biến tương tác). Bảng 4.7: Hồi quy với PCGDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (không có biến tương tác) Bảng 4.8 : Hồi quy với PCGDP là biến đại diện cho phát triển tài chính (Có biến tương tác) Bảng 4.9: FDI, phát triển tài chính (DBAGDP) và các giai đoạn phát triển kinh tế Bảng 4.10: FDI, phát triển tài chính (M2GDP) và các giai đoạn phát triển kinh tế Bảng 4.11: FDI, phát triển tài chính (PCGDP) và các giai đoạn phát triển kinh tế 1 Tóm tắt Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn quốc tế ở các quốc gia đang phát triển. Bài nghiên cứu này đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là nghiên cứu vai trò của phát triển tài chính của các nước sở tại ảnh hưởng đến khả năng tận dụng nguồn vốn FDI góp phần tăng trưởng kinh tế quốc gia như thế nào. Luận văn sử dụng mô hình GMM (Generalized Method of Moments ) chạy hồi quy trên dữ liệu bảng gồm 45 quốc gia đang phát triển từ năm 1995-2011, kết quả cho thấy FDI chưa thật sự tác động rõ ràng đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bài nghiên cứu cũng đã tìm ra bằng chứng cho thấy sự phát triển của hệ thống tài chính là điều kiện tiên quyết quan trọng giúp FDI có tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế. Những cải cách chính sách nhằm thúc đẩy cải thiện sự phát triển của hệ thống tài chính và ngân hàng trong nước để hưởng lợi nhiều hơn nhờ sự hiện diện của FDI. Từ khóa: FDI, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. 2 1. Giới thiệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài (tiếng Anh: Foreign Direct Investment, tên viết tắt là FDI) đang trở thành một xu thế đầu tư tất yếu, một nhu cầu không thể thiếu ở các quốc gia trên thế giới từ các nước đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi cho đến các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao. Tổng lượng vốn FDI cho nền kinh tế toàn cầu tăng lên qua các năm, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Nhìn vào bảng 1.1 có thể thấy dòng vốn FDI chảy vào các khu vực trên thế giới hầu hết tăng qua các năm, đặc biệt là chảy vào các khu vực các nước đang phát triển như Bắc Á và Thái Bình Dương năm 2011 đạt xấp xỉ 335 tỷ đô la Mỹ, Mỹ La-tin và Caribe là 142 tỷ đô la Mỹ. Bảng 1.1: Dòng vốn FDI ròng chảy vào các quốc gia đang phát triển từ 19952011 Đơn vị tính: tỷ đôla Mỹ Year Europe Latin Middle East Asia & & America East & South Pacific Central & North Asia Asia Caribbean Africa SubSaharan Africa 1995 50.79 8.27 27.05 0.91 2.93 4.41 1996 58.56 7.18 38.84 1.36 3.51 4.12 1997 62.59 11.64 60.29 1.95 4.90 8.50 1998 57.85 11.25 68.88 2.64 3.55 6.88 1999 50.49 9.95 78.99 1.91 3.08 8.95 2000 45.31 9.06 73.67 3.92 4.37 6.57 2001 48.93 14.67 67.25 3.72 6.15 14.04 3 2002 59.35 12.88 52.59 8.20 6.77 11.15 2003 59.34 17.79 40.37 10.08 5.46 13.65 2004 77.76 30.03 59.28 10.38 7.81 11.29 2005 129.15 49.44 67.09 18.47 10.89 20.52 2006 152.94 86.49 65.68 29.80 25.78 17.25 2007 196.49 158.81 112.11 33.79 32.47 30.53 2008 211.33 165.94 121.36 35.57 50.87 44.03 2009 154.55 51.12 71.29 29.59 39.47 36.14 2010 289.53 22.91 109.83 25.62 30.31 31.15 2011 335.47 74.32 142.54 16.31 36.07 41.44 Nguồn: World Bank Theo báo cáo đầu tư năm 2013 của Cơ quan liên hợp quốc về đầu tư và thương mại (UNCTAD) cho biết năm 2012 thế giới ghi nhận con số 1.300 tỷ USD vốn FDI được luân chuyển toàn cầu, so với con số 1.600 tỷ USD năm 2012. Nguyên nhân giảm là do tình hình kinh tế vĩ mô thế giới bất ổn, cùng hàng loạt các yếu tố rủi ro như cuộc khủng hoảng nợ kéo dài ở Khu vực Eurozone, “vách đá tài khóa” ở Mỹ ( là những nguy cơ mà chính phủ Mỹ sẽ găp phải với một loạt các thay đổi trong chính sách sẽ tự động có hiệu lực vào cuối năm 2012 nếu như Quốc hội Mỹ không hành động), v.v…Điều này khiến cho FDI tụt giảm nhiều ở các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu. Nhưng ngược lại dòng vốn FDI tới các nước đang phát triển vẫn ở mức tốt trong năm 2012, và chỉ giảm cỡ 3%, vào khoảng xấp xỉ 680 tỷ USD. Như vậy, các nền kinh tế đang phát triển có mức hấp thụ vốn FDI cao hơn các nền kinh tế phát triển. 4 Trong bảng báo cáo, UNCTAD cũng cảnh báo rằng các yếu kém cấu trúc đang tồn tại ở phần lớn các nền kinh tế phát triển và trong hệ thống tài chính toàn cầu cũng như sự bất định trong chính sách là các yếu tố lớn nhất ảnh hưởng tới niềm tin của giới đầu tư. Dòng vốn FDI trên toàn cầu sẽ luân chuyển chậm lại chừng nào các vấn đề trên không được giải quyết. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang nổ lực thu hút dòng vốn này vào quốc gia của mình nhằm gia tăng lượng vốn trong nước và quan trọng là họ tin rằng FDI có vai trò quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Sở dĩ họ có niềm tin như thế vì họ cho rằng sự hiện diện của FDI làm gia tăng năng suất sản xuất; được chuyển giao những công nghệ tiên tiến từ các tập đoàn đa quốc gia; được giới thiệu những quy trình mới, những kỹ năng quản lý mới; lao động được đào tạo bài bản; được gia nhập vào mạng lưới sản xuất quốc tế và tiếp cận thị trường quốc tế một cách dễ dàng hơn. Hơn thế nữa, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đẩy mạnh cải tiến công nghệ để cạnh tranh với các doanh nghiệp được đầu tư từ nguồn vốn FDI. Như vậy, có thể thấy FDI đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa nền kinh tế tại quốc gia tiếp nhận vốn và thúc đẩy kinh tế phát triển. Xét ở mặt nghiên cứu định lượng thì vai trò của FDI đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia tiếp nhận nguồn vốn này đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu và lượng hóa chúng bằng dữ liệu của nhiều nước, trong nhiều năm, bằng nhiều phương pháp khác nhau. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ này nhưng tựu trung lại thì có hai trường phái chính. Một là họ tin rằng FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu ứng lan tỏa như chuyển giao công nghệ, tích lũy vốn, nâng cao hiệu quả quản lý cho các 5 công ty ở quốc gia sở tại, phát triển nguồn lực con người về kỹ năng và nghiệp vụ và mở rộng giao thương quốc tế (De Mello,1997; Blomstrom and Kokko, 1998, Todo, 2003; Basu and Guariglia, 2007). Hai là, một số các nghiên cứu khác không đồng ý như thế. Họ không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ có ý nghĩa thống kê nào giữa FDI và tăng trưởng kinh tế (Haddad và Harrison,1993; Aitken và Harrison,1999; Carkovic and Levine,2005…). Ví dụ như, Aitken và Harrison 1999 sử dụng phân tích dữ liệu bảng ở Venezuela đã không tìm thấy bằng chứng cho thấy được hiệu ứng lan tỏa từ các công ty nước ngoài tác động đến các doanh nghiệp trong nước. Nguyên nhân có thể là do đầu tư nước ngoài tại Venezuela quá thấp hoặc nền kinh tế không định hướng theo xuất khẩu một cách đầy đủ để nhận được những khoản lợi ích to lớn từ đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh của người đem vốn đi đầu tư thì việc cân nhắc giữa lợi ích và chi phí đầu tư trong nước hay đem vốn để đầu tư ở một quốc gia khác là mối quan tâm hàng đầu. Tiêu chí để lựa chọn đầu tư có thể liệt kê đó là môi trường đầu tư hấp dẫn và tiềm năng tăng trưởng cao. Môi trường đầu tư phải kể đến như tài nguyên, con người, cơ sở hạ tầng, chính trị ổn định, các chính sách về thuế, thể chế, v.v…. Các nghiên cứu trước đó và gần đây cũng đã chứng minh phát triển tài chính là một trong những nhân tố tác động đến việc thu hút FDI, thông qua nó mà FDI tác động tích cực lên tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Chính sự phát triển của thị trường tài chính là một trong những điều kiện tiên quyết quan trọng vì nó sẽ giúp tăng cường phân bổ hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, do đó giúp hấp thụ tốt hơn những lợi ích từ nguồn vốn FDI mang lại. 6 Như vậy, câu hỏi nghiên cứu đặt ra là liệu FDI có thật sự tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế hay không? Và sự phát triển của thị trường tài chính có phải là điều kiện tiên quyết giúp FDI thật sự có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế hay không? Các nghiên cứu trước chủ yếu là nghiên cứu ở các nước đã phát triển hoặc đã và đang phát triển. Bài nghiên cứu này sẽ tiến hành nghiên cứu ở các nước đang phát triển trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên gồm 45 quốc gia đang phát triển trên thế giới từ năm 1995 đến 2011nhằm mục tiêu kiểm tra thực nghiệm mối quan hệ giữa FDI - tăng trưởng kinh tế và vai trò của thị trường tài chính đến mối quan hệ này. Bài nghiên cứu còn phân loại dữ liệu theo nhóm thu nhập để chạy hồi quy nhằm mục đích kiểm định liệu có sự khác biệt trong kết quả giữa các nhóm nước hay không. Bài viết có cấu trúc như sau: Phần 2 sẽ tổng quan về các nghiên cứu trước đây. Phần 3 mô tả các biến, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu sử dụng. Phần 4 mô tả kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Phần 5 liên hệ vai trò của FDI tại Việt Nam. Phần 6 là kết luận. 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 2.1 Mối quan hệ hai chiều của FDI và tăng trưởng kinh tế Cách nhìn nhận FDI ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng tùy thuộc vào các mô hình phát triển kinh tế khác nhau. Trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển, cả Harrod – Domar và Solow đều xét đến và nhấn mạnh vai trò của vốn sản xuất thông qua tiết kiệm và đầu tư trong phương trình tăng trưởng kinh tế. Mô hình tăng trưởng của Solow là một sự mở rộng của mô hình tăng trưởng Domar và 7 giống mô hình Harrod Domar đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tiết kiệm, lao động và tiến bộ công nghệ. Mô hình của Solow được coi là một sự cải tiến so với mô hình Harrod-Domar, bởi vì nó đã chỉ ra cách sự tự do hoá các thị trường quốc gia có thể thu hút nhiều đầu tư trong nước cũng như nước ngoài và vì thế làm tăng tỷ lệ tích luỹ vốn hay nói cách khác là làm tăng tỷ suất tiết kiệm. Hàm Cobb-Douglas có dạng: Y= F(K,AL)= Kα(AL)α-1, 0 <α < 1 , trong đó sản lượng nền kinh tế là Y, mức vốn K, số lao động L, A là tiến bộ công nghệ hay hiệu quả của lao động. Mức vốn K bao gồm vốn tích lũy được từ tiết kiệm trong nước và các nguồn vốn huy động được từ bên ngoài. FDI được xem như là một trong những nguồn vốn quan trọng trong việc gia tăng vốn ở một quốc gia do FDI không chỉ là nguồn vốn bổ sung mà còn là luồng vốn ổn định hơn so với các nguồn vốn đầu tư quốc tế khác. FDI dựa trên quan điểm dài hạn về thị trường, về triển vọng tăng trưởng và không tạo ra nợ cho chính phủ. Theo trường phái này thì không có sự khác biệt giữa nguồn vốn trong nước hay vốn nước ngoài ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, với giả thiết suất sinh lợi giảm dần theo quy mô vốn thì FDI chỉ có tác động trong ngắn hạn mà không liên tục trong dài hạn vì tăng trưởng trong dài hạn sẽ dừng lại. (Barro và Sala-i-Martin, 1995). Mô hình Solow cũng dự đoán rằng những nước có tăng trưởng dân số cao hơn sẽ có mức vốn và thu nhập trên lao động thấp hơn trong dài hạn. Tiếp thu công nghệ mới là trọng tâm để tăng tốc và duy trì tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên nhược điểm của mô hình này là không xem xét đến các yếu tố nội tại trong nền kinh tế như các vấn đề về chính trị, ổn định kinh tế, thể chế, quản lý nhà nước, tích lũy tài sản cố định, tích lũy con người, vị trí địa lý, v.v…có ảnh hưởng đến 8 phương trình tăng trưởng kinh tế, và mối quan hệ giữa tăng trưởng và các yếu tố tác động như vốn, lao động, tiến bộ công nghệ là ngoại sinh với nhau. Trong mô hình tăng trưởng nội sinh thì ảnh hưởng của FDI lên tăng trưởng mang tính dài hạn bởi FDI có liên quan đến các yếu tố khác như vốn, nguồn nhân lực, xuất khẩu, chuyển giao công nghệ... (Borensztein et al, 1998). Nó khác với mô hình tăng trưởng tân cổ điển Solow ở chỗ nhấn mạnh vai trò của nghiên cứu và phát triển, tích lũy vốn con người, tiến bộ công nghệ. Chính các sự phát triển của các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến hàm sản xuất,làm gia tăng suất sinh lợi trong tương lai. Do đó, hàm sản lượng không còn là một hàm đơn giản truyền thống chỉ gồm có vốn và lao động mà còn các yếu tố khác như vốn con người và FDI. Và FDI đóng vai trò như là một kênh chuyển giao công nghệ và làm tăng khả năng tích tụ vốn con người tại các nước tiếp nhận nguồn vốn đầu tư thông qua các khóa đào tạo kỹ năng cho đội ngũ lao động địa phương, các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ cho các doanh nghiệp địa phương (các doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào) (Blomstrom and Kokko,1998). Mặt khác, theo lý thuyết chiết trung (the Eclectic Theory of FDI), được phát triển bởi Dunning (1988) đã cung cấp một phương pháp phân tích khác về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế. Dựa trên phân tích về lợi thế cạnh tranh, lý thuyết này chỉ ra rằng việc thu hút nguồn vốn FDI phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố và đặc tính của nước sở tại. Một trong các nhân tố đó là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng cao tại các nước sở tại sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu thị trường và bỏ vốn đầu tư. Giả thuyết 1: FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. 9 2.2 Phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế Vai trò của FDI và phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế đã được thảo luận rộng rãi. Lần đầu tiên được nghiên cứu bởi Schumpeter (1911). Ông lập luận rằng các trung gian tài chính phát triển tốt đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường đổi mới công nghệ, tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế vì chúng giúp giảm chi phí giao dịch, có khả năng huy động tiền gửi tiết kiệm hộ gia đình, đánh giá hiệu quả của các dự án đầu tư thông qua việc mua lại các thông tin ,đảm bảo nguồn vốn được phân bổ vào các dự án mang lại lợi nhuận cao nhất. King và Levine (1993b) cũng cho rằng lập luận của Schumpeter (1911) là đúng. Hai ông đã nghiên cứu trên mẫu dữ liệu gồm 80 quốc gia trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1989, xây dựng bốn chỉ số để đo lường phát triển tài chính là chỉ số đo lường quy mô của khu vực tài chính với GDP, tỷ lệ phần trăm của tín dụng phân bổ cho khu vực tư nhân, tỷ số tín dụng cho khu vực tư nhân so với GDP. Các tác giả đã chứng minh phát triển tài chính có tương quan mạnh và vững với tăng trưởng. Greenwood và Jovanovic (1990) cũng lập luận rằng các trung gian tài chính và tốc độ tăng trưởng có quan hệ chặt chẽ và được xác định là nội sinh với nhau. Tăng trưởng cao cung cấp các điều kiện thuận lợi để phát triển cấu trúc tài chính một cách đầy đủ, toàn diện và hiện đại. Mặt khác, sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính đóng một vai trò quan trọng trong việc thu thập, phân tích thông tin của các công ty và thị trường, phân bổ nguồn vốn hợp lý, giám sát rốt hơn, giảm thiểu bất cân xứng thông tin do đó thúc đẩy kinh tế phát triển (Shen & Lee, 2006). Mặt khác, khi thị trường tài chính phát triển đến một mức độ nào đó có thể tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài tiếp cận được nguồn vốn để mở rộng 10 đầu tư tại nước sở tại, từ đó quá trình khuếch tán công nghệ vào các công ty trong nước sẽ tốt hơn (Hermes và Lensink, 2003). Như Demetriades và Andrianova (2004) giải thích, sự tồn tại của một khu vực tài chính lành mạnh là điều kiện tiên quyết đối với đất nước để thực hiện những phát minh mới và khai thác những nguồn lực một cách hiệu quả. Bằng cách này, tài chính được coi là yếu tố hỗ trợ cho tăng trưởng. Hơn thế nữa, một quốc gia có hệ thống tài chính phát triển vững vàng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi nguy cơ các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra (Bordo và Meissner, 2006; Beck et al., 2000). Giả thuyết 2: Phát triển tài chính là yếu tố hỗ trợ cho tăng trưởng. 2.3 FDI, phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế Những nghiên cứu gần đây đã sử dụng lý thuyết tăng trưởng nội sinh để nghiên cứu vai trò của phát triển tài chính đối với sự tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế. De Mello (1997) đã lập luận rằng FDI có tác động dài hạn đến tăng trưởng kinh tế thông qua các tiến bộ trong công nghệ, sự tích lũy vốn và gia tăng nguồn nhân lực. Theo Hermes và Lensink (2003), sự phát triển của hệ thống tài chính của nước tiếp nhận nguồn vốn FDI là tiền đề quan trọng để FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế do khả năng hấp thụ quá trình chuyển giao công nghệ tốt hơn của nước sở tại. Sử dụng phương pháp OLS nghiên cứu cho thấy,trong số 67 quốc gia lấy mẫu thì có 37 quốc gia, hầu hết là các quốc gia thuộc Mỹ Latin và Châu Á, có hệ thống tài chính phát triển hiệu quả và FDI đóng góp tích cực vào 11 sự tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia khu vực Châu Phi cận Sahara có hệ thống tài chính rất yếu, do đó FDI không có những tác động tích cực lên tăng trưởng. Kết quả tương tự cũng được Alfaro và các cộng sự (2004) nghiên cứu bằng cách sử dụng các chỉ số khu vực ngân hàng và thị trường chứng khoán đại diện cho biến phát triển tài chính. Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu chéo các quốc gia từ 1975 đến 1995 để đưa ra bằng chứng rằng mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng là mối quan hệ nhân quả, FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua thị trường tài chính. Các công ty đa quốc gia quyết định mở rộng sản xuất ở một quốc gia khác vì ở đó có chi phí rẻ hơn và hiệu quả cao hơn. Còn ở nước sở tại thì không những sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước mà còn tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý tiên tiến, bổ sung nguồn vốn trong nước, tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Vì thế hầu hết các nước đã và đang phát triển đều thành lập các cơ quan đầu tư cũng như các chính sách khuyến khích tài chính, cải thiện môi trường pháp lý địa phương và các chi phí kinh doanh nhằm thu hút FDI. Choong và các cộng sự (2004) đã phân tích tác động bổ sung bằng cách sử dụng kỹ thuật đồng liên kết đa biến Johansen và kiểm định nhân quả Granger cho ba nước phát triển (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh) và 6 nước Đông Á (Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia, Philipin, Singapore và Thái Lan). Kiểm định đồng liên kết cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa phát triển tài chính giúp cho FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng ở 7 trong số 9 quốc gia lấy mẫu, trong khi kiểm tra quan hệ nhân quả ngắn hạn cho thấy phát triển tài chính rất quan trọng trong 6 trên 9 quốc gia lấy mẫu. 12 Phù hợp với các nghiên cứu trước đây, như các nghiên cứu ở các quốc gia riêng lẻ như ở Úc (Caves, 1974), Canada (Globerman, 1979) và Mexico (Blomstrom và Person,1983) cho rằng sự hiện diện của các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises (MNEs)) có tác động tích cực đến quốc gia sở tại. Tuy nhiên, các nghiên cứu ở Morocco (Haddad và Harrison, 1993) và Venezuela (Aitken và Harrison, 1999) thì cho rằng các MNEs không có tác động tích cực lên tăng trưởng năng suất cho các doanh nghiệp trong nước. Ở nghiên cứu khác, Kholdy (1995) xác định mối quan hệ nhân quả giữa FDI và hiệu ứng lan tỏa (như được xác định bởi năng suất lao động cao hơn và sự hình thành vốn) ở các quốc gia như Mexico, Brazil, Chile, Singapore và Zambia. Kết quả là không có mối quan hệ nhân quả giữa FDI và năng suất lao động cũng như với sự hình thành vốn (ngoại trừ Singapore). Kết luận cũng tương tự khi tác giả sử dụng Pooled data để ước lượng lại hồi quy. Tuy nhiên, kết quả cũng ủng hộ giả thuyết công nghệ tiên tiến là yếu tố quyết định quan trọng nhất trong việc thu hút nguồn vốn FDI. Nghiên cứu của Tu (1990) và Schive (1990) ở Đài Loan, nghiên cứu tác động của FDI lên tăng trưởng, đầu tư tư nhân cố định, tiêu dùng cá nhân, xuất khẩu và nhập khẩu. Họ lập luận rằng mối quan hệ giữa FDI và hoạt động kinh tế có thể được thực hiện thông qua đầu tư tư nhân cố định và xuất khẩu, nhưng không thông qua tiêu dùng cá nhân và nhập khẩu. Nghiên cứu của Jansen (1995) cũng đưa ra lập luận tương tự. Mặt khác, FDI có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng nếu nó lấn át tiết kiệm trong nước và có thể gây ra sự phụ thuộc kinh tế vào các nước khác (McCombie và Thirlwall 1994). Ở các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo nhất thì họ thiếu khả năng thu hút và gia nhập đầy đủ vào thị trường vốn quốc tế (Borensztein 1998, Alfaro 2004, Durham 2004). Điều này ngăn cản các quốc gia này hưởng lợi một cách đầy đủ các lợi ích do FDI 13 mang lại. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều tin rằng sự thiếu hiệu quả trong việc sử dụng FDI nằm hoàn toàn ở trình độ của quốc gia. Bởi vì ở nhiều quốc gia đang phát triển thiếu những điều kiện tiên quyết để đảm bảo những lợi ích chắc chắn của dòng vốn FDI. Do đó, các quốc gia này phải đối mặt với thách thức trong việc thiết kế những chính sách kinh tế và thể chế nhằm gia tăng môi trường hội nhập tài chính để đạt được nhiều lợi ích nhất từ dòng vốn FDI. Giả thuyết 3: Phát triển tài chính là điều kiện tiên quyết để FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. 3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1 Dữ liệu Phần này mô tả các dữ liệu được sử dụng trong phương trình hồi quy tăng trưởng kinh tế gồm tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người, FDI, một vài chỉ số đo lường phát triển tài chính và một số biến kiểm soát khác có tác động đến tăng trưởng kinh tế được đưa vào mô hình là lạm phát, tích lũy tài sản cố định gộp, tăng trưởng dân số, tiết kiệm quốc gia. Dữ liệu được thu thập từ 45 quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, từ năm 1995 đến 2011. Việc sử dụng dữ liệu bảng để hồi quy có ưu điểm. Thứ nhất, dữ liệu bảng làm tăng kích thước mẫu một cách đáng kể, giảm thiểu sự thiên lệch có thể xảy ra nếu ta chỉ sử dụng dữ liệu chéo hoặc dữ liệu theo thời gian. Thứ hai, vì dữ liệu bảng liên quan đến các cá nhân, doanh nghiệp, đất nước…theo thời gian nên chắc chắn có tính dị biệt (không đồng nhất) giữa các đơn vị này. Kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể xem xét các biến số có tính đặc thù theo từng đơn vị. Thứ ba, thông qua kết hợp các chuỗi thời gian của các quan sát, dữ liệu bảng cung cấp những dữ liệu có nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít cộng tuyến hơn giữa các biến số, nhiều bậc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng