0
HÀ NỘI, 2005
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
MỤC LỤC
CHU VĂN TUYẾN
MÔ TẢ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG
DỊCH VỤ KHÁM CHỮA BỆNH CỦA NGƯỜI DÂN
Ở TRẠM Y TẾ XÃ TÂN TRÀO, HUYỆNTHANH MIỆN,
TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2004
Hướng dẫn khoa học:
Ths VŨ XUÂN PHÚ
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
HÀ NỘI, 2005
1
CBCNV........................................ Cán bộ công nhân viên
CBYT .......................................... Cán bộ y tế
CSSK ............................................ Chăm sóc sức khoẻ
CS&BVSKND………………….. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân
CSSKBĐ ……………………….. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu
DVYT............................................Dịch vụ y tế
HGĐ ............................................ Hộ gia đình
KCB.............................................. Khám chữa bệnh
KHHGĐ ....................................... Kế hoạch hoá gia đình
THCS ……………………………Trung học cơ sở
THPT …………………………… Trung học phổ thông
TYT .............................................. Trạm y tế xã
2
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Y tế cơ sở là đơn vị y tế đầu tiên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn CSSK trực tiếp
cho người dân. Hoạt động của các trạm y tế hiện nay còn phần nào chưa đáp ứng được
nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Theo một số nghiên cứu thì chỉ có 12,3% đến
22,3% người ốm lần đầu đến trạm y tế xã khám chữa bệnh. Chúng tôi xây dựng đề
cương nghiên cứu: Mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân xã
Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, năm 2004. Với mục tiêu: 1- Mô tả thực
trạng mắc bệnh và mức độ sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế của người dân
xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. 2 - Xác định một số yếu tố liên quan
đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân ở trạm y tế xã trên địa bàn xã.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 10 năm 2004 đến tháng 2 năm 2005.
Kết quả thu được qua phỏng vấn 259 hộ gia đình, tổng số người tong các hộ gia
đình 907, tỷ lệ người ốm trong 2 tuần trước điều tra là 30,9 %, bình quân có 32 người
ốm trên 100 HGĐ, ước tính bình quân số lượt người ốm trong năm là 241 lượt/ 100
người. Người ốm thuộc nhóm nghèo chiếm 14,3 %, nhóm giầu 29,8%. Các chứng bệnh
và nhóm bệnh của người ốm có tỷ lệ cao là nhóm bệnh đường hô hấp và đau nhức
xương khớp 39,3% và 27,4, lựa chọn KCB của người ốm tại trạm y tế chiếm 42,9%.
Ốm nhẹ là lý do chính để người bệnh khi ốm đau sử dụng dịch vụ KCB ở trạm y tế
33,3%, lý do người ốm không sử dụng dịch vụ KCB tại trạm y tế ốm nhẹ 37,5%, bệnh
nặng 33,3% và đi xa 14,6%.
Chi phí bình quân cho một đợt khám chữa bệnh tại trạm y tế xã là 50 757 đồng,
đa số người sử dụng dich vụ KCB cho rằng hài lòng về chuyên môn 83,3%, thái độ
phục vụ 91,7% và mức độ có sẵn của thuốc 75%. Các yếu tố như tuổi, giới, tình trạng
học vấn, tình trạng bệnh và thu nhập của người ốm chưa thấy có liên quan chặt chẽ đến
việc lựa chọn KCB của người ốm ở trạm y tế. Người ốm có thẻ bảo hiểm đến KCB tại
trạm y tế cao hơn 2,71 lần người ốm không có thẻ bảo hiểm y tế. Chúng tôi nhận thấy
việc người dân sử dụng dịch vụ KCB tại trạm y tế là vẫn còn thấp và cần có biện pháp
củng cố, xây dựng trạm y tế để đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân .
3
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................................2
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU........................................................................................................4
1. Mục tiêu chung:...................................................................................................................4
2. Mục tiêu cụ thể:...................................................................................................................4
Chương1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................................5
1.2 Thực trạng công tác CSSK của nước ta trong quá trình cải cách kinh tế:.........................6
1.3. Hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh:..................................................................................8
1.3.1 Bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương:..........................................................................8
1.3.2 Y tế tuyến huyện........................................................................................................8
1.3.3 Y tế tuyến xã:..............................................................................................................9
1.3.4 Y tế thôn, bản:.............................................................................................................9
1.3.5 Hệ thống y dược tư nhân:...........................................................................................9
1.4 Tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế:................................................................................10
1.4.1 Cơ sở lý thuyết cho nghiên cứu tiếp cận và sử dụng DVYT....................................10
1.4.2 Các yếu ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận và sử dụng DVYT.................................12
1.5 Một số nghiên cứu về sử dụng dịch vụ y tế:................................................................15
1.5.1 Các nghiên cứu nước ngoài:.....................................................................................15
1.5.2 Các nghiên cứu trong nước:......................................................................................16
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................18
2.1 Đối tượng nghiên cứu:.....................................................................................................18
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu:...................................................................................18
2.3 Các bước nghiên cứu:......................................................................................................18
2.4 Phương pháp nghiên cứu:................................................................................................18
2.4.1 Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.................................18
2.4.2 nghiên cứu định lượng..................................................................................................18
2.4.3 Nghiên cứu định tính....................................................................................................20
2.5 Công cụ thu thập số liệu..................................................................................................20
2.6 Xử lý số liệu:....................................................................................................................20
2.7 Những hạn chế của đề tài:................................................................................................21
2.8 Cách hạn chế sai số:.........................................................................................................21
2.9 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu...................................................................................21
2.10 Đóng góp của đề tài:.....................................................................................................22
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.......................................................................................23
3.1 Nghiên cứu định lượng....................................................................................................23
3.1.1 Thông tin chung về hộ gia đình................................................................................23
3.1.2 Thông tin về người ốm.............................................................................................30
3.1.3 Một số yếu tố liên quan đến sử dụng dịch vụ KCB tại trạm y tế xã..........................38
3.2 Kết quả nghiên cứu định tính..........................................................................................42
Chương 4 BÀN LUẬN.............................................................................................................46
4.2 Thông tin về người ốm....................................................................................................47
4.3 Liên quan giữa việc lựa chọn khám chữa bệnh tại trạm y tế xã và nơi khác...................51
4
Chương 5 KẾT LUẬN..............................................................................................................54
5.1 Thông tin chung về chủ hộ..............................................................................................54
5.2 Thông tin về người ốm....................................................................................................54
5.3 Các yếu tố liên quan........................................................................................................54
Chương 6 KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................................55
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................56
5
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ là quyền lợi của mỗi người dân đã được Hiến
pháp và Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
công nhận. Mọi người dân đều được hưởng sự chăm sóc sức khoẻ với sự bình đẳng
như nhau trong các loại hình y tế từ hệ thống y tế công lập. Y tế cơ sở là đơn vị y tế
đầu tiên thực hiện nhiệm vụ chuyên môn CSSK trực tiếp cho người dân, đảm nhiệm
một khối lượng công việc chính trong ngành y tế.
Trước những năm 1990 mọi công dân Việt Nam đều được khám chữa bệnh
(KCB) không mất tiền, từ khi đất nước bước vào thời kỳ mở cửa, chuyển sang nền kinh
tế thị trường thì chi phí KCB đã vượt quá khả năng bao cấp của nhà nước. Trước tình
hình đó, chính sách thu một phần viện phí ra đời đã bổ sung nguồn kinh phí cần thiết,
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ sở y tế. Tuy nhiên, việc thực hiện
thu một phần viện phí cũng đã ảnh hưởng nhất định đến khả năng tiếp cận và sử dụng
các dịch vụ y tế (DVYT) của người dân [31].
Việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh trong giai đoạn này giảm một cách đáng
kể. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân cả ngoại trú và nội trú giảm
một nửa từ năm 1996- 1990, tỷ lệ người dân đến khám tại cơ sở y tế còn 1lần/ người/
năm [41]. Trong đó khả năng tiếp cận của người nghèo với cơ sở y tế là rất kém vì:
Không có tiền chi trả khám chữa bệnh, có nhu cầu khám chữa bệnh cao hơn người
giầu, khả năng tiếp cận nguồn thông tin y tế thấp và phương tiện đi lại khó khăn [20].
Với sự phát triển hiện nay nhu cầu đòi hỏi về khám chữa bệnh của người dân
ngày càng lớn, với chất lượng cao hơn, trong khi đó thì khả năng đáp ứng về dịch vụ y
tế của y tế cơ sở thì lại thấp và không phù hợp. Để cho người dân tiếp cận và sử dụng
được dịch vụ y tế thì thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Khoảng cách, giá cả,
tính sẵn có, sự hiểu biết về dịch vụ y tế[1].
6
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm
nâng cao chất lượng hệ thống y tế cơ sở như: Chỉ thị 06-CT/TW về củng cố mạng lưới
y tế cơ sở, Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đến năm 2010, Chuẩn
quốc gia về y tế xã giai đoạn 2001-2010. . . [2,15]. Chính từ những chính sách này hoạt
động của hệ thống y tế cơ sở đã được nâng cao về chất lượng như: Trạm y tế có bác sĩ,
được trang bị các trang thiết bị y tế hiện đại và đầy đủ, nhà trạm khang trang, nhưng
sức thu hút người dân đến sử dụng dịch vụ y tế nói chung và dịch vụ khám chữa bệnh
nói riêng vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân. Theo
kết quả điều tra của Hà Văn Giáp thì chỉ có 22,3% số người ốm lần đầu đến trạm y tế
xã khám chữa bệnh, tác giả Trần Thu Thuỷ là 19,29%, Tác giả Trương Việt Dũng là
12,3 % [ 41,20,21].
Tân Trào là một xã thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương có dân số 7420
người, 1904 hộ gia đình, bao gồm có 6 thôn, người dân chủ yếu làm nghề nông, có một
trạm y tế xã với 4 nhân viên. Tại xã đã triển khai đầy đủ các chương trình y tế và được
sự quan tâm của Chính quyền và các đoàn thể. Hoạt động của trạm y tế trong những
năm qua đã có sự chuyển biến tốt. Tuy nhiên, qua báo cáo của trạm y tế và xem xét
chúng tôi thấy bình quân lượt khám bệnh/ năm của người dân rất thấp: 0,33 lượt người
khám/ năm so với chỉ tiêu là 0,6 lượt/ năm, mỗi ngày trung bình có từ 2-4 người đến
trạm khám chữa bệnh.
Thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế xã của người dân tại xã
này hiện nay như thế nào, có những yếu tố nào ảnh hưởng đến mức độ sử dụng dịch vụ
khám chữa bệnh ở trạm y tế, có những khó khăn gì trong việc sử dụng dịch vụ khám
chữa bệnh của trạm y tế xã là những câu hỏi cần được giải đáp. Hiện chưa có nghiên
cứu nào được tiến hành trên địa bàn huyện để góp phần cung cấp những cơ sở thực tiễn
nhằm tăng tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế xã của người dân. Từ những lý do trên chúng tôi
xây dựng đề cương nghiên cứu: Mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của
7
người dân và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Trào, huyện Thanh Miện tỉnh Hải
Dương, năm 2004
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung:
Mô tả thực trạng và một số yếu liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa
bệnh của người dân ở trạm y tế tại xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Từ đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút người dân sử
dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế xã.
2. Mục tiêu cụ thể:
2.1 Mô tả thực trạng mắc bệnh và mức độ sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở
trạm y tế của người dân xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, năm 2004
2.2 Xác định một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
của người dân ở trạm y tế xã trên địa bàn xã.
Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng cường khả năng thu hút người dân sử
dụng dịch vụ khám chữa bệnh ở trạm y tế.
8
Chương1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong hơn nửa thế kỷ qua thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển
sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ (CSSK) nhân dân, nghành y tế đã thu được những thành
tựu to lớn trên các lĩnh vực phòng bệnh, chữa bệnh, sản xuất thuốc, phát triển khoa học
y dược cũng như chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ). Trong những thành tựu quan
trọng đó, xây dựng và phát triển y tế cơ sở được đánh giá là một trong những thành tựu
quan trọng nhất, nổi bật nhất mang lại lợi ích thiết thực trong CSSK nhân dân khắp mọi
miền từ đồng bằng đến miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa mà không phải ở nơi
nào trên thế giới cũng có thể làm được.
1.1 Vai trò và vị trí của công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Đảng và Nhà nước đã xác định: Sức khoẻ là vốn quí nhất của con người và của
toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy
chúng ta phấn đấu để mọi người được chăm sóc sức khoẻ[43]. Sức khoẻ là tổng hoà
của nhiều mặt, nhiều quá trình của từng con người và sự phát triển chung của toàn xã
hội. CSSK nhân dân là nhiệm vụ của mỗi người, của Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm
đặc biệt của ngành y tế. Sức khoẻ và bảo vệ sức khoẻ là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược con người và trong sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá của Đảng
ta[32].
Năm 1993, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại kỳ họp thứ 4 đã có
quyết định quan trọng của công tác CSSKBĐ. Ngày 20/6/1996 Chính phủ đã ban hành
Nghị định 37/CP về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và BVSKND trong giai
đoạn 1996 -2000 và 2020. Trong đó xác định “CSSKBĐ là một công tác trọng yếu để
9
đạt được các mục tiêu giảm tỷ lệ mắc bệnh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, tăng cường sức
khoẻ và thể lực, tăng tuổi thọ, tạo điều kiện để mọi người dân đều được hưởng một
cách công bằng những dịch vụ CSSK”[23].
Lời kêu gọi của Hội nghị Altamata (năm 1984) cho rằng mọi người phải được
giáo dục để biết CSSK cho chính mình, phải được bảo vệ an toàn thực phẩm và dinh
dưỡng hợp lý, phải được sống trong môi trường lành mạnh và thanh khiết, có nước
uống an toàn, phải được chữa bệnh và tật thông thường, được bảo vệ và chống lại các
loại dịch ở địa phương, phải được tiêm chủng chống lại các loại bệnh nhiễm trùng đã
có vacxin dự phòng, phải thực hiện các biện pháp KHHGĐ, nâng cao sức khỏe các bà
mẹ và trẻ em[26]. Trên cơ sở các quan điểm về chăm sóc sức khoẻ đó chúng ta đã xây
dựng một hệ thống y tế hoàn chỉnh, chính quy và hiện đại, trước hết lấy việc kiện toàn
mạng lưới y tế cơ sở, y tế huyện, quản lý là khâu quyết định nhất để giải quyết được
các yêu cầu cơ bản của y tế phổ cập, nghành y tế đã đưa kỹ thuật xuống xã để phục vụ
tận người dân[11,12]. Đa dạng hoá các loại hình CSSK (Nhà nước, dân lập và tư nhân
trong đó y tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, phát triển các loại hình CSSK nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của nhân dân, chống lại mọi biểu hiện tiêu cực
trong các dịch vụ CSSK[32].
Theo đánh giá của Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ VI thì “ Công tác KCB
có tiến bộ, nhưng nhìn chung còn chuyển biến chậm”, các tuyến dưới như TYT, các
bệnh viện huyện thì chất lượng chưa được nâng cao do hạn chế nhiều mặt. Những khó
khăn nổi bật nhất vẫn là sự thiếu thốn trang thiết bị phục vụ công tác KCB, kinh phí
đầu tư ít, trình độ cán bộ còn hạn chế là những vấn đề mà người cung ứng dịch vụ cần
phải quan tâm[30].
1.2 Thực trạng công tác CSSK của nước ta trong quá trình cải cách kinh tế:
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN, nguồn ngân sách cho y tế giảm nhiều do quỹ tập thể giảm sút làm cho hàng
10
loạt TYT xã bị ảnh hưởng, dẫn đến làm việc hoạt động cầm chừng do thiếu nguồn lực.
Có lúc, có nơi nhiều tháng liền CBYT xã không có tiền lương, hoạt động thất thường.
Nhiều TYT xã xuống cấp, nhiều xã không còn trạm y tế, nhiều xã không xây dựng
được trạm y tế.
Trong những năm gần đây, Nhà nước đã tăng cường đầu tư qua các chương
trình y tế, mặt khác tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi tiến bộ, đời sống của
người dân ngày càng được nâng cao hơn trước, mối quan hệ giữa người cung ứng và sử
dụng các dịch vụ theo phương thức "bên cho" - "bên nhận" không còn tiếp tục như
trước nữa. Song song với việc tồn tại theo phương thức DVYT theo kiểu cũ thì trong
dịch vụ y tế hình thành một quan hệ phục vụ theo kiểu cơ chế thị trường. Đó là quan hệ
giữa một bên là " người bán" và một bên là "người mua". Đến nay, mọi người đều có
quyền lựa chọn dịch vụ KCB như nhau, nhưng phải trả tiền. Nhà nước chỉ cung cấp các
DVYT cơ bản và cho những đối tượng chính sách, chương trình quốc gia như người
nghèo, trẻ em, bệnh xã hội… . Khả năng lựa chọn DVYT theo nhu cầu lại phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó điều kiện kinh tế, khoảng cách tới cơ sở y tế, các yếu tố tập
quán… Đây là vấn đề khó khăn đối với người nghèo, vùng sâu và vùng xa. Sự mất
công bằng trong tiếp cận với DVYT giữa người giầu và người nghèo, nông thôn với
thành thị, miền xuôi và miền núi…. Chỉ có thể giải quyết thông qua hệ thống y tế công
cộng.
Do vậy, đối với khu vực y tế Nhà nước cần được tăng cường để giữ vững vai trò
chủ đạo trong việc CS &BVSKND, tập trung ưu tiên vào những DVYT mà y tế tư
nhân không có khả năng thực hiện, hỗ trợ cho những người có công với nước, vùng
sâu, vùng xa và người nghèo.
Đối với khu vực y tế tư nhân, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, mặt khác
phải tăng cường quản lý bằng pháp luật, tập hợp họ thành các tổ chức nghề nghiệp,
khuyến khích và yêu cầu tư nhân tham gia vào công tác CS &BVSKND, dưới sự chỉ
đạo của y tế địa phương [7]
11
Do vậy, cần cải tiến hệ thống quản lý, tổ chức CSSKND, tiếp tục phục hồi và
củng cố, bảo đảm cho sự phát triển cân đối và năng động, nâng cao hiệu suất hoạt động
của mạng lưới y tế cơ sở, bằng cách hợp lý hoá việc bố trí cán bộ, đảm bảo đời sống
cho CBYT, tăng cường trang thiết bị, cung cấp thuốc men, nâng cao tay nghề và tạo
nguồn kinh phí.
Quan điểm của Đảng ta đã nêu trong văn kiện Đại Hội VII: "Tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi với công bằng xã hội" và " Tăng trưởng kinh tế sẽ là điều kiện để thực
hiện công bằng xã hội và ngược lại chính sự công bằng xã hội sẽ huy động được mọi
nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển hơn"[44].
Với quan điểm sức khoẻ cho mọi người, nghành y tế có chủ trương nhấn mạnh
đến quan điểm công bằng trong CSSK: Xây dựng các cơ chế, các chính sách tập trung
CSSK cho người nghèo, người có công với nước, vùng sâu, vùng xa…
Chính vì vậy cần phải quan tâm hơn sự bất công trong CSSK, xác định và giải
quyết những vấn đề y tế với sự phân cực giàu nghèo trong các tầng lớp xã hội, điều
phối hợp lý và giải quyết những vấn đề y tế gắn với sự phát triển kinh tế không đồng
đều giữa các địa phương có chính sách điều chỉnh mối quan hệ giữa các DVYT.
1.3. Hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh:
Trong hệ thống y tế của nhà nước ta bao gồm 4 tuyến là trung ương, tỉnh, huyện
và xã. Hiện nay ngoài loại hình y tế công lập thì chúng ta còn có hệ thống y tế tư nhân
cũng đang hoạt động song song.
1.3.1 Bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương:
Đây là những cơ sở KCB được trang bị các phương tiện kỹ thuật tốt, tập trung
hầu hết các bác sỹ có chuyên môn cao, đặc biệt là tuyến tỉnh thành phố và nhất là tuyến
trung ương, có khả năng chẩn đoán và điều trị những trường hợp bệnh phức tạp.
12
1.3.2 Y tế tuyến huyện
Là nơi cứu chữa cơ bản phục vụ nhân dân, đồng thời là tuyến hỗ trợ trực tiếp cho
tuyến xã. Củng cố y tế tuyến huyện, không những nâng cao chất lượng cứu chữa cơ
bản tại chỗ mà còn hỗ trợ cho công tác CSSKBĐ của tuyến xã, đồng thời có tác dụng
giảm bớt gánh nặng cho y tế tuyến tỉnh và trung ương, để các tuyến này tập trung vào
nghiên cứu khoa học và cứu chữa có chất lượng, những trường hợp nặng và phức
tạp[31].
1.3.3 Y tế tuyến xã:
Là đơn vị đầu tiên tiếp xúc với nhân dân nằm trong hệ thống y tế Nhà nước có
nhiệm vụ thực hiện các nội dung CSSKBĐ cho nhân dân trên địa bàn. Hiện nay cán bộ
y tế xã trong toàn quốc không thiếu, trừ vùng núi cao, vùng xa, nhưng cơ cấu chất
lượng còn thiếu và hạn chế. Tăng cường công tác khám chữa bệnh và dự phòng cả về
tổ chức, đào tạo và đầu tư nâng cấp các cơ sở chuyên môn, khôi phục và phát triển các
phong trào vệ sinh phòng bệnh và bảo vệ môi trường sống[31,26]. Trong những năm
gần đã có nhiều chính sách về hoạt động y tế xã như Chỉ thị 06-CTTW của Ban chấp
hành Trung ương về củng cố màng lưới y tế cơ sở, Chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn
2001-2101 để củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của trạm y tế xã, đáp ứng
được nhu cầu CSSK của nhân dân.
1.3.4 Y tế thôn, bản:
Là chân rết của y tế xã, phường, ở ngay trong dân, bám sát dân có nhiệm vụ tuyên
truyền giáo dục sức khoẻ, phát hiện sớm bệnh dịch, sơ cứu và xử trí cấp cứu ban đầu,
chăm sóc người mắc bệnh nhẹ mãn tính...Vì vậy, y tế thôn, bản có ý nghĩa quan trọng
và rất cần thiết trong việc CSSK tại cộng đồng nhất là khu vực nông thôn miền núi.
Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới này để y tế thôn, bản thực sự
là cánh tay vươn dài của y tế cơ sở.
13
1.3.5 Hệ thống y dược tư nhân:
Việc cho phép hành nghề y dược tư nhân đã làm cho các DVYT trở nên đa dạng,
không những chỉ có cán bộ y tế về hưu làm tư mà ngay cả những người đang làm việc
nhà nước cũng được phép hành nghề tư nhân ngoài giờ. Với sự phát triển y tế tư nhân,
Nhà nước cần phải có chính sách về vai trò của y tế nhà nước trong việc cung cấp
DVYT, cần thiết phải phân bổ lại y tế nhà nước giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt là
những vùng núi, vùng cao, nơi mà cả những y tế nhà nước và y tế tư nhân đều thiếu.
Cũng cần thiết phải có sự phối hợp và phân công trách nhiệm giữa y tế nhà nước và y
tế tư nhân, phải có cơ chế quản lý về mặt chất lượng KCB, cũng như giá thành chi phí
KCB [31]. Tuy nhiên người nghèo, vùng nghèo vẫn nhận được sự bao cấp của nhà
nước nhiều hơn. Nhìn chung, y tế tư nhân ở Việt Nam phát triển khá nhanh, song vẫn
còn ở quy mô nhỏ, phân bố rộng khắp ở cả vùng thành thị, nông thôn và miền núi. Tuy
nhiên, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa là những nơi có điều kiện kinh tế và địa
lý khó khăn thì lực lượng này còn mỏng, song cũng đã và đang đáp ứng nhu cầu khá
lớn về KCB cho nhân dân [24].
Tóm lại, y tế cơ sở có vị trí chiến lược quan trọng, bởi vì y tế cơ sở là đơn vị gần
dân nhất, phát hiện ra những vấn đề của CSSK sớm nhất: Giải quyết tới 80% khối
lượng phục vụ y tế tại chỗ, thể hiện sự công bằng trong CSSK rõ nhất, là nơi trực tiếp
thực hiện và kiểm nghiệm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về y tế, là
bộ phận quan trọng nhất của ngành y tế tham gia vào ổn định chính trị - xã hội.
1.4 Tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế:
"Tiếp cận dịch vụ y tế" là khả năng mà người sử dụng dịch vụ y tế khi cần có thể
đến sử dụng DVYT tại nơi cung cấp [56]. Tiếp cận còn bao hàm cả đánh giá, cách nhìn
nhận DVYT trong tầm suy nghĩ của người dân về loại dịch vụ này qua các yếu tố
không gian, thời gian, chi phí và chất lượng dịch vụ.
14
1.4.1 Cơ sở lý thuyết cho nghiên cứu tiếp cận và sử dụng DVYT
Để biết được sự lựa chọn DVYT của người dân (sử dụng gì, khi nào và tại sao)
thì chúng ta cần phải có những nghiên cứu rất phức tạp và công phu. Việc sử dụng
DVYT của người dân trong cộng đồng là cả một quá trình tương tác nhiều yếu tố. Để
làm sáng tỏ được các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn DVYT của người dân với
nhiều loại hình hiện nay cần phải có mô hình tương tác các yếu tố tiếp cận và sử dụng
DVYT.
Cho đến nay có nhiều cách đề cập để xây dựng mô hình giải thích các mối quan
hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng DVYT của người dân. Nhưng có 3 cách
đề cập chính được nói đến nhiều nhất đó là kinh tế học, nhân học và ứng xử xã hội
trong CSSK.
- Cách đề cập kinh tế học: Cách đề cập này dựa trên nhận định rằng con người khi
phải lựa chọn một dịch vụ nào đó, luôn tuân theo các nguyên lý kinh tế học nhằm đạt
được được lợi ích tối đa với mức chi phí có thể bỏ ra.
- Cách đề cập nhân học: Cơ sở của cách đề cập này là sự lựa chọn cụ thể của
người dân được xem là kết quả của quá trình ra quyết định nhiều bậc, do vậy các mô
hình phát triển từ cách đề cập này còn có tên gọi là mô hình lý thuyết quyết định
(Theoretical decision models). Cách đề cập này tỏ ra có ưu thế trong việc xem xét trình
tự trong đó người dân tiếp cận thực tế với các dịch vụ: Dịch vụ nào được họ sử dụng
trước tiên, loại nào thứ hai, thứ ba. Vì sao, người dân lại chuyển từ sử dụng DVYT này
sang DVYT kia. Do vậy cách đề cập này thường được nhiều nhà nhân học y học sử
dụng trong nghiên cứu sự lựa chọn DVYT của người dân trước một vấn đề y tế cụ thể.
- Cách đề cập những mô hình quyết định: Cách đề cập này tập trung vào việc xem
xét đồng thời sự tác động của tập hợp các biến giải thích sự lựa chọn DVYT của người
dân. Nhiều mô hình được phát triển từ mô hình này như:
+ Mô hình niềm tin sức khoẻ (Health belief model)
+ Mô hình lý thuyết ứng xử chủ định (Behavior intention theory)
15
+ Mô hình sử dụng DVYT ( Heath service utilization model)
+ Mô hình ứng xử khi ốm (Sick role models)
Trong những năm 1950 và 1960, thịnh hành sử dụng mô hình niềm tin sức khoẻ.
Những năm 1970 và 1980 có sự chuyển đổi trong việc sử dụng các mô hình còn lại.
Trong số đó mô hình được sử dụng rộng rãi nhất trong nghiên cứu và dự báo ứng xử
của người dân khi ốm là mô hình sử dụng DVYT hay còn gọi là mô hình ứng xử trong
CSSK của Andersen [51].
1.4.2 Các yếu ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận và sử dụng DVYT
Khả năng tiếp cận DVYT tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có 4 nhóm yếu tố
chính:
- Nhóm các yếu tố về khoảng cách từ nơi ở đến cơ sở y tế: Khoảng cách chính là
quãng đường đi được tính bằng km từ nhà tới cơ sở cung cấp dịch vụ y tế. Nhiều ý kiến
cho là một khoảng cách đi từ đầu này đến đầu kia bằng xe máy chỉ mất 15 phút để đi
hết 5 km với đường xá tốt thì được coi là khoảng cách tiếp cận được[34,19,48]. Một
quan điểm khác như cách tính của chương trình CBM lại cho rằng khoảng cách tới cơ
sở y tế bằng phương tiện thông thường và sẵn có tại địa phương dưới 1 giờ là tiếp cận
được [8].
Nhóm này bao gồm khoảng cách đường đi, chất lượng đường xá, phương tiện
giao thông, thông thường và các biến động thời tiết theo mùa... Đối với trường hợp
bệnh hiểm nghèo, nặng thì khoảng cách không phải là yếu tố quyết định.
- Nhóm các yếu tố về kinh tế: Thông thường thì càng nghèo càng hạn chế đến cơ
sở y tế. Sự chênh lệch về thu nhập dẫn đến sự tiêu dùng DVYT giữa người giàu và
người nghèo ở thành thị cũng như nông thôn không giống nhau. Hộ gia đình có thu
nhập cao, người ta dễ dàng quyết định đi KCB kể cả ở nơi xa nhất, nhưng có chất
lượng nhất, ngược lại những người nghèo thường có xu hướng tự chữa ở nhà hoặc có
xu hướng đến thầy thuốc gần nhà để giảm bớt chi phí hoặc hạn chế đến cơ sở y tế có
chất lượng cao, thu phí cao [49,25,48,54].
16
Đối với các nước đang phát triển thì yếu tố kinh tế quyết định rất lớn tới khả năng
tiếp cận DVYT của người dân. Để biết được tình trạng kinh tế người ta dựa trên cách
tính thu nhập bình quân đầu người tháng. Ở Việt nam theo quyết định số
1143/2000/QĐ - LĐTBXH của Bộ lao động thương binh và xã hội ngày 01/11/2000 thì
hộ nghèo có thu nhập bình quần đầu người dưới 80.000đồng/ người/ tháng ở vùng
nông thôn, miền núi và hải đảo, dưới 100.000 đồng cho nông thôn đồng bằng và dưới
150.000 đối với vùng thành thị. Nhìn chung thì thu nhập bình quân đầu người/ năm của
HGĐ ở Việt Nam còn đang ở mức thấp [36].
- Nhóm các yếu tố dịch vụ y tế: Trong nhóm này đề cập tới tính thuận tiện về giờ
giấc, thời gian mở cửa, tính thường trực, tính sẵn sàng của các DVYT mà người dân
cần, đạo đức thái độ của người cung ứng dịch vụ và chất lượng các dịch vụ theo yêu
cầu của người dân[14].
- Nhóm các yếu tố văn hoá: Đó là các tập quán về chữa bệnh, như coi trọng chữa
bệnh cho nam hơn nữ, coi trọng trẻ em hơn người già, ngại đến thầy thuốc nam
giới...Các yếu tố về trình độ hiểu biết, văn hoá của người ốm và chủ hộ cũng ảnh
hưởng tới quá trình quyết định tới sự tiếp cận DVYT [33].
Năm 1968 Anderson và Rosentock đã đưa ra mô hình sử dụng DVYT ở Hoa Kỳ
và các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn DVYT như sau[50,53]:
Nhóm yếu tố
khả năng
Nhu cầu KCB
Yếu tố đặc
trưng của GĐ
Nguồn lực của
gia đình
Tình trạng SK
bản thân
Cấu trúc xã
hội
Nguồn lực của
cộng đồng
Tình trạng SK do người
cung cấp DVYT đánh giá
Nhóm yếu tố
cơ bản
Lòng tin y tế
Sơ đồ: Mô hình sử dụng dịch vụ y tế
Sử dụng
DVYT
17
Như vậy, Trên mô hình có 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng tới việc sử dụng các DVYT
của người dân. Theo các tác giả nhận xét thì khi tách riêng từng yếu tố không thấy ảnh
hưởng rõ rệt. Nhưng khi tác động tổng hợp của cả 3 yếu tố thì lại có ảnh hưởng. Năm
1981 Fiedler đã sửa lại mô hình này. Cho đến nay, 2 mô hình của Anderson và
Rosentock vẫn thường đựơc sử dụng để thiết kế nghiên cứu về sử dụng DVYT [14,52].
Hành vi tìm kiếm sức khoẻ (Health seeking behavior) là sự lựa chọn ưu tiên các
loại DVYT của người dân khi họ bị ốm theo từng mức độ khác nhau của bệnh. Các
hành vi tìm kiếm sức khoẻ của người dân được thể hiện như sau:
+ Tự điều trị: Là hình thức người dân tự đi mua thuốc hay sử dụng các lá cây
thuốc thông thường để tự điều trị. Đây là loại hình hay được sử dụng cho các bệnh nhẹ
và thông thường mà người dân cho là không cần phải khám và điều trị tại các cơ sở y
tế.
+ Đến các phòng khám và thầy thuốc tư nhân thường khi họ tự mua thuốc điều trị
không có kết quả họ sẽ lựa chọn hình thức này vì: Họ tin vào chất lượng của việc khám
chữa bệnh và sự thuận tiện, thái độ phục vụ chu đáo của các thầy thuốc.
+ Đến bệnh viện khi họ tự điều trị và điều trị tư không có kết quả.
+ Đến trạm y tế xã: Phần lớn người dân đến đây để sinh đẻ và nhận các dịch vụ
phòng bệnh như: Tiêm chủng, dịch vụ KHHGĐ… . Cũng có một số lượng người đến
để khám chữa bệnh.
Tình trạng sức khoẻ hay bệnh tật của người dân là yếu tố quyết định và quan
trọng nhất dẫn đến sử dụng DVYT.
Sự hài lòng của người sử dụng: Biểu thị thái độ của người tiếp xúc trực tiếp và sử
dụng thực tế DVYT đối với cơ sở cung cấp DVYT. Sự hài lòng được đánh giá bằng
chính người sử dụng hay bằng ý kiến chung của người dân với loại hình cung cấp
DVYT đó. Phạm vi hài lòng của người dân bao gồm những mặt thái độ của nhân viên y
tế, chất lượng cung cấp dịch vụ, trang thiết bị y tế, kết quả điều trị, giá dịch vụ …[16].
Các khó khăn của người dân khi sử dụng dịch vụ y tế:
18
+ DVYT tư nhân: Thường là giá cao và không ổn định, có sự lạm dụng sử dụng
thuốc để thu nhiều lợi nhuận, các điều kiện về quy định chuyên môn thường không
thực hiện tốt…[17.33. 58].
+ Bệnh viện: Giá viện phí cao, khó khăn khi muốn chuyển viện, phiền hà các thủ
tục hành chính, thái độ của nhân viên y tế, phải trả ngay viện phí.
+ Trạm y tế xã: Trình độ chuyên môn hạn chế, trang thiết bị không đủ, thực hiện
các quy định chuyên môn và thủ tục, niềm tin của người dân về DVYT của trạm y tế,
trách nhiệm của các nhân viên y tế.
Tóm lại việc quyết định chọn sử dụng loại hình DVYT nào là hoàn toàn phụ
thuộc vào khả năng chi trả của người dân, chất lượng và giá cả, sự thuận tiện và khả
năng cung cấp dịch vụ của cơ sở y tế.
1.5 Một số nghiên cứu về sử dụng dịch vụ y tế:
1.5.1 Các nghiên cứu nước ngoài:
Các nghiên cứu sử dụng DVYT trên thế giới đều cho thấy quyết định người bệnh
đi đâu, làm gì khi ốm phụ thuộc vào khá nhiều vào chất lượng DVYT, giá thành và loại
bệnh, mức độ bệnh cũng như mức độ khoảng cách từ nhà tới cơ sở y tế và khả năng
tiếp cận tới các DVYT của người dân.
Cuộc điều tra phỏng vấn HGĐ về việc sử dụng DVYT của người dân đã được
thực hiện nhiều năm nay, đầu tiên là ở Mỹ vào đầu những năm 1920, tăng nhanh mạnh
vào những năm 1960. Từ những năm 1970 các cuộc điều tra này được tiến hành rộng
rãi khắp các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ La Tinh [55].
Andersen và Rosentock từ cuối những năm 1960 đầu năm 1970 đã đưa ra mô
hình hành vi CSSK ở Hoa Kỳ và các yếu tố ảnh hưởng. Có 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng
tới việc sử dụng DVYT của người dân là: Nhóm yếu tố cơ bản (đặc trưng cá nhân, gia
đình, cấu trúc xã hội và niềm tin vào hệ thống y tế), nhóm yếu tố khả năng (gia đình và
cộng đồng) và nhóm nhu cầu KCB của người dân (tình trạng sức khoẻ). Điểm mạnh
19
của cách đề cập Andersen là đưa ra sơ đồ lý thuyết về lựa chọn các biến nghiên cứu.
Nhận biết các biến liên quan đến sử dụng DVYT và tỷ lệ đúng cao hơn[50].
Tại Hoa Kỳ hằng năm giành 14% GDP cho y tế nhưng vẫn còn khoảng 35 triệu
người không được hưởng các dịch vụ CSSK cần thiết vì giá thành cao so với khả năng
chi trả của người bệnh[22].
Tại Trung Quốc chi phí cho y tế vào khoảng 12% so với tổng chi phí của hộ gia
đình, trong đó 15,7% số hộ phải vay tiền để chi phí cho việc CSSK, 8,8% số hộ phải nợ
tiền bệnh viện, 5,6% hộ phải bán tài sản của gia đình sau khi đi KCB và 3,3% số hộ
phải nhờ đến sự cứu trợ của Chính Phủ dành cho bệnh tật. [25]
Cuộc điều tra tìm hiểu nhu cầu sử dụng DVYT ở trẻ em Philipin thấy 55,2% sử
dụng y học hiện đại 11% sử dụng y học cổ truyền 37% tự xử lý. Các tác giả thấy rằng
chi phí là yếu tố nhỏ không đáng kể. Việc lựa chọn y học cổ truyền không phụ thuộc
vào thu nhập mà phụ thuộc vào trình độ người mẹ [47].
Điều tra về việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở vùng nông thôn Ấn Độ trên
200 HGĐ thấy rằng 52% sử dụng dịch vụ y học hiện đại, 26% sử dụng y học cổ truyền,
6% tự sử lý, 16% vừa sử dụng y học hiện đại vừa sử dụng y học cổ truyền [21].
Nghiên cứu ở Thái Lan cho thấy, việc cung cấp DVYT và chất lượng ảnh hưởng
tới tiếp cận và sử dụng của người dân. Ở nông thôn chỉ có 15,5 %(1970) và 0,8 lần tiếp
xúc/người/năm tìm kiếm DVYT nhà nước [22].
1.5.2 Các nghiên cứu trong nước:
Trong thời kỳ đổi mới đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến mô hình sử dụng
DVYT tại cộng đồng. Mô hình sử dụng DVYT khác nhau theo từng vùng địa lý, theo
đặc trưng của người ốm và khác nhau theo mức độ nặng nhẹ của bệnh tật. Nhìn chung
các nghiên cứu đều đưa ra các kết quả là hình thức tự mua thuốc về nhà điều trị chiếm
tỷ lệ cao nhất dao động từ 50 đến 65% với các lý do bệnh nhẹ, trạm y tế ở xa, mất thời
gian chờ đợi, nơi khám chữa bệnh của người dân cũng rất đa dạng Bệnh viện cao nhất,
tiếp đến TYT xã, thầy thuốc tư và tại nhà[31,32,35].
- Xem thêm -