Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Mo hinh ptrien kt...

Tài liệu Mo hinh ptrien kt

.DOC
30
103
119

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Tên đề tài: MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA BRAXIN Nội dung I. Giới thiệu chung về đất nước Braxin 1. Giới thiệu chung 2. Sự lựa chọn con đường phát triển ở Braxin 2.1 Giới thiệu về con đường nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế nhanh 2.2 Tại sao Braxin lại lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo mô hình “tăng trưởng nhanh”. II. Quá trình phát triển kinh tế Braxin theo con đường tăng trưởng kinh tế nhanh 1. Giai đoạn phát triển từ năm 1960 đến năm 1994 1.1 Từ năm 1960 đến năm 1980: giai đoạn phát triển thần kì 1.1.1 Cơ cấu ngành 1.1.2 Những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thời kì này 1.2 Từ năm 1980 đến năm 1994 : giai đoạn nền kinh tế bất ổn 1.3 Bài học chủ yếu cho Braxin 2. Nền kinh tế Braxin trong giai đoạn 1994 đến nay 2.1 Thời điểm khó khăn của nền kinh tế 2.2 Phục hồi kinh tế 2.2.1 Ổn định nền kinh tế vĩ mô 2.2.2 Sự phát triển của nền kinh tế,những thành tựu và hạn chế 2.2.2.1 Cơ cấu các ngành và tình hình đầu tư 2.2.2.2 Những hạn chế của nền kinh tế trong giai đoạn này III. Thực trạng về môi trường và xã hội của Braxin 1. Thực trạng xã hội của Braxin 1.1 Các vấn đề xã hôi 1.2 Những giải pháp về xã hội 2. Thực trạng về môi trường 2.1 Các vấn đề về môi trường 2.2 Những giải pháp về môi trường 1. Giới thiệu chung về đất nước Braxin Giới thiệu chung Vị trí địa lí: Braxin nằm ở Nam Mĩ, có biên giới chung với hầu hết các lục địa của Nam Mĩ, giáp Đại Tây Dương, là quốc gia lớn nhất Nam Mĩ. Diện tích: Braxin là một quốc gia rộng lớn với diện tích 8.511.965km 2 . Là một đất nước có diện tích lớn thứ 5 thế giới, chiếm tới một nửa diện tích ở Nam Mĩ. Braxin có phần lớn là diện tích miền đất bằng phẳng, các đồng bằng châu thổ, các vùng duyên hải với hơn 7000 km đường biển. Braxin là nước có lượng dự trữ tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn như boxit, sắt, vàng, dầu mỏ, tiềm năng thủy điện. Đặc biệt, Braxin là một trong những nước đa dạng về sinh thái học trên thế giới với 60% rừng Amazon nằm trên lãnh thổ nước này. Dân số: 186.113.000 người vào năm 2005. Thành phần chủ yếu là người da trắng, da đen và da lai Ngôn ngữ: tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Pháp Về lịch sử: từ năm 1500 đến thế kỉ 19, Braxin là thuộc địa của Bồ Đào Nha. Năm 1822, Braxin giành độc lập. Năm 1889, Braxin tuyên bố là nước cộng hòa. Năm 1930, Braxin phụ thuộc vào Mĩ. Năm 1960 cho đến năm 1970, Công đảng rồi các tập đoàn quân sự ra đời lần lượt nắm quyền. Năm 1990, quyền lãnh đạo thuộc về Đảng cộng hòa. Hiện nay, có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong quốc hội Braxin. Tổng thống hiện nay của Braxin là Luiz Inacio da Silva. Braxin được biết đến là một nước có nền kinh tế khởi sắc trong những năm gần đây, là nước có nền kinh tế lớn thứ 8 trên thế giới. Với các thế mạnh về nông nghiệp như cà phê, mía, các ngành công nghiệp điện tử , giày da là những mặt hàng xuất khẩu. Braxin ngày càng chứng tỏ sự hiện diện của mình trên thế giới. Braxin cùng với Ấn Độ và Trung Quốc trở thành những nước có nền kinh tế vượt trội trong những năm gần đây. Nhưng ẩn sau những thành tựu kinh tế đạt được lại là một xã hội bất ổn, những bất bình đẳng về thu nhập và sự hủy hoại nghiêm trọng về môi trường 2. Sự lựa chọn con đường phát triển kinh tế ở Braxin 2.1. Giới thiệu về con đường nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế nhanh Có 3 con đường phát triển kinh tế khác nhau: nhấn mạnh tăng trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng,công bằng xã hội; phát triển toàn diện. Braxin đã chọn con đường mô hình nhấn mạnh tăng trưởng nhanh, vậy mô hình tăng trưởng nhanh là gì? Là mô hình mà Chính phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ qua các nội dung xã hội. Các vấn đề bình 2 đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu nhập đã đạt được một trình độ khá cao. Ưu điểm: Nền kinh tế rất nhanh khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất cao. Nhược điểm: Những hệ quả xấu đã xảy ra: Sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng găy gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan tâm, một số giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá hủy. Mặt khác, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, hủy hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không đảm bảo và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. 2.2 Tại sao Braxin lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo mô hình “tăng trưởng nhanh”? Do điều kiện tự nhiên thuận lợi Braxin là một nước có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, có các mỏ sắt, măng-gan, bốc-xít, kền, chì, crôm,vàng,. . .với trữ lượng lớn lại có đất đai khí hậu hết sức thuận lợi nên cả nông nghiệp và công nghiệp của Braxin đều có khả năng phát triển. Do bối cảnh chính trị ở Braxin những năm 1945 Thời kì sau chiến tranh thế giới thứ hai phong trào đấu tranh đòi dân chủ, chống độc tài, đòi cải thiện đời sống và bảo vệ chủ quyền dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc của các tầng lớp nhân dân Braxin đã diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trước tình hình đó, đế quốc Mỹ âm mưu thiết lập một chính quyền phản động độc tài, đàn áp, khủng bố mọi phong trào dân chủ yêu nước tiến bộ. Giới cầm quyền Braxin dựa vào sự ủng hộ của Mỹ, đã biến Braxin thành một nhà nước với chính quyền tư sản mại bản, quân phiệt, độc tài bao trùm cả nước với một lực lượng rất đông đảo.Braxin mở rộng cửa đón tư bản nước ngoài trước hết là Mỹ vào đầu tư,bóc lột tàn bạo và vơ vét thả cửa các nguồn tài nguyên giàu có của đất nước. Theo quan điểm tăng trưởng và phát triển kinh tế nhằm phục vụ thiểu số(giới cầm quyền) đã loại trừ đa số( tầng lớp nhân dân). Kết quả: Tốc độ 3 tăng trưởng kinh tế cao nhưng vấn đề bình đẳng công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư bị bỏ qua. II. Quá trình phát triển kinh tế Braxin theo con đường tăng trưởng nhanh: Giai đoạn phát triển từ năm 1960 đến 1994 1.1 Những năm 1960- 1980, nền kinh tế phát triển thần kì Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980, nền kinh tế của Braxin tăng trưởng nhanh có thể coi như một sự phát triển thần kì về kinh tế 1.1.1 Cơ cấu ngành Ngành nông nghiệp Ở Braxin sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc dân. Braxin là một trong những nước có trình độ phát triển nhất ở châu Mỹ la tinh: do đất đai, khí hậu hết sức thuận lợi nên nông nghiệp của Braxin phát triển khá phong phú. Sản lượng cà phê đứng hàng đầu trên thế giới, ngô đứng hàng thứ hai, ca cao đứng thứ ba và bông đứng thứ năm …(năm 1972). Ngành chăn nuôi của Braxin cũng phát triển mạnh do có nhiều đồng cỏ, thung lũng. Braxin có trên 200 triệu gia súc, là nguồn cung cấp chủ yếu cho ngành công nghiệp thực phẩm. Năm 1971,ngành nông nghiệp chiếm 20 % tổng sản phẩm quốc dân. Ngành công nghiệp Braxin có nhiều tài nguyên phong phú, có những mỏ sắt, măng –gan, bốc-xít, kền, chì, crôm, vàng, tung-xten, đồng, than đá, dầu mỏ với trữ lượng khá lớn. Do đó công nghiệp khai thác chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Ngoài công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp nặng của Braxin còn có công nghiệp xe hơi, đóng tầu khá phát triển. Mặc dù trong các ngành công nghiệp tiêu dùng, tư bản bản xứ nắm các khâu sản xuất và làm chủ nhà máy, nhưng thiết bị máy móc và một số nguyên liệu vẫn phải dựa vào tư bản nước ngoài. Ngành dịch vụ Braxin tiến hành trao đổi chủ yếu với các nước tư bản Anh, Mỹ, cộng hòa liên bang Đức, Nhật Bản, ý, Hà Lan …ngoài ra Braxin còn trao đổi kinh tế với Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa khác. Braxin xuất khẩu nhiều nhất là cà phê (hàng năm chiếm chừng 40% giá trị hàng xuất khẩu) rồi đến quặng sắt, bông, đường, ngô, ca cao và nhiều loại gỗ quý. Trị giá hàng xuất khẩu hàng năm xê dịch từ 2,5 tỷ đến 3 tỷ Đô la, 4 hàng nhập khẩu chủ yếu của Braxin là bột mì, máy móc và phụ tùng thay thế cho ngành công nghiệp nặng, hóa chất, dầu thô … trị giá hàng nhập khẩu hàng năm xấp xỉ trên dưới 3,5 tỷ Đô la. Thành tựu đạt được Trong vòng từ năm 1966 đến năm 1976, nền kinh tế Braxin đã có những thay đổi rõ rệt. tốc độ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân như sau: từ 1959 đến 1969 trung bình năm tăng 5,9%; năm 1972 tăng 10.8%; năm 1973 tăng 11.4%; năm 1974 tăng chừng 9%. Số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng ở Braxin: năm 1960 khoảng 3,6 tỷ đô la. Tính đến năm 1969, ở Braxin có tới 498 công ty nước ngoài và 36 chi nhánh nước ngoài hoạt động. 510 xí nghiệp lớn nhất là thuộc tư bản nước ngoài. Trong giai đoạn 1967-1973, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đã vượt trên con số 11%, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp cao tới 13%. Một bước tới trời, Brazil khi ấy bước thẳng lên vị trí nền kinh tế mạnh thứ 8 thế giới Chính dựa trên các con số trên, giới cầm quyền Mỹ và Braxin trong những năm 70 đã làm rùm beng lên về cái gọi là sự “thần kì kinh tế của Braxin”, về “kiểu mẫu phát triển chủ nghĩa tư bản công nghiệp Braxin”, về “hiện tượng kì lạ của nền văn minh nhiệt đới” … Những mặt hạn chế của nền kinh tế phát triển thần kì Nếu chỉ căn cứ vào những chỉ số phát triển kinh tế trên đây thì thấy có sự gia tăng khá nhanh chóng trong tổng sản phẩm quốc dân cũng như trong nhiều lĩnh vực công nghiệp của Braxin. Nhưng thực chất của sự thần kì đó không như các giới cầm quyền Braxin khẳng định; trong thực tế nó đã gắn liền với những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế xã hội đối với Braxin. Điều chủ yếu của sự thần kì đó là các giới cầm quyền phản động ở Braxin, nhất là các tập đoàn quân sự độc tài lên nắm chính quyền từ tháng 4 năm 1964, đã theo đuổi một đường lối kinh tế thu hút sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản nước ngoài vào Braxin nhằm tạo nên một sự phát triển nhanh chóng, đỡ tốn kém nhất cho chúng, đồng thời duy trì sự áp bức và bóc lột nặng nề đối với quần chúng nhân dân, tăng cường chế độ phát xít khủng bố và thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ trong nước. Chính quyền Braxin đã đưa ra những ưu đãi về đặc quyền, đặc lợi hết sức béo bở mà các công ty tư bản độc quyền nước ngoài ít khi giám mơ tưởng tới. Các công ty nước ngoài kinh doanh ở Braxin sẽ được giảm hoặc 5 miễn thuế, đảm bảo không bị quốc hữu hóa. Đồng thời, các nhà cầm quyền lại thi hành chính sách “ ướp lạnh” tiền lương, duy trì mức lương rất thấp và thậm trí còn bảo đảm không có sự tăng lương ở Braxin. Với đường lối đó các tập đoàn cầm quyền Braxin đã mở đường cho tư bản nước ngoài mặc sức cướp bóc vơ vét, biến Braxin thành thị trường tiêu thụ , một nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt. Chính vì vậy theo báo cáo của Ngân hàng thế giới vào năm 1970, 82,5% nền kinh tế Braxin tập trung nằm trong tay TB nước ngoài. Hậu quả nền công nghiệp Braxin lệ thuộc ngày càng nhiều CNTB và nhân dân bị bóc lột nặng nề. Điều đáng tiếc là, vấp phải cuộc khủng hoảng dầu thô năm 1973 và nối tiếp sau đó là khủng hoảng trái phiếu, khủng hoảng kinh tế do lạm phát bùng phát, Brazil chưa kịp cất cánh bao lâu đã rơi rụng, trở thành đại diện điển hình “mười năm tụt hậu” của Mỹ Latinh. Những năm 1980- 1994, nền kinh tế bất ổn Những năm 1980 là thời kì khó khăn của Brazil, do nước này đã vay nợ nước ngoài rất nhiều trong những năm 70. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng hàng năm là 400%. Tỷ lệ trao đổi đối với hàng xuất khẩu trong thập niêm đó ở mức âm,tiền lương thực tế giảm trung bình 3%. Đồng tiền của Brazil bị phá giá. Trong những năm 1990, nước này phát triển mô hình kinh tế mở của tự do. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế bị bãi bỏ thông qua tư nhân hoá ngân hàng và các ngành thuộc sở hữu nhà nước. Các bảng số liệu của nền kinh tế Braxin Bảng số liệu về tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người GDP/ người của Braxin tăng và giảm bất ổn Năm 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 GDP/người(US D) 1645 1938 2094 2299 3068 2961 2568 2477 2836 Dưới đây là biểu đồ về GDP/người từ năm 1984-1993 6 Ta có bảng số liệu về tổng sản phẩm trong nước 7 Bảng số liêu về tốc độ tăng GDP năm 1985 tốc độ tăng 8.3 GDP 1986 1987 1990 1991 1992 1993 1994 1995 7.7 7.1 -2.4 0.4 -0.9 4.2 5.8 4.2 8 Ta có tỷ lệ lạm phát từ năm 1981 đến năm 1997 .Tỉ lệ lạm phát ở Bra-xin, 1981 đến 1997 Năm Tỉ lệ lạm phát 1981 100% 1982 100% 1983 138% 1984 192% 1985 226% 1986 147% 1987 228% 1988 629% 1.430% 1989 30.377% 1991 400% 1992 1.020% 9 1993 1.929% 1994 2.076% 1995 66% 1996 16% Tỷ lệ thất nghiệp Năm 198 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 tỷ lệ 2.4 3.6 3.8 3.0 3.7 6.5 5.3 5.1 4.6 thất nghiệp Từ năm 1992 đến nay, nền kinh tế phát triển khá ổn định vì nước này đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, phát triển một nền kinh tế khai mỏ và xuất khẩu nông sản,buôn bán gỗ,kim cương…, sau đó là sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo máy, luyện kim. Như vậy từ năm 1981-1994, tỷ lệ lạm phát của Brazil đều có xu hướng tăng với tốc độ khá nhanh, tuy nhiên tù năm 1992- 1995, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát đã được giảm xuống. Điều này cho thấy chính sách của Brazil có tác động tích cực tới nền kinh tế. Bài học chủ yếu cho Brazil. Thứ nhất, tăng trưởng không thể chỉ là giúp một số ít người thu lợi. Thời kỳ “kỳ tích” những năm 60 và 70 của thế kỷ trước cũng là thời kỳ phân hoá giàu nghèo ở đây diễn ra đặc biệt sâu sắc. Xã hội có thể duy trì được ổn định chỉ bởi được đặt dưới tầm khống chế của một chính quyền quân sự. Lúc bấy giờ, nếu các vấn đề xã hội hay vấn đề dân sinh không được xử lý tốt, sự ổn định xã hội chắc chắn vẫn sẽ bị đe doạ và khả năng trỗi dậy một lần nữa hoàn toàn chỉ là viễn tưởng. 10 Thứ hai, phải phát huy vai trò của cơ chế thị trường kết hợp với sự tham gia có hiệu quả của chính phủ để tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi, duy trì cạnh tranh công bằng, khống chế có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời những nguy hiểm trong các lĩnh vực như tài chính. Kinh tế mở mang đến một trình độ nhất định đều buộc phải bước vào giai đoạn thu hẹp. Trong tình hình đó, đúng ra Brazil cần thực hiện điều chỉnh kinh tế thông qua quá trình giảm tốc tăng trưởng. Nhưng lựa chọn của chính phủ đương nhiệm lại là bằng con đường phát hành trái phiếu vay nước ngoài, tuy việc làm này duy trì được tốc độ tăng trưởng khá nhưng nó lại dẫn tới những vấn đề nghiêm trọng chủ yếu là từ những gánh nặng và trách nhiệm đi kèm các khoản vay và kết cục đẩy nền kinh tế Brazil vào cuộc khủng hoảng trái phiếu vào thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Nhiều chuyên gia cho rằng, bước thăng trầm của kinh tế Brazil giai đoạn này là một kinh nghiệm quý báu cho lần trỗi dậy mới này của kinh tế hiện nay và đồng thời nó cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự trỗi dậy ấy. Nền kinh tế Brazil trong giai đoạn từ năm 1994 đến nay 2.1 Thời điểm khó khăn của nền kinh tế Lạm phát cao Sau nhiều thập kỷ có mức lạm phát cao và nhiều nỗ lực kiểm soát, Brasil đã thực thi một chương trình ổn định kinh tế với tên gọi Kế hoạch Plano Real (được đặt theo tên đồng tiền tệ mới real) vào tháng 7 năm 1994 Tỷ lệ lạm phát vốn từng đạt mức gần 5.000% thời điểm cuối năm 1993, đã giảm rõ rệt, ở mức thấp 2,5% vào năm 1998. Cụ thể : lạm phát năm 1994 là 2076% năm 1995 chỉ còn 66% , năm 1996 là 16% , năm 1997 là 7% và đến năm 1998 như đã nói – 2.5%. Tuy nhiên Sự phát triển của Brazil là hệ quả của hiện tượng đô thị hóa và sự bùng nổ nền kinh tế thị trường. Rồi chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế 1997, và bùng nổ vào 2 năm sau. Tháng 1 năm 1999, đồng Real mất giá 37%, sau khi bị phá giá, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên 37% . Giá cả leo thang , IMF đã đề nghị tăng lãi suất ngân hàng lên tới 70%. Thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài Cũng trong năm 1999, Brazil đã nợ nước ngoài 244 tỷ đôla Mỹ, tương đương 46% GDP và cuối cùng cũng không ngăn được thâm hụt ngân sách lên tới 6-7% trong thập niên 1990. Tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai bắt đầu manh nha từ 1995. Tới 1998, thâm hụt tài khoản vãng lai lên tới con số chóng mặt : 4.2% GDP. Trong năm thứ 2 liên tiếp , Brazil không còn nhận được các dòng tiền từ bên ngoài bù đắp cho khoản thâm hụt này . Chính 11 vì vậy , trong các năm 1997 và 1998 , chính phủ Brazil đã phải trích ngân sách ra để trang trải . Tình trạng này kéo dài cho đến năm 2001 , nền kinh tế Brazil mới tạm thời ổn định trở lại , tuy vậy cũng chỉ là dậm chân tại chỗ thậm chí , còn tụt lùi , 1 ví dụ minh chứng là Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm 2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001. Tốc độ tăng trưởng tụt giảm Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm phát và tìm kiếm thặng dư nhằm đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định. Lí do mà trong giai đoạn từ 2002-2005, sự phát triển của Brazil là không ổn định. Cụ thể : GDP 2002 đạt 2.7% , song tới năm 2003 lại chỉ còn 1.1% , còn thấp hơn so với năm 2000. Tới năm 2004, GDP tăng đột biến, từ 1.1% lên tới 5.7%. Nó làm cho Mức tăng trưởng kinh tế của Brasil thấp hơn các nước Mỹ Latinh khác và hai cường quốc mới nổi Ấn Độ, Trung Quốc. Brasil đã tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh tranh của diễn đàn kinh tế thế giới trong giai đoạn 2003 – 2005 . Vì nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, cho nên năm 2005, GDP của Brazil tăng không đạt mức dự kiến (3,5%), mà chỉ tăng 2,6%, đạt 619,7 tỷ USD, so với 604,6 tỷ USD năm 2004. Các chuyên gia Liên hiệp quốc cho rằng, đây là mức tăng thấp nhất năm 2005 trong số 24 nền kinh tế thị trường đang nổi lên hiện nay. Các ngành kinh tế trọng điểm Ngành Công nghiệp chủ đạo: Braxin có nền công nghiệp phát triển nhất Mỹ La tinh. Sản lượng công nghiệp chiếm một phần ba tổng GDP. Các ngành công nghiệp đa dạng của Braxin bao gồm từ sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản phẩm tiêu dùng. Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Braxin và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ. Năm 2008 Braxin được tổ chức quốc tế S & P công nhận là "Nước đạt cấp độ đầu tư "ổn định, ít rủi ro. Braxin cũng có nền công nghiệp dịch vụ đa dạng,chất lượng cao. Những năm đầu thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Dịch vụ tài chính nước này đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài, kể cả các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán và Hàng hoá tương lai BM&F ở Sao Paulo rất phát triển. 12 - Một số ngành công nghiệp chủ đạo gồm : Máy bay, ô tô và phụ tùng, máy móc và thiết bị, sắt, thép, thiếc, mía đường và cồn nhiên liệu sinh học etanol, đồ điện gia dụng, giấy, dược phẩm, dệt may, giầy dép, hoá chất, xi măng, da nguyên phụ liệu da, giày. Các ngành kinh tế chính: Nông nghiệp (thịt, rau, quả), quặng sắt và khoáng sản, sắt thép, dầu và chất phái sinh, chế biến thực phẩm, sản phẩm gỗ, giầy da và dệt may, ô tô, công nghiệp vũ trụ, dầu mỏ, dịch vụ tài chính, hàng điện tử. Đối tác thương mại chủ yếu: Mỹ, Trung Quốc, Achentina, Đức, Nhật Bản, Italia, Pháp, Anh Các sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu chính: Cà phê sản lượng 45 triệu bao/năm, bằng ½ sản lượng thế giới, đứng đầu thế giới; mía đường (đứng đầu thế giới), đậu nành, hạt điều, ca cao, gạo, ngô, bông, cao su, thuốc lá, nước hoa quả, thịt bò, thịt lợn, thịt gà, thịt cừu, nguyên liệu da, giày. Braxin là một trong bốn nước đứng đầu thế giới về chăn nuôi. Braxin là nước xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm nông nghiệp, chiếm 42% trong số các nước xuất khẩu với giá trị thu được 30,6 tỷ đô la. Trong đó, đậu tương chiếm thị phần lớn nhất, tiếp đó là gỗ và các sản phẩm từ gỗ, thịt, mía đường và cà phê. Thị trường chính của các sản phẩm nông nghiệp Braxin là Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ. Braxin vẫn còn chiếm thị phần lớn nhất trên thế giới về xuất khẩu cà phê, mía đường, thuốc lá, đậu tương và nước cam. Các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu của Braxin chiếm 9,9% tổng lượng nhập khẩu khoảng 4,8 tỷ đô la năm 2003, chủ yếu là nhập khẩu lúa mỳ. Lâm nghiệp Ngành lâm nghiệp chiếm khoảng 4% GDP của Braxin và tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động.[1] Gỗ và sản phẩm nội thất chiếm 44%, cellulose và giấy chiếm 35.7%, than củi chiếm 20%. Trong suốt giai đoạn 1999-2003 với sản lượng gỗ tăng 4,8%, sản phẩm nội thất 5,1%, và sản xuất giấy 9,4%. Tính đến năm 2003, diện tích rừng trồng của Braxin là 544 triệu ha chiếm 64,3% diện tích lãnh thổ của người Braxin. Theo Bộ môi trường (Ministry of the Environment (MMA), 69% diện tích rừng trồng mang giá trị kinh tế tiềm năng.[3] Rừng trồng tập trung ở vùng phía Nam và Đông - Nam 13 khoảng 450,000 ha thông và bạch đàn. Đây là hai nguồn gỗ chính của Braxin được chế biến hàng năm nhằm đáp ứng nhu cầu về gỗ như một đầu vào. Xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ đạt 2,1 tỷ đô la năm 2003, trong khi đó nhập khẩu chỉ là 63 triệu đô la.[4] Gỗ sẻ chiếm 31.1% tổng sản phẩm gỗ xuất khẩu năm 2003. Thị trường chính tiêu thụ sản phẩm gỗ của Braxin là Mỹ (chiếm 43,1% tổng xuất khẩu); năm 2003, xuất khẩu giấy và cellulose đạt 2,8 tỷ đô la, trong đó có 1,74 tỷ đô la từ cellulose. Khai mỏ Ngành khai mỏ của Braxin có sự đa dạng về nguồn và phạm vi diện tích. Năm 2004 có tới 84 sản phẩm khai mỏ khác nhauSản xuất sắt, vàng granite, bauxite, và đá vôi chiếm khoảng 70% tổng giá trị sản lượng khai mỏ. Braxin là nước dự trữ niobium lớn nhất thế giới (chiếm 97% năm 2002) và tantalite (52,1%), và đứng thứ 3 về dự trữ bauxite (7.6%), đứng thứ 5 về dự trữ sắt (6.4%). Braxin cũng là quốc gia sản xuất lớn nhất về các sản phẩm như niobium (95,1%), sắt (19,1%) và tantalite (16,1%) tổng sản lượng của thế giới năm 2002. Các hoạt động khai mỏ đã đóng góp 0,56% trong GDP năm 2002 cao hơn 0,37% năm 2000Giá trị sản lượng của sản xuất khai mỏ đạt 30 triệu đô la năm 2003 tăng 3% so với năm 2002 Trong giai đoạn 1999-2003 khối lượng sản xuất của ngành khai mỏ tăng bình quân hàng năm đạt 9,1%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành (6,6%) cao hơn mức tăng bình quân của GDP (1,6%) Cầu thế giới tăng về bauxite và sắt năm 2003 đã có tác động tích cực tới sản xuất khai mỏ của Braxin. Xuất khẩu khoáng sản (gồm cả quặng) của Braxin đạt 6,2 tỷ đô la năm 2003, trong khi tổng lượng nhập khẩu là 1,6 tỷ đô la. Thị trường xuất khẩu chính các sản phẩm khai mỏ của Braxin năm 2003 là Trung Quốc, Mỹ và EU. Sản xuất chế tạo Ngành chế tạo có sự đa dạng cao và đóng góp khoảng 23% tổng GDP của Braxin. Tỷ trọng đóng góp lớn nhất trong GDP là công nghiệp chế biến thực phẩm, tiếp sau là luyện kim cơ bản, máy móc và các trang thiết bị, các sản phẩm hoá chất. Tính đến năm 2002, ngành chế tạo chiếm 18% tổng số lượng lao động của Braxin, một sự cân đối bền vững từ năm 2000.[10] 14 Năm 2003 ngành sản xuất chế tạo xuất khẩu 57,6 tỷ USD (f.o.b). Đứng đầu là thực phẩm và đồ uống (12,6 tỷ USD), tiếp theo là các phương tiện vận chuyển (9,6 tỷ USSD). Trong cùng năm 2003, giá trị nhập khẩu của ngành là 41,0 tỷ USD. Nhập khẩu lớn nhất là công nghiệp hoá chất đạt 7,8 tỷ USD. Ngành công nghiệp ô tô Sản xuất ô tô chủ yếu của Braxin là ô tô chở khách. Trong giai đoạn 1999 - 2003 tỷ lệ tăng bình quân hàng năm số phương tiện ô tô ở Braxin là 8.0%.[12] Trong giai đoạn 1998 - 2003 lực lượng lao động trong ngành là 94,100 người. Ngành ô tô tiếp nhận vốn chủ yếu từ nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Từ năm 2000, giá trị xuất khẩu ô tô lắp ráp và các bộ phận ôtô là khá ổn định. Xuất khẩu các phụ tùng và bộ phận của ôtô (gồm cả vỏ xe) tăng bình quân hàng năm 6.7% và đạt 5,1 tỷ đô la trong giai đoạn 1999-2003. Thị trường xuất khẩu ô tô chính của Braxin là Argentina (14.9%) và Mexico (32.7%) và Trung quốc (12.4% tổng lượng xuất khẩu). Công nghiệp máy bay Lao động chính trong ngành công nghiệp máy bay đạt khoảng 16,800 lao động năm 2002.[13] Tổng doanh thu của ngành là 4,2 tỷ USD năm 2002. [14] Tỷ lệ đóng góp hàng năm vào GDP là 1,3% trong giai đoạn 2000-2002, riêng năm 2002 là 1,9%. Năm 2003 xuất khẩu của ngành (gồm cả các bộ phận máy bay) là 2,1 tỷ USD và tổng lượng nhập khẩu là 590,9 triệu USD. [15] Có 322 công ty hoạt động trong ngành máy bay và không gian vũ trụ, hầu hết các công ty này đều tập trung ở Đông - Nam của Braxin.[16] Xấp xỉ 89% sản lượng của ngành ( gồm cả công nghiệp không gian) được bán cho thị trường nươc ngoài.[17] Sự kiện 11/9/2001 cũng có tác động xấu cho ngành công nghiệp máy bay của Braxin, đến năm 2003 ngành công nghiệp máy bay chưa phục hồi đầy đủ nhưng thu nhập ròng bắt đầu tăng. EMBRAER là nhà sản xuất chính của ngành chiếm xấp xỉ 80% lượng xuất khẩu.[18] Năm 2002, EMBRAER kiểm soát xấp xỉ 45% thị trường thế giới trong ngành máy bay và cũng là nhà sản xuất lớn thứ 4 trên thế giới.[19] Trong năm 2002 và 2003, EMBRAER là công ty xuất khẩu lớn nhất của Braxin và thị trường Mỹ; 131 máy bay thương mại, tư nhân và máy bay chiến đấu năm 2002. Công nghiệp đóng tàu 15 Braxin thực hiện cải tiến ngành công nghiệp đóng tàu trong những năm gần đây. Năm 2003, lượng lao động trong ngành tăng 58.8% xấp xỉ 10,000 chỗ làm.[22] Giá trị đóng góp của ngành công nghiệp đóng tàu là 612 triệu R$; trọng lượng tàu đạt khoảng 31,000 DWT năm 2003. Braxin có khoảng 100 xưởng đóng tàu sản xuất đa dạng các loại tàu thuyền, từ tàu thuỷ bằng gỗ tới những tàu sử dụng công nghệ cao như tàu chở gas và tàu chiến đấu. Dệt may Ngành sản xuất dệt may đa dạng về sản phẩm và thu hút một số lượng lớn doanh nhiệp tham gia. Theo các nhà chức trách, năng suất của ngành giảm trong giai đoạn 1999-2001 và bắt đầu phục hồi trong năm 2002. Năm 2002, ngành dệt may đóng góp 1% vào GDP. Năm 2003, tổng giá trị nhập khẩu dệt và may mặc của Braxin là 915,6 triệu đô la trong khi đó giá trị xuất khẩu là 1,4 tỷ đô la. Tháng 5/2004, IBGE báo cáo rằng sản lượng may mặc tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2003; mức tăng dù kiến cả năm là trên 25%.[24] Năng lượng Dầu mỏ và gas: Braxin đã giảm sự phụ thuộc dầu mỏ vào nước ngoài, từ năm 2000 Braxin chỉ còn nhập khẩu những sản phẩm dầu mỏ nguyên chất. Trong giai đoạn 2000-2003, xuất khẩu dầu mỏ của Braxin thu được tăng 2,1 tỷ R$, phản ánh sự phát triển của ngành sau khi bãi bỏ những quy định rằng buộc năm 1997. Giá trị nhập khẩu trong giai đoạn này cũng giảm 3,9 tỷ đô la. Nguyên nhân Các nhà phân tích kinh tế Brazil cho biết, sở dĩ kinh tế Brazil không đạt mục tiêu tăng trưởng dự kiến chủ yếu là do tình hình tài chính trong nước bất ổn; giá dầu mỏ thế giới leo thang liên tục, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nhiều nước trong đó có Brazil. Một trong những yếu tố quan trọng gây bất ổn thị trường tài chính tín dụng là khủng hoảng chính trị nội bộ đã làm cho lạm phát năm qua tăng cao hơn dự kiến. Phục hồi nền kinh tế 2.2.1 Ổn định nền kinh tế vĩ mô Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ buộc nâng dần lãi suất chỉ đạo (lãi suất của Ngân hàng trung ương) - ổn định trong tháng 5, tháng 6/2005 là 19,75%. Từ tháng 8/2005 lãi suất giảm dần và tới tháng 12/2005 chỉ còn 17,75%, tương đương mức lãi cuối năm 2004. Mức lãi suất này tuy có làm giảm tốc độ tăng GDP, nhưng lại góp phần tránh được tình trạng nâng giá 16 sinh hoạt quá mức, tránh được những hậu quả xấu trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhờ vậy kiềm chế được giá ở mức cho phép. Kết quả là lạm phát năm 2005 giảm được 0,8% so với năm 2004, còn 6,8% so với 7,6% năm 2004 và 9,3% năm 2003. Năm 2005, Chính phủ vẫn chỉ đạo Ngân hàng trung ương hoạt động tốt, đến cuối năm nâng được dự trữ vàng và ngoại tệ lên 53,7 tỷ USD so với 52,7 tỷ USD năm 2004 - thu thuế đạt 35,91% GDP so với 24,08% GDP năm 2004 và 23,06% GDP năm 2003. Số thu tuyệt đối về thuế là 372,5 tỷ Real so với 352,5 tỷ Real năm 2004. Kết quả năm 2005, ngân sách nhà nước lại bội thu, cao hơn năm trước, đạt 52,48 tỷ Real (tương đương 2,72% GDP), so với 46,34 tỷ Real năm 2004. Do chính sách thuế được chấp hành nghiêm túc ở cả người thu thuế, lẫn người nộp thuế, đặc biệt phải nói đến lĩnh vực các công ty công nghiệp - ở khu vực này năm 2005, thuế nộp cho ngân sách nhà nước tăng 13,57%, đạt 12,9 tỷ Real so với 11,4 tỷ Real năm 2004. Ngoài ra, so với năm 2004, năm 2005 thuế thu nhập cá nhân, thuế bảo đảm xã hội (trích một phần lợi nhuận) nộp ngân sách liên bang cũng tăng - tương ứng là 22,47% và 20,60%. Lạm phát đã được kiềm chế, cho phép giảm lãi suất từ tháng 9/2005, do vậy, khuyến khích vay đầu tư phát triển sản xuất. Nhờ hoàn thiện chính sách thuế và hoạt động tích cực của bộ máy thu thuế, ngân sách nhà nước năm qua bội thu tương đương 4,7% GDP, nhiều hơn dự kiến 0,63%. Nền kinh tế phát triển và những thành tựu Vài năm trở lại đây, kinh tế quốc dân của Brazil phát triển ổn định với tốc độ cao. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng của kinh tế là 5,4%, GDP đạt 1504,7 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 7.950 USD, tỷ lệ lạm phát là 4,36%, dự trữ ngoại tệ đạt 197,9 tỷ USD (tính cho đến cuối tháng 5/2008). Xu thÕ t¨ng tr ëng kinh tÕ (GDP) cña Braxin tõ n¨m 1990 ®Õn n¨m 2009. Tû lÖ biÕn ®æi tõng n¨m (%) 8 5,9 6 4,9 5,7 4,2 2,2 1 0 90 -2 91 92 -0,5 93 94 95 96 97 2,9 2,7 1 0,0 0,3 98 99 01 5,4 3,7 3,4 4 2 5,7 4,3 01 2,5 1,1 02 03 04 05 06 07 08* 09** 09** -0,4 -4 -4,4 -6 Nguån: IBGE: Instituto Brasileiro da Geografica e Estatistica, Focus, 08* møc trung b×nh;. 09** dù b¸o ë møc cao vµ møc thÊp. Ng êi tr×nh bµy :Ph¹m B¸ U«ng 17 Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế GDP dịch chuyển nhanh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ: nông nghiệp chiếm 8 %, công nghiệp chiếm 38 %, dịch vụ chiếm 54%.Tổng sản phẩm thu nhập quốc nội năm 2008 dự kiến đạt 1.631,2 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người đạt 6.819 USD/ người/ năm. Xuất khẩu (FOB): 197,4 tỷ USD tăng 23,2 % so với năm 2007. Nhập khẩu (CIF): 173,1 tỷ USD tăng 43,5 % so với năm 2007. Cán cân thương mại: xuất siêu 24,7 tỷ USD, giảm 38,2 % so với lượng xuất siêu của năm 2007 (40 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ đến cuối năm 2008: 206 tỷ USD. Nông nghiệp Diện tích rộng lớn của Brazil chứa đựng 250 triệu hecta đất phì nhiêu có khả năng trồng trọt và vì thế nước này được ví là “kho lương thực thế giới thế kỷ 21”. Ngoài tài nguyên năng lượng, Brazil còn có những nguồn tài nguyên phong phú khác như khoáng sản, thủy điện và rừng cùng với tài nguyên nhân lực kết cấu trẻ hoá với đội quân hơn 180 triệu người. Một số sản phẩm nông nghiệp chính của Braxin bao gồm: Cà phê (sản lượng 45 triệu bao/năm, bằng một phần hai sản lượng thế giới, đứng đầu thế giới), mía đường (đứng đầu thế giới), đậu nành, hạt điều, ca cao, gạo, ngô, bông, cao su, thuốc lá, nước hoa quả, thịt bò, thịt lợn, thịt gà, thịt cừu (là một trong bốn nước đứng đầu thế giới về chăn nuôi), nguyên liệu da, giày… Công nghiệp 18 Braxin có nền công nghiệp phát triển nhất Mỹ La tinh. Sản lượng công nghiệp chiếm một phần ba tổng thu nhập quốc nội GDP. Sản phẩm chủ yếu gồm máy bay, ô tô và phụ tùng, máy móc và thiết bị, sắt, thép, thiếc, mía đường và cồn nhiên liệu sinh học etanol, đồ điện gia dụng, giấy, dược phẩm, dệt may, giầy dép, hoá chất, xi măng, da nguyên phụ liệu da, giày… Brazil sớm tận dụng lợi thế là nước có sản lượng mía số một thế giới để sản xuất cồn, nước này hiện là nhà sản xuất cồn lớn thứ hai trên thế giới và nhà xuất khẩu đứng đầu thế giới, chiếm vị trí quán quân tuyệt đối về khai thác nhiên liệu sinh học. Điểm khác biệt so với Mỹ là ở chỗ, nhiên liệu sinh học Brazil sử dụng có nguồn vật liệu là mía đường chứ không phải là ngô, không gây tác động làm tăng giá lương thực toàn cầu. Đồng thời, Brazil cũng cho ra đời một loạt các công ty có tầm ảnh hưởng quốc tế như hãng công nghiệp hàng không Brazil, công ty dầu mỏ Brasil Petrobras, công ty Vale do Rio Doce (nhà sản xuất và xuất khẩu quặng sắt số 1 thế giới)… Gần đây, lĩnh vực năng lượng và xây dựng hạ tầng đang trở thành tâm điểm phát triển mới của Brazil. Từ tháng 11 năm ngoái tới tháng 5 năm nay, công ty dầu mỏ Brasil Petrobras đã lần lượt công bố phát hiện các mỏ dầu cực lớn ở duyên hải phía đông nam là Tupi và Capioca trong đó trữ lượng dầu thô và trữ lượng khí thiên nhiên của mỏ Capioca ước tính có thể đạt tới 33 tỷ thùng, là mỏ dầu có trữ lượng lớn thứ 3 của thế giới. Điều này càng trở nên cực kỳ ý nghĩa giữa lúc giá đặt hàng dầu thô trên thế giới có lúc đã lên đến đỉnh, đạt mức 150 USD mỗi thùng. Các ngành kinh tế trọng điểm Ngoại thương Năm 2005, Brazil vẫn thi hành chính sách nâng cao vị thế của hàng hoá nước mình trên trường quốc tế. Nhờ vậy doanh số ngoại thương đạt mức cao nhất trong lịch sử ngoại thương của nước này - đạt 191,8 tỷ USD, trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 118,3 tỷ USD, nhập khẩu đạt 73,5 tỷ USD; chênh lệch là 44,8 tỷ USD, tăng 20,3% so với năm 2004. Cơ sở trong chính sách ngoại thương của Brazil vẫn là ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Mỹ, EU và Nhật Bản vì đây là những thị trường lớn, đầy tiềm năng trong việc nhập hàng của Brazil. Tuy nhiên, Brazil cũng khuyến khích toàn diện các quá trình liên minh kinh tế khu vực Nam Mỹ, đặc biệt trong khối MERCOSUR. Ngoài ra, Brazil giờ đây cũng đã mở rộng quan hệ buôn bán với một số thị trường mới nổi ở các châu lục, trong đó phải kể đến Trung Quốc, Ấn Độ và Cộng hoà Nam Phi. Nền “kinh tế túc cầu” của nước này rất phát triển. Năm 2007, Brazil có 1,085 cầu thủ có 19 tiếng đi đánh thuê tại nước ngoài và đem lại cho Brazil một nguồn thu tương đương 4% GDP. Tình hình đầu tư Đầu tư trong nước Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Braxin và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ. Năm 2008 Braxin được tổ chức quốc tế S & P công nhận là “Nước đạt cấp độ đầu tư” ổn định, ít rủi ro. Năm 2006, tổng các nguồn vốn đầu tư chung vào các ngành kinh tế - xã hội chiếm 20,5 % GDP. Trong đó riêng vốn đầu tư của Chính phủ Liên bang và các tiểu Bang đạt 76,8 tỷ USD (chiếm 3,3 % GDP).Năm 2007, tổng các nguồn vốn đầu tư chung vào các ngành kinh tế - xã hội chiếm 20,5 % GDP, trong đó riêng vốn đầu tư của Chính phủ Liên bang và các tiểu Bang đạt 76,8 tỷ USD (chiếm 3,3 % GDP). Mức Đầu tư chung cuả xã hội năm 2007 đạt tăng trưởng 13,4% so với cùng kỳ, riêng quý I/2008 đạt tăng trưởng 18,5% cùng kỳ. Tuy vậy dự kiến cả năm 2008 sẽ tăng khoảng 11 – 14%. Lĩnh vực đầu tư được chú trọng có mức tăng nhanh là máy móc, thiết bị, xây dựng nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế. Vừa qua Braxin được Tổ chức S & P xếp loại “ Nước đầu tư an toàn “.Tỷ giá quy đổi thả nổi và chính sách làm tăng giá đồng bản địa Real đã ảnh hưởng đến xuất khẩu và giảm bớt sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Braxin. Tû lÖ §Çu t cña Braxin so víi GDP tõ n¨m 1996 ®Õn n¨m 2007 Tû lÖ §T % Tû lÖ ®Çu t % 22 21,2 21 20,5 20 19 19,9 20 19,7 19,3 19,3 19,6 19,5 18,9 18,3 18 17,8 17 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Biểu đồ : Xu thế phát triển mức đầu tư trong tổng số GDP từ 1997 đến 2007Nguồn: IPEA “O E. SP”, tr. B6, dia 8/7/2006. * ; Uớc năm 2008 : 24 %. Đầu tư nước ngoài vào Braxin 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan