Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở trung quốc và bài học kinh nghiệm đối với vi...

Tài liệu Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở trung quốc và bài học kinh nghiệm đối với việt nam

.PDF
116
96
50

Mô tả:

1 MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………….………….…………. 3 CHƢƠNG I - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĐKT NHÀ NƯỚC Ở TRUNG QUỐC………………………………………….........………...…… 1.1. 8 Cơ sở lý luận của việc hình thành TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc………………………………………………………………………………….. 8 1.1.1. Khái niệm TĐKT Nhà nước của Trung Quốc………………………. 8 1.1.2. Mô hình nền kinh tế Trung Quốc và vai trò của TĐKT Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế Trung Quốc………………………. 1.2. 12 Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng và phát triển mô hình TĐKT Nhà ở nƣớc Trung Quốc 19 ……………………………………………. CHƢƠNG II - THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TĐKT NHÀ Ở NƯỚC TRUNG QUỐC 24 ……………………………………………….... 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của mô hình TĐKT ở Trung 24 2.1.1. Mục đích, mục tiêu và các nguyên tắc thành lập TĐKT…….... 24 2.1.2. Các giai đoạn hình thành và phát triển TĐKT Nhà nước ở 27 Nhà nƣớc Quốc………………………………………….………………... Trung Quốc…………………………………………………………………………..…………. 2.1.3. Vai trò của Chính phủ đối với quá trình hình thành và phát triển TĐKT Nhà nước ở Trung Quốc………………………………….…….. 31 Đặc điểm của mô hình TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc 35 2.2.1. Đặc trưng cơ bản của các TĐKT Nhà nước ở Trung Quốc 35 2.2. 2.2.2. Những kết quả đạt được của quá trình hình thành và phát triển mô hình TĐKT Nhà nước ở Trung Quốc……………………… 51 2 2.3. Đánh giá chung về mô hình TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc …………………………………………………………………………………… 2.3.1. Những thành công của mô hình TĐKT Nhà nước ở Trung Quốc………………………………………………………………………………………………….. 2.3.2. 64 64 Những hạn chế chủ yếu của mô hình TĐKT Nhà nước ở Trung Quốc …………………………………………………………………………………………………... 69 2.3.3. Bài học kinh nghiệm từ mô hình TĐKT Nhà nước của Trung Quốc………………..……………………………………………………………………. 74 CHƢƠNG III - VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CUẢ TRUNG QUỐC VÀO VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TĐKT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ………………………..………………………………………………………. 3.1. 81 Tình hình khu vực DNNN và quan điểm về TĐKT nhà nƣớc ở Việt Nam ……………………………………………………………………….. 81 3.1.1. Bối cảnh khu vực DNNN ở Việt Nam hiện nay……………………. 81 3.1.2. Quan điểm về tập đoàn hoá các Tổng công ty Nhà nước ở Việt Nam………………………………………………………………………………………… 85 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ……………………………………. 93 KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………. 100 PHỤ LỤC 1………………………………………………………………………………………………….. 102 PHỤ LỤC 2………………………………………………………………………………………………….. 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………….. 106 3.2. CHỮ VIẾT TẮT Bưu chính - Viễn thông BC - VT Chủ nghĩa xã hội CNXH Công nghệ thông tin CNTT Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH Doanh nghiệp Nhà nước DNNN Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Kinh tế thị trường KTTT Nhân dân tệ NDT Nhà xuất bản Nxb Sản xuất, kinh doanh SX - KD Tập đoàn doanh nghiệp TĐDN Tập đoàn kinh doanh TĐKD Tập đoàn kinh tế TĐKT Tập đoàn kinh tế Nhà nước TĐKTNN Tổng Công ty Tcty Việt Nam VN Xã hội chủ nghĩa XHCN Xuất nhập khẩu XNK 3 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mô hình tập đoàn kinh tế (TĐKT) là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trƣờng nhƣ các loại mô hình Cartel, Syndicate, Trust, Conglomerate, Chaebol… Nó ra đời và phát triển từ yêu cầu của tích tụ và tập trung sản xuất ở các nƣớc tƣ bản phát triển. Vì vậy, nhiều quốc gia trong đó có Trung Quốc đã rất chú trọng đến vấn đề hình thành các TĐKT do những lợi ích kinh tế quy mô lớn mà các tập đoàn tạo ra đối với sự tăng trƣởng và phát triển trong xu thế hội nhập với toàn cầu hoá kinh tế và từng bƣớc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nƣớc. Từ 1978 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành cải cách doanh nghiệp Nhà nƣớc (DNNN) với một trong những nội dung quan trọng là hình thành các TĐKT mạnh, có sức cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế. Do tính đặc thù của Trung Quốc là hầu hết các doanh nghiệp đều thuộc sở hữu nhà nƣớc nên việc phát triển các TĐKT của Trung Quốc chịu ảnh hƣởng của Chính phủ nhiều hơn là của các lực lƣợng thị trƣờng. Nhờ có những cải tiến về thể chế tổ chức doanh nghiệp mà một trong những nội dung của nó là thành lập các TĐKT và ở đó công ty mẹ có vai trò kiểm soát chiến lƣợc hoạt động và vốn đối với các công ty con, trong những năm qua, các TĐKT của Trung Quốc đã phát huy đƣợc tác dụng đối với nền kinh tế, tạo đƣợc những bƣớc tăng trƣởng vƣợt bậc. Trong thời kỳ đổi mới 1978 - 2001, GDP của Trung Quốc đã tăng bình quân hơn 8%/năm và Trung Quốc đã trở thành một trong những nền kinh tế tăng trƣởng nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, mô hình TĐKT của Trung Quốc cũng có những hạn chế nhất định. Một số lƣợng lớn các tập đoàn hoạt động không mấy hiệu quả, trong số đó có các TĐKT Nhà nƣớc. Thực tiễn này đặt ra vấn đề cần nghiên cứu đánh 4 giá mô hình TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc để rút ra những bài học so sánh cho quá trình xây dựng và phát triển các TĐKT Nhà nƣớc ở Việt Nam. Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng và Chính phủ chủ trƣơng xây dựng các TĐKT mạnh, nhất là trong các ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân để phục vụ cho sự nghiệp CNH và HĐH đất nƣớc. Đối với Việt Nam, việc xây dựng và phát triển TĐKT là vấn đề mới trên cả hai phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc nhận thức đúng đắn về vai trò của Nhà nƣớc đối với sự hình thành và phát triển của TĐKT là một trong những yêu cầu bức xúc hiện nay của Việt Nam trong quá trình thực hiện đổi mới nền kinh tế nói chung và cải cách DNNN nói riêng. Trung Quốc và Việt Nam có những điểm tƣơng đồng về mục đích cải cách nền kinh tế và cải cách DNNN. Một là, cả hai nƣớc đều phát triển nền KTTT theo định hƣớng XHCN và đều là các nƣớc đang phát triển. Hai là, cả hai đều chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền KTTT. Ba là, cả hai đều đang trong quá trình CNH - HĐH đất nƣớc. Bốn là, cả hai đều tích cực đổi mới, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, việc nghiên cứu mô hình TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc, làm rõ sự hình thành, phát triển TĐKT Nhà nƣớc và đánh giá chúng để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm đối với việc xây dựng, phát triển TĐKT Nhà nƣớc trên cơ sở các Tổng công ty (Tcty) Nhà nƣớc ở Việt Nam là cần thiết. Vì thế, chúng tôi chọn đề tài “Mô hình tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị xã hội chủ nghĩa (XHCN). 2. Tình hình nghiên cứu Những vấn đề lý luận chung về TĐKT, nhu cầu hình thành và phát triển TĐKT ở Việt Nam và các mô hình TĐKT xuyên quốc gia của một số nƣớc châu Á đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu và công bố qua một số sách và một 5 số bài viết đăng trên các báo và tạp chí. Ví dụ có sách: “Mô hình TĐKT trong công nghiệp hoá và hiện đại hoá” do Vũ Huy Từ chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002; sách “Bàn về cải cách toàn diện DNNN” của tác giả Trƣơng Hán Bân do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1996; hay sách “Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Đình Phan do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1996. Và sách “Trung Quốc trƣớc Ngã ba đƣờng” của tác giả Peter Nolan, Trần Thị Thái Hà (biên dịch), PGS.TS Trần Đình Thiên và Nguyễn Mạnh Hùng (hiệu đính), do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2005. Sách “Cải tổ các Chaebol Hàn Quốc và Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của TS. Vũ Phƣơng Thảo do Nxb Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2005 nghiên cứu mô hình TĐKT của Hàn Quốc, và sách “Những vấn đề cơ bản của Luật DNNN năm 2003” của Vụ Công tác lập pháp do Nxb Tƣ pháp xuất bản năm 2003, tập hợp các quy định pháp lý về Tcty Nhà nƣớc và TĐKT ở Việt Nam … Ngoài ra, các bài viết trao đổi về xây dựng mô hình TĐKT Nhà nƣớc ở Việt Nam đã đăng tải nhiều trên các báo, tạp chí nhƣ: “Một số vấn đề cơ bản của TĐKT” của tác giả Nguyễn Thế Hải đăng trên tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dƣơng số 8/2005. Tác giả Đặng Khánh Duy với bài “Cần có một tƣ duy mới trong thành lập TĐKT ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Kinh tế và phát triển, số 98 (8/2005), hay bài “Việt Nam có xây dựng thành công TĐKT” của tác giả Lê Mai đăng trên tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng, số 9/2005 v.v… Và một số luận văn tốt nghiệp đại học, tốt nghiệp thạc sĩ, các bài báo trên các website cũng nghiên cứu, đề cập đến vấn đề TĐKT ở Việt Nam. Trong thời gian gần đây, khi Chính phủ chủ trƣơng hình thành các TĐKT Nhà nƣớc trên cơ sở các Tổng công ty 90 và 91, mô hình TĐKT của Trung Quốc trở thành vấn đề đƣợc sự tập trung chú ý nghiên cứu. Thạc sĩ 6 Phan Minh Tuấn, có bài “TĐKT Trung Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam” đã đề cập đến những đặc trƣng của mô hình TĐKT ở Trung Quốc đăng trên tạp chí Thông tin Khu Công nghiệp Việt Nam, số 31 (4/2003). Và vấn đề làm thế nào để hình thành và phát triển TĐKT đã đƣợc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ƣơng nghiên cứu trong một đề án cấp nhà nƣớc: “Đề án hình thành và phát triển TĐKT trên cơ sở Tổng công ty nhà nƣớc”. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề cần thiết phải xây dựng các TĐKT Nhà nƣớc ở Việt Nam vẫn đang đƣợc tranh luận trong giới nghiên cứu. Bên cạnh đó, chƣa có những nghiên cứu sâu đánh giá những mặt đƣợc và những hạn chế của mô hình TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc để từ đó rút ra những bài học vận dụng cho Việt Nam trong việc xây dựng các Tcty 90, 91 thành TĐKT Nhà nƣớc. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu mảng đề tài này là việc làm cần thiết và có ý nghĩa trên cả hai phƣơng diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là nghiên cứu những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và chính phủ Trung Quốc về thành lập TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá mô hình TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc. Trên cơ sở đó, đề xuất các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam tham khảo trong quá trình thí điểm hình thành một số TĐKT từ các Tổng công ty Nhà nuớc mạnh ở Việt Nam. Vì thực tế ở Trung Quốc, việc thành lập các TĐKT Nhà nƣớc chiếm tỷ trọng lớn là nhằm tạo điều kiện để Trung Quốc điều chỉnh cơ cấu, định hƣớng phát triển nền kinh tế, đặc biệt là cải cách và phát triển khu vực kinh tế Nhà nƣớc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7 Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào việc nghiên cứu các TĐKT của Trung Quốc, đặc biệt là những TĐKT Nhà nƣớc - là những tập đoàn ra đời và phát triển từ sau cải cách DNNN (năm 1978) đến nay. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các TĐKT từ năm 1978 đến nay (số liệu nghiên cứu chủ yếu tập hợp đến năm 2001) trong khuôn khổ lộ trình cải cách DNNN ở Trung Quốc. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét sự hình thành và phát triển của các TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc trong trạng thái động, nhìn nhận qua các thời kỳ và đặt nó trong mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Các phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê cũng đƣợc sử dụng phục vụ cho mục đích của đề tài. 6. Những đóng góp chính của đề tài - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về mô hình TĐKT nhà nƣớc của Trung Quốc. - Phân tích, đánh giá những thành công và thất bại của mô hình TĐKT nhà nƣớc của Trung Quốc. - Đề xuất một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Cụ thể là những vấn đề mà Việt Nam có thể học hỏi đƣợc từ kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm thực hiện thành công mục tiêu hình thành và phát triển TĐKT Nhà nƣớc của Việt Nam từ mô hình Tổng công ty Nhà nƣớc. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc 8 - Chương 2: Thực trạng hình thành và phát triển của TĐKT Nhà nƣớc ở Trung Quốc - Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc vào việc xây dựng và phát triển TĐKT Nhà nƣớc ở Việt Nam CHƢƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĐKT NHÀ NƢỚC Ở TRUNG QUỐC 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH TĐKT NHÀ NƢỚC Ở TRUNG QUỐC Khái niệm TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc Khái niệm về Tập đoàn kinh tế (TĐKT) hay còn đƣợc gọi là tập đoàn doanh nghiệp của Trung Quốc đƣợc xuất hiện đầu tiên từ những năm 80. Nhƣng cho đến nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tập đoàn. Có quan điểm cho rằng: “TĐKT là một tổ hợp các liên kết pháp nhân kinh doanh thông qua nhiều mô hình và phƣơng thức hoạt động khác nhau nhằm phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng lợi thế về tập trung sản xuất và tính chất độc quyền trong khuôn khổ pháp luật. Tập đoàn hoạt động ở một hay nhiều ngành khác nhau trong phạm vi một nƣớc hoặc nhiều nƣớc, trong đó có công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lƣợc phát triển”. Hiện nay, tên gọi là TĐKT hay tập đoàn kinh doanh hay tập đoàn doanh nghiệp chƣa có sự phân biệt cụ thể nhƣng thực chất các danh từ này là tƣơng đƣơng nên đề tài sử dụng tên gọi thống nhất chung cho cả luận văn là TĐKT. 9 Và thực tế ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến để chỉ loại hình tổ chức kinh tế này là các TĐKT. Một khái niệm khác đƣợc coi là đầy đủ hơn về TĐKT đƣợc đƣa ra trong “Quy định tạm thời về thành lập và quản lý các TĐDN” của Uỷ ban Kinh tế và Mậu dịch Nhà nƣớc, Uỷ ban cải cách cơ cấu Nhà nƣớc từ tháng 4/1995 và đƣợc khẳng định lại trong bộ “Luật về đăng ký kinh doanh của TĐDN” của Cục Thƣơng mại và Công nghiệp (Trung Quốc) năm 1997, thì: “Tập đoàn doanh nghiệp là một tổ hợp kinh doanh tập hợp các doanh nghiệp liên quan với nhau bởi một công ty mẹ. Công ty mẹ của mỗi tập đoàn doanh nghiệp sẽ hoạt động nhƣ là hạt nhân của tập đoàn, còn các công ty con và các doanh nghiệp có liên quan khác đều là pháp nhân đƣợc pháp luật công nhận, chia sẻ tất cả các quyền dân sự liên quan và chịu trách nhiệm dân sự phát sinh; TĐDN không phải là pháp nhân”. TĐKT Trung Quốc là tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá XHCN và của nền sản xuất lớn xã hội hoá. Đó là một khối liên kết bằng quan hệ về tài sản, quan hệ hiệp tác. Nhƣ vậy, quan điểm của Chính phủ và các doanh nghiệp Trung Quốc về TĐKT là nhất quán và tƣơng đối đồng nhất với quan điểm chung trên thế giới. Tuy nhiên do tính đặc thù về kinh tế của Trung Quốc nên sự hình thành và phát triển của các tập đoàn cũng có những nét đặc trƣng khá điển hình. TĐKT ở Trung Quốc có thể không là một pháp nhân song cũng có thể là một pháp nhân độc lập giống nhƣ một hiệp hội các doanh nghiệp nhƣng là hiệp hội đa ngành nghề và có quy mô vốn khổng lồ. Tuy nhiên, khi nhận dạng một TĐKT cần thiết phải quan tâm đến những “đặc điểm” của chúng hơn là việc đƣa ra một định nghĩa có tính “chuẩn hoá”. Về mặt pháp lý, TĐKT ra đời và tồn tại đƣợc nhờ các ràng buộc về quan hệ tài chính, quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ khế ƣớc (hợp đồng). Còn về 10 khía cạnh kinh tế, TĐKT ra đời và phát triển dựa vào nền tảng công nghệ sản xuất hàng loạt, đảm nhiệm tất cả các khâu trong quá trình sản xuất liên kết và chuyên môn hoá. Bên cạnh các khái niệm trên, ở Trung Quốc còn tồn tại khái niệm cho rằng: TĐKT (tên tiếng Anh là Enterprise group - từ này đƣợc định nghĩa trong quy định của Chính phủ) là một tập hợp các doanh nghiệp tồn tại độc lập một cách hợp pháp hình thành một công ty mẹ, các công ty con trong đó công ty mẹ chiếm cổ phần đa số và có các doanh nghiệp hoặc tổ chức thành viên. Quan điểm về TĐKT ở các quốc gia cũng có một số điểm khác nhau. Ví dụ: * Ở Hàn Quốc, TĐKT đƣợc gọi là Chaebol: thuật ngữ Chaebol dùng để chỉ một liên minh gồm nhiều công ty hình thành quanh một công ty mẹ. Các công ty thƣờng có cổ phiếu tại mỗi công ty khác và thƣờng do một gia đình điều hành. * Ở Nhật Bản, TĐKT đƣợc gọi là Keiretsu: từ này mô tả một tổ hợp liên kết không chặt chẽ gồm các công ty đƣợc tổ chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên. Đôi khi, không phải luôn luôn, các công ty sở hữu vốn trong từng công ty khác. Theo cuốn “Từ điển kinh tế” của Nhật Bản, tập đoàn kinh doanh (TĐKD) là một tổ hợp các doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý, nắm giữ cổ phần của nhau và thiết lập đƣợc mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. * Ở Ấn Độ, TĐKT đƣợc gọi là Business group: từ này khái quát chỉ tập hợp các công ty liên kết với nhau dƣới một số hình thức chính quy hoặc không chính quy, có đặc điểm là mức độ ràng buộc trung gian, cụ thể là không phải đơn thuần bị ràng buộc bởi các liên minh mang tính chiến lƣợc ngắn hạn và cũng không phải hợp nhất thành một thực thể duy nhất. Các nhóm 11 doanh nghiệp có hai đặc điểm chính, mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty trong tập đoàn và những hoạt động phối hợp do những mối liên kết đó tạo thành. * Ở phƣơng Tây, TĐKT đƣợc gọi là Conglomerate hoặc Corporation hoặc Group: những từ này thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ một nghiệp đoàn bao gồm nhiều doanh nghiệp về bề ngoài không liên quan với nhau. Cơ cấu này giúp đa dạng hoá rủi ro kinh doanh song sự thiếu tập trung có thể gây khó khăn hơn trong việc quản lý các công ty kinh doanh khác nhau. Theo một số nƣớc nhƣ Hà Lan, Anh, Đan Mạch cho rằng: TĐKD là sự liên kết giữa nhiều chủ thể kinh tế có chung lợi ích, có mối quan hệ sở hữu và khế ƣớc với nhau, cùng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một hoặc nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh tế. * Ở Việt Nam, theo Từ điển Anh - Pháp - Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội (1998), định nghĩa: Một TĐKT và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà công ty mẹ kiểm soát hay tham gia góp vốn, mỗi công ty con cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác. Khái niệm “TĐKT Nhà nƣớc” theo quan điểm của Trung Quốc là: Tổ chức kinh tế có kết cấu nhiều cấp (nhiều cấp độ sở hữu), nó đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa và của nền sản xuất xã hội hoá. Doanh nghiệp nòng cốt của nó là nòng cốt của tập đoàn, là thực thể kinh tế có tƣ cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh. Bằng các hình thức nắm giữ cổ phần khống chế, tham gia cổ phần, hiệp tác, doanh nghiệp nòng cốt gắn bó với một hoặc nhiều doanh nghiệp ở mức độ chặt chẽ, nửa chặt chẽ và liên kết lỏng lẻo. Những doanh nghiệp này đều có tƣ cách pháp nhân độc lập. Các học giả của Trung Quốc cũng cho rằng: TĐKT Nhà nƣớc (TĐKTNN) là tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp liên kết với nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản 12 xuất hàng hoá XHCN và của nền sản xuất lớn xã hội hoá. Thông qua việc nắm cổ phần chi phối, tham gia cổ phần, hợp tác, doanh nghiệp nòng cốt của tập đoàn gắn bó với các doanh nghiệp khác ở mức độ chặt chẽ, nửa chặt chẽ và lỏng lẻo. Các doanh nghiệp trong tập đoàn đều có tƣ cách pháp nhân. Nhƣ vậy quan điểm của các nhà lãnh đạo và các doanh nghiệp Trung Quốc về TĐKTNN nói riêng và TĐKT nói chung là nhất quán và tƣơng đối đồng nhất với quan điểm chung trên thế giới. Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật ở khái niệm TĐKT Nhà nƣớc của Trung Quốc là nêu rõ tập đoàn có một công ty mẹ và các công ty con với mức độ liên kết chặt chẽ, nửa chặt chẽ, hoặc lỏng lẻo tuỳ theo số cổ phần của công ty mẹ ở các công ty thành viên nhƣng công ty mẹ nắm quyền kiểm soát về chiến lƣợc hoạt động của cả tập đoàn. Trong khi đó, khái niệm tập đoàn ở các nƣớc khác lại có cơ cấu linh hoạt hơn, không quy định chặt chẽ chỉ có một công ty mẹ và đƣợc phép đầu tƣ ngƣợc vào công ty mẹ. Điểm khác biệt đặc trƣng riêng nữa của Trung Quốc là các TĐKT Nhà nƣớc phải đáp ứng đƣợc đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá XHCN và của nền sản xuất lớn xã hội hoá mà TĐKT ở các nƣớc khác hình thành không vì mục đích này mà chỉ vì mục tiêu lợi nhuận của chính những ngƣời sở hữu tập đoàn. Mô hình nền kinh tế Trung Quốc và vai trò của TĐKT Nhà nƣớc đối với sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 3 khoá XI Đảng cộng sản Trung Quốc họp tháng 12 - 1978 đã vạch ra chiến lƣợc cải cách và mở cửa mang tính quốc sách. Trung Quốc thực sự bƣớc vào con đƣờng xây dựng và phát triển ổn định, tiến tới hiện đại hoá, thực hiện dân giàu nƣớc mạnh, đạt đƣợc nhiều thành tựu huy hoàng và để lại nhiều bài học sâu sắc cho các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Điểm nổi bật về cơ bản là Trung Quốc đã đạt đƣợc mục 13 tiêu đề ra: Trong 10 năm từ 1981 - 1990 tổng sản phẩm xã hội tăng gấp đôi; 10 năm tiếp theo 1991 - 2000 thì GDP cũng tăng gấp đôi. Năm 2005, GDP của Trung Quốc đạt 1.689,5 tỷ USD, ƣớc tính đến cuối năm 2020, GDP của Trung Quốc sẽ đạt 4.300 tỷ USD. Đến năm 2005, GDP bình quân đầu ngƣời của Trung Quốc đã đạt mức 1.774 USD/1năm (quy đổi là khoảng 19.514 NDT) cho thấy tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh chóng và hiệu quả của Trung Quốc từ sau cải cách và mở cửa (Có tài liệu cho rằng, giai đoạn từ 1979 1997, GDP bình quân đầu ngƣời ở thành thị khoảng 6000 NDT/năm, ở nông thôn khoảng 4.000 NDT/năm). Lý do khiến Trung Quốc thành công đƣợc nhƣ vậy mặc dù có những căng thẳng đáng kể và vô số thiếu sót trong chính sách, là do Nhà nƣớc vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định xã hội, giải quyết những vấn đề của thất bại thị trƣờng, điều tiết phân phối thu nhập, của cải và những cơ hội của cuộc sống, cách thức quản lý mà theo đó Trung Quốc tƣơng tác với nền kinh tế toàn cầu. Mô hình nền kinh tế Trung Quốc là một bức tranh mang nhiều đặc sắc riêng trong tổng hoà các nền kinh tế trên thế giới. Trung Quốc đang tìm kiếm một con đƣờng tiến lên và thực hiện quá trình CNH - HĐH đất nƣớc nhằm phấn đấu hoàn thành quá trình này vào những năm đầu của thế kỷ 21. Thực tế này có đƣợc theo các nhà kinh tế Trung Quốc hiện nay khẳng định và đúc kết là nhờ đƣờng lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi từ bỏ nền kinh tế “kế hoạch hoá” của thời kỳ Mao Trạch Đông và có chính sách “cải cách và mở cửa” của nhà lãnh đạo, “tổng công trình sƣ của công cuộc cải cách và mở cửa ở Trung Quốc” Đặng Tiểu Bình, về xây dựng nền kinh tế thị trƣờng XHCN mang màu sắc Trung Quốc, bao gồm các bƣớc sau: - Phát triển nền KTTT, liên tục giải phóng và phát triển sức sản xuất. - Kiên trì chế độ công hữu XHCN, tìm tòi các hình thức kinh tế đa sở hữu. 14 - Hoàn thành thể chế kinh tế thị trƣờng XHCN, thị trƣờng có vai trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc. - Chế độ phân phối theo lao động là chính, kết hợp với các hình thức phân phối khác. Kết hợp phân phối theo lao động với phân phối theo nhu cầu. Ngoài ra kiên trì thực hiện thị trƣờng hoá toàn bộ các hình thức phân phối này. Trong đó phân phối phải chấp nhận có bộ phận giàu có trƣớc. Và để xây dựng thành công CNXH mang màu sắc Trung Quốc cần phải: - Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tế Trung Quốc. - Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. - Kiên quyết theo định hƣớng XHCN. - XHCN ở Trung Quốc hiện tại mới đang ở giai đoạn bắt đầu xây dựng. - Nhấn mạnh tính dẫn hƣớng của thị trƣờng. Trung Quốc xuất phát từ một nƣớc có cơ sở hạ tầng yếu kém, cho nên để xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc thì phải tập trung phát triển kinh tế, phát triển thị trƣờng. Để phát triển kinh tế phải trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, thông qua phát triển sức sản xuất để xác lập quan hệ sản xuất mới. Trong quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc, vấn đề then chốt là phải tạo ra sự thích ứng của quan hệ sản xuất với lực lƣợng sản xuất. Nền tảng của nền kinh tế thị trƣờng XHCN của Trung Quốc đƣợc thể hiện ở các khía cạnh sau: Trƣớc cải cách, kinh tế Trung Quốc gần nhƣ hoàn toàn thuộc sở hữu công cộng, chiếm tới 99,1% tổng sản phẩm trong nƣớc vào năm 1978. Đó là nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất và Nhà nƣớc quản lý bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu. Do đó, khu vực kinh tế Nhà nƣớc là chủ yếu còn khu vực kinh tế tƣ nhân không đƣợc thừa nhận mà bị ngăn cấm. Thực trạng này dẫn đến hạn chế cho nền kinh tế Trung Quốc là 15 trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất rất thấp do quan hệ sản xuất đình trệ. Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế Nhà nƣớc ngày càng thay đổi sâu sắc do đòi hỏi khách quan phải CNH, HĐH đất nƣớc với chủ trƣơng nhiều loại hình kinh tế cùng phát triển, tỷ trọng của các loại hình kinh tế phi công hữu (gồm kinh tế cá thể, kinh tế tƣ nhân …) đã tăng từ 0,9% năm 1978 lên 24,2% năm 1997 trong GDP và mức giảm tƣơng ứng của kinh tế công hữu từ 99,1% năm 1978 xuống còn 75,8% năm 1997. Sự phát triển nhảy vọt của loại hình kinh tế phi công hữu làm cho nền kinh tế Trung Quốc thay đổi, giải quyết đƣợc nhiều lao động dôi dƣ ở cả nông thôn lẫn thành thị. Từ chỗ chƣa đƣợc công nhận đến chỗ đƣợc “chính thức công nhận nhƣng chỉ có vai trò bổ sung” (năm 1988) cho kinh tế công hữu, nay kinh tế tƣ nhân đƣợc Quốc hội Trung Quốc đƣa vào Hiến pháp sửa đổi năm 1999 quy định là “bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng XHCN, chính thức thừa nhận tầm quan trọng nhƣ nhau của khu vực tƣ nhân và khu vực Nhà nƣớc”, đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp, không hạn chế về quy mô, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, vai trò chủ thể của kinh tế công hữu không vì thế mà giảm đi với quan điểm nguồn vốn trong chế độ công hữu không chỉ thể hiện ở số lƣợng mà còn ở chất lƣợng, đóng vai trò khống chế của Nhà nƣớc trong nền kinh tế. Vì thế, các DNNN ở Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng cao trong các ngành công nghiệp nặng, then chốt, đòi hỏi nhiều vốn nhƣ dầu mỏ, sản xuất điện, luyện kim, hoá chất …. và trong một số ngành dịch vụ quan trọng nhƣ tài chính, bảo hiểm, vận tải, đƣờng sắt, hàng không, viễn thông và dịch vụ y tế…. nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ CNH, HĐH đất nƣớc mà những hạn chế của khu vực kinh tế tƣ nhân chƣa thể đảm nhiệm vai trò to lớn này. Theo Giáo sƣ Peter Nolan, nhà kinh tế học về Trung Quốc hiện đại thuộc Đại học Cambridge nhận định: “Trung Quốc đang dò tìm một “Con đƣờng 16 thứ ba” giữa lúc nƣớc này vẫn đang bộn bề trong phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, với lực lƣợng lao động dƣ thừa khổng lồ ở nông thôn (nguồn cung lao động không hạn chế), giữa một môi trƣờng quốc tế lộn xộn, và với một dòng vốn nƣớc ngoài ngày càng lớn đổ vào đất nƣớc (đồng nghĩa với nền kinh tế đang ngày càng phụ thuộc với bên ngoài)”. Và Nhà nƣớc Trung Quốc đang cố gắng xây dựng một xã hội văn minh, khá giả toàn diện không thể đóng cửa trƣớc khuynh hƣớng chủ đạo trong kinh tế học và chính trị học quốc tế, đó là: “Trong việc dò tìm (dò đá qua sông) cho riêng mình một sự sống còn của hệ thống kinh tế chính trị, Trung Quốc phải trông cậy vào các lực lƣợng thị trƣờng (bao gồm các mức giá do thị trƣờng xác định và các triết lý kinh doanh) và đặt chúng dƣới sự kiểm soát, phục vụ cho toàn xã hội nhằm đạt đƣợc một nền kinh tế chính trị tổng thể có gắn kết về mặt xã hội”. Bởi vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc có khả năng đề xuất một con đƣờng phát triển cho một xã hội ổn định, gắn kết xã hội trong khuôn khổ một quốc gia: đó là sự “lựa chọn” gia tăng vai trò của Nhà nƣớc và làm cho nó hữu hiệu hơn để giải quyết những thách thức kinh tế xã hội ngày càng gay gắt mà đất nƣớc đang phải đối mặt, và cải thiện Nhà nƣớc là mục tiêu duy nhất hợp lý cho cải cách hệ thống của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc lựa chọn con đƣờng cải cách là bỏ mặc Nhà nƣớc và để cho thuyết chính thống về thị trƣờng tự do (tự do hoá hoàn toàn), tất yếu sẽ dẫn tới những căng thẳng không thể kiểm soát và sự tan rã của xã hội (vì ở tất cả các nƣớc công nghiệp mà ở đó tối đa hoá lợi nhuận tƣ nhân là động lực của sản xuất thì hệ thống kinh tế cạnh tranh tƣ nhân đang tự quy tội chết cho chính nó bởi vì tất cả các bên đều không kiềm chế đƣợc lòng tham của họ và hệ thống đó sẽ không thể vận hành đƣợc). Và con đƣờng duy nhất để Trung Quốc xử lý đƣợc đồng thời những thách thức của toàn cầu hoá, của chuyển đổi và phát triển là thông qua việc thực thi kiểm 17 soát xã hội một cách chặt chẽ: quá trình tích luỹ phải đi trƣớc, nếu không sẽ chẳng có bất kỳ sự “phát triển” nào. Ở Trung Quốc, việc tập trung xây dựng TĐKT có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thay đổi phƣơng thức tăng trƣởng kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị trƣờng XHCN. Cải cách DNNN và phát triển mô hình TĐKT chính là giải quyết hai khâu then chốt có tính chất căn bản trong quá trình phát triển. Trung Quốc phải duy trì nhịp độ phát triển của một loạt các TĐKT trên cơ sở cơ chế thị trƣờng, biến các tập đoàn quy mô lớn có sức cạnh tranh thực sự trở thành sức mạnh chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc, trở thành phƣơng thức tăng trƣởng kinh tế mới, thành chủ thể trong việc điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, cơ cấu công nghiệp và tổ chức kinh doanh. Vì vậy, để phù hợp với mục tiêu coi kinh tế Nhà nƣớc là chủ đạo và để CNH, HĐH nền kinh tế, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng thí điểm các xí nghiệp hiện đại đối với 120 xí nghiệp quốc hữu (DNNN) loại lớn và loại vừa theo mô hình TĐKT Nhà nƣớc bằng hai đợt thí điểm vào các năm 1991 và 1997 và đã thu đƣợc những kết quả khả quan. Vì nền tảng của cải cách kinh tế ở Trung Quốc là tăng thêm quyền tự chủ của doanh nghiệp. Như vậy, khi các TĐKT ở Trung Quốc được thành lập và phát triển, vai trò của các TĐKT nói chung và của TĐKTNN nói riêng đối với sự phát triển kinh tế Trung Quốc được thể hiện trên các mặt sau: (1) Các TĐKT sẽ khắc phục đƣợc khả năng hạn chế về vốn của từng công ty riêng lẻ, việc các tập đoàn có công ty tài chính sẽ cho phép thống nhất trong tích tụ và tập trung vốn, khi có nguồn vốn lớn các tập đoàn sẽ đầu tƣ vào các dự án có hiệu quả cao nhất, từ đó sẽ góp phần tăng nguồn thu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì với một số lƣợng lớn các doanh nghiệp nhỏ trong nền kinh tế quốc dân khi tham gia cạnh tranh trên thị trƣờng sẽ gặp khó khăn do sức mạnh bản thân thấp (năng lực nguồn vốn nhỏ), phải đối mặt với 18 vấn đề tồn tại hay bị loại bỏ nên khi có mối quan hệ hợp tác với tập đoàn, các doanh nghiệp nhỏ sẽ nhận đƣợc sự bảo vệ hoặc đỡ đầu và nhiều cơ hội phát triển hơn từ phía tập đoàn. (2) Sự hình thành và phát triển của các TĐKT làm tăng khả năng kinh tế của cả tập đoàn và các công ty thành viên, nó cho phép các nhà quản lý kinh doanh huy động đƣợc tất cả các nguồn lực trong xã hội, và việc tập trung các công ty vào trong một đầu mối làm cho họ có điều kiện thuận lợi khi cạnh tranh với các tập đoàn nƣớc ngoài. Thực chất TĐKT tạo ra nhu cầu nội tại cho phát triển, phân bổ hợp lý các nguồn lực, kết hợp tối ƣu các yếu tố sản xuất, đạt đƣợc tính kinh tế nhờ quy mô. Do vậy, TĐKT là một sức mạnh khung và là một tổ chức kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển của TĐKT thể hiện sức mạnh kinh tế quốc gia. TĐKT có tác dụng rất lớn trong việc cung cấp trao đổi thông tin và những kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Sự hợp tác về nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ trong tập đoàn với các Viện nghiên cứu khoa học còn cho phép các công ty thành viên có khả năng nhanh chóng đƣa các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn trên một quy mô rộng lớn hơn, giảm thiểu các rủi ro lớn khi phải đầu tƣ để cải tiến kỹ thuật. Sự thống nhất trong tập đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ ra nƣớc ngoài cũng nhƣ việc thay đổi cơ cấu sản xuất một cách hợp lý. Nó là cầu nối để tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học trên thế giới, làm thu hẹp khoảng cách về trình độ giữa các nƣớc chậm phát triển, thúc đẩy CNH - HĐH nền kinh tế. (3) Đối với các nền kinh tế đang phát triển, nền công nghiệp trong nƣớc còn manh mún thể hiện ở chỗ: Cơ cấu không hợp lý, số lƣợng doanh nghiệp lớn nhƣng quy mô của từng doanh nghiệp nhỏ và mức độ tập trung hoá sản xuất thấp, các doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm tƣơng tự nhau, năng lực nghiên cứu và phát triển độc lập còn yếu. Việc hình thành và 19 phát triển các TĐKT là một biện pháp hữu hiệu để đƣa một số lƣợng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống chuyên môn hoá và hợp tác hoá thông qua các kênh hợp tác về sản phẩm để tiếp tục điều chỉnh và tối ƣu hoá việc xác định năng suất lao động và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. (4) Việc hình thành các TĐKT sẽ làm thay đổi bộ mặt xã hội cho từng địa phƣơng hay một quốc gia, nó giải quyết đƣợc việc làm cho một phần dân cƣ tại khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề, thúc đẩy phát triển các đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp và làm tăng khả năng lớn mạnh của nền kinh tế, chống sự thâm nhập một cách ồ ạt của các công ty khổng lồ trên thế giới và giúp cho sản xuất trong nƣớc có thể đứng vững và từng bƣớc vƣơn ra đƣợc các thị trƣờng khu vực và quốc tế. (5) TĐKT là một trung gian quan trọng với chính phủ để quản lý các DNNN và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Do chính phủ đã xoá bỏ nhiều cơ quan giám sát chuyên ngành trong nền kinh tế kế hoạch hóa truyền thống để kiểm soát và quản lý các DNNN khi phát triển nền KTTT. Trong khi đó, TĐKT có rất nhiều đơn vị thành viên, do đó chính phủ có thể quản lý một cách gián tiếp rất nhiều doanh nghiệp thành viên bằng cách trực tiếp kiểm soát tập đoàn thông qua mối quan hệ về vốn hoặc hệ thống hợp tác sản xuất hơn là bằng biện pháp hành chính. Vì vậy, tập đoàn sẽ phải đóng vai trò là ngƣời giám sát trực tiếp cho chính phủ vì họ đƣa một số lƣợng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống sản xuất và hợp tác của mình. Các TĐKT ở Trung Quốc ra đời có tác dụng thúc đẩy là tăng quy mô của nền kinh tế, phát huy vai trò chủ đạo trong cạnh tranh KTTT, thúc đẩy hợp tác sản xuất các sản phẩm đồng bộ theo hƣớng chuyên môn hoá cao. Trung Quốc đã từng bƣớc “nới lỏng dần” sự quản lý tập trung của Nhà nƣớc, giao thêm quyền tự chủ kinh doanh cho các TĐKT, mở rộng dần phạm vi hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp từ lĩnh vực sản xuất, cung cấp nguyên liệu, bán
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan