Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Mĩ học đại cương

.DOCX
73
438
100

Mô tả:

MĨ HỌC ĐẠI CƯƠNG Cô gái biểu tình 17/7/2011 ­ Hoa hậu Việt Nam yêu nước MĨ HỌC ĐẠI CƯƠNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGỮ VĂN LƯU HÀNH NỘI BỘ MYỸ HỌC ĐẠI CƯƠNG BÀI 1 Nhâ pâ môn mỹ học1.1 Mĩ học trước Mác1.2 Mĩ học Mác–Lê nin Cấu trúc của mĩ học Mối quan hệ của mĩ học với các bộ môn khác Cấu trúc của “Đời sống thẩm mĩ“ BÀI 2 Cái đẹp 2.1 Khái niệm 2.2 Phân loại cái đẹp theo ba phạm vi 2.3 Những quan niệm trước Mác về cái đẹp 2.4 Chủ nghĩa Mác Lê nin hoàn thành quan niệm về cái đẹp BÀI 3 Cái bi kịch 3.1. Khái niệm 3.2. Phân loại 3.3. Nghệ thuật bi kịch BÀI 4 Cái trác tuyệt 4.1 Các hình thái biểu hiện của cái trác tuyệt 4.2. Tình cảm thẩm mĩ của cái trác tuyệt 4.3.Cái trác tuyệt trong nghệ thuật 4.4. Ba xu hướng nghiên cứu cái trác tuyệt. BÀI 5 Cái hài kịch 5.1 Khái niệm. 5.2 Ý nghĩa của hài kịch 5.3. Tính dân tộc của hài kịch 5.4. Cái hài trong nghệ thuật BÀI 6 Chủ thể thẩm mĩ 6.1 Con người là chủ thể nghê â thuâ ât 6.2 Thị hiếu thẩm mĩ và thị hiếu nghệ thuật 6.3. Lí tưởng thẩm mĩ và lí tưởng nghệ thuật 6.4. Phân loại chủ thể thẩm mĩ, chủ thể nghệ thuật BÀI 7 Đại cương về nghê â thuâ ât 7.1. Cấu trúc của đời sống nghệ thuật 7.2. Sự thể hiện lí tưởng thẩm mĩ trong nghệ thuật và Hành trình của nhân vật lí tưởng trong nghệ thuật. 7. 7.3. Nghệ sĩ 7 7.4 Quan hệ giữa nghệ sĩ và các chủ thể nghệ thuật khác . 7. 7.5 Đặc trưng của kiến trúc và những loại hình nghệ thuật cơ bản (Điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa, sân khấu, văn học và điện ảnh) 7.6 Chức năng của nghệ thuật. 1. BÀI 8 Giáo dục thẩm mỹ 8.1. Hai căn bệnh trong đời sống thẩm mĩ 8.2. Nội dung và phương hướng giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường trung học Giáo dục ý thức thẩm mĩ. Giáo dục về cái đẹp Ôn tập – Bài tập BÀI 1      NHẬP MÔN MĨ HỌC  1.1.  My hoc trước  Mác       Aristote thế kỉ 7 thời cổ Hi Lạp trước công nguyên, trong cuốn Poetika (Thi  pháp), ông yêu cầu triết hoc nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mĩ hoc  còn phôi thai, chưa tồn tại độc lập.     Baumgacten (Đức) 1735: giáo sư  yêu cầu mĩ hoc nhận nhiệm vụ nghiên cứu con  đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn Mĩ học tập I năm  1750, Mĩ học tập II năm 1758. Từ đây mĩ hoc ra đời, chính thức trở thành khoa hoc  độc lập.    Immanuel Kant (Đức) cuối thế kỉ 18             Xác định đối tượng của mĩ hoc là “thị hiếu thẩm mĩ” là cái chủ quan, ông bác  bỏ sự nghiên cứu đối tượng khách quan (cái đẹp không phải ở trên đôi má hồng thiếu nữ mà ở trong con mắt kẻ si tình)    Hegel  (Đức) đầu thế kỉ 19 Mĩ hoc chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật do Chúa trời ban phát cho nghệ sĩ, “nghệ  thuật  là vương quốc bao la của cái đẹp”. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở nghệ thuật, còn những cái đẹp khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và nhàm chán.   Tsernysevski (Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “Cái đẹp là cuộc  sống”.   Dostoievski (Nga thế kỉ 19) “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới“, “cái đẹp là lí tưởng đấu  tranh của nhân dân”.    Bielinski (Nga thế kỉ 19) mở rộng đối tượng mĩ hoc đến “lí tưởng thẩm mĩ”.     Gogol (Nga thế kỉ 19)  nghiên cứu thi ca Puskin và từ đó đến với mĩ hoc. Ông viết  “con người có thể suy tư lặng đi trước moi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc phát sinh tia lửa điện thi ca­cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới (moi công trình của thượng  đế), kể cả và trước hết là trong Con Người” 1.2  My hoc Mác Lê nin        Mối quan hệ của mĩ hoc với các khoa hoc khác                   Quan hệ với triết học                       Triết hoc là  cái nôi sinh ra Mĩ  hoc  Bản thể luận Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng,             Giác quan con người là công cụ của đời sống thẩm mĩ. cái thẩm mĩ có sẵn trong bản chất thế giới. cái đẹp mang  tính thứ nhất triết hoc.  Nhận thức luận           Theo Lê nin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,          vậy thì chúng ta có thể dựa vào nghệ thuật để nhận thức thế giới khách quan.             Mặt khác, con người còn sáng tạo những cái thẩm mĩ chưa có trong thực tiễn.  Chủ nghĩa duy vật lịch sử (nghiên cứu về vai trò của cá nhân và quần chúng  trong sự phát triển của lịch sử) là công cụ đắc lực khi nghiên cứu mĩ hoc.                   Quan hệ với tâm lí học             Mĩ hoc và tâm lí hoc cùng nghiên cứu một đối tượng là con người. Con người có hai hoạt động là sinh lí và tâm lý. Mĩ hoc chú ý hoạt động tâm lí, “cái  đẹp tâm lí hoc” và  “tâm lí hoc thẩm mĩ”.                    Quan hệ với nghệ thuật học             Nghệ thuật hoc bao gồm nhiều chuyên ngành ¨      Lịch sử nghệ thuật (Lịch sử văn hoc VN, LS sân khấu…v.v…) ¨      Lí luận nghệ thuật  (Lí luận văn hoc, Lí luận âm nhạc v.v…) ¨      Văn bản hoc (Văn bản Việt, văn bản Hán cổ, văn bản Nôm.v.v. . .) ¨      Tâm lí hoc sáng tạo nghệ thuật ¨      Tâm lí hoc tiếp nhận nghệ thuật ¨      Phê bình nghệ thuật  (văn chương, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh.v.v…) Quan hệ giữa mĩ hoc và nghệ thuật hoc là quan hệ hai chiều nhưng mĩ hoc chi phối  quyết định hơn.       Cấu trúc của đời sống thẩm mĩ                Nếu “bổ doc” đời sống con người ta thấy 2 nửa: nửa vật chất và nửa tinh  thần                Nếu “cắt ngang”, ta thấy “lát cắt” chính là đời sống thẩm mĩ. Đời sống thẩm mĩ  thấm sâu hòa lẫn vào cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.                                     Đời sống thẩm mĩ là một bộ ba                                                Khách thể thẩm mĩ                                                Chủ thể thẩm mĩ                                                   Nghệ thuật                 KHÁCH THỂ THẨM MĨ  gồm  Bốn  phạm trù thẩm mĩ cơ bản:                   Cái đẹp – Cái trác tuyệt ­  Cái bi kịch ­  Cái hài kịch    CHỦ THỂ THẨM MĨ  gồm 6  tố chất thẩm my: Cảm xúc thẩm mĩ Biểu tượng thẩm mĩ Hình tượng thẩm mĩ Tình cảm thẩm mĩ Thị hiếu thẩm mĩ Lí tưởng thẩm mĩ            k BÀI 2        CÁI ĐẸP                                                  美, měi: My                     美丽: měilì: my lệ, 美美:  měi hǎo: my hảo  The Beauty, the Beautiful   2.1  Khai niêêm Thế giới của chúng ta là vương quốc bao la của cái đẹp. Phong cảnh  丽丽 (fēng jǐng) la cảnh sắc đẹp tự nhiên, hài hòa với nhau.  Phong cảnh muôn màu sắc, muôn dáng điệu, muôn hương thơm.       “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, mây gió trăng hoa tuyết núi sông”                    (Cổ thi thiên ái thiên nhiên my/ sơn thuỷ yên hoa tuyết nguyệt phong)                ­ Hồ Chí Minh  “Khán Thiên gia thi hữu cảm”) Phong cảnh là do thiên nhiên tạo ra, con người chỉ có thể tham gia vào cảnh một  cách hạn chế góp phần bổ sung thêm nét đẹp. Con người đẹp muôn hình muôn vẻ (SV trao đôi đinh nghia phân biêt t ê ưng ve đep) Xinh đẹp: nhin chung đẹp xinh xắn  đẹp nhỏ nhắn, trẻ trung Kiều diễm: 丽丽 jiāo yàn: [kiều: mềm mại, xinh xắn, xanh tươi mơn mởn, nũng nịu, hơi  điệu. Diễm: đẹp tươi] Diễm lệ (Yàn lì) 丽丽 đẹp tươi rực rỡ.  Ỷ nị  (Yǐ nǐ ) gần như kiều diễm 美美 Mĩ lệ (měi lì): đẹp tươi 美丽 Duyên dáng : đẹp về dang voc, cử chỉ Tươi thắm: lan da trắng hồng, đôi môi tươi hồng, đôi mắt sang Dễ thương /khả ái:美 丽 Ưa nhìn: nhin chung đẹp tuy không co net nao nổi bâêt. Mảnh mai: đẹp va voc người nhỏ Thanh nhã 美 美 (thanh: trong sáng, giản dị. Nhã: dịu dàng, mẫu mực qui tắc…) Phương  phi 美丽 fēng mǎn/ phong mãn美美美 fēng yú/ phong du Khôi ngô 美美 kuí wú,  khôi vĩ 美丽 kuí wěi . Dĩnh ngộ: vẻ đẹp hơi lạ Tuấn tú 美美 jùnxiù: nam, tài giỏi, vóc trung bình, lanh lợi, đẹp trai. (Phái nữ có nhiều ve đep tự nhiên phong phú hơn nên được gọi là “phái đep”, nghệ thuật hội họa thường chọn người mẫu nữ để miêu tả cả thế giới) v.v… Chưa kể lối noi dân gian ngay nay “Cô ấy đẹp thảm thiết, …đẹp thảm khốc… cô ấy  đẹp đến nao long…,đẹp như tranh”. Vẻ đẹp con người vô cung phong phu đa dạng.      Hàng hóa đẹp và tác phẩm nghệ thuật Moi hàng hóa, dụng cụ cũng thể hiện một vẻ đẹp nào đấy. Những đồ thủ công mĩ  nghệ. Các tác phẩm nghệ thuật . Karl Marx nhận xét “Con người sản xuất theo qui luật của cái đẹp”  Cảm xúc thẩm mĩ của cái đẹp                 Đứng trước cái đẹp, con người cảm thấy dễ chịu, khoan khoái, pha chút  bàng hoàng ngạc nhiên và cảm thấy yêu đời hơn. 2.2    Cai đẹp trong ba phạm vi tồn tại Cái đẹp trong Tự nhiên Cái đẹp trong Xã hội Phong cảnh thiên nhiên:cây lá hoa bầu trời trăng sao,sông biển, loài vật, chim hót… với tiêu chuẩn sau : Cái đẹp trong Nghệ thuật * Hình dáng cân đối, cân xứng, trật tự, màu sắc, hương vị, hài hòa… trong muôn hình muôn vẻ *  Tất cả thế giới sinh vật đều đẹp, do trải qua hàng triệu năm đã đào thải những gì  không đẹp. * Sức sống là cái đẹp cơ bản nhất của sinh vật. Con người là sinh vật hoàn hảo nhất trong giới sinh vật. Thiên nhiên gồm vật hữu cơ và vật vô cơ . Vật hữu cơ là cái đẹp cơ bản của thiên nhiên . Bao dung Lao động, kĩ xảo Tình yêu, tình bạn . .. Tình xóm giềng Tình đồng bào Tình nhân loại Tha thứ, ân hận Đoàn kết dân chủ, tự do công bằng Trí tuệ Làm ra sản phẩm tiêu dùng đẹp. Giải trí lành mạnh Trang trí, trang điểm (thẩm mĩ viện . . .) và cao nhất là tác phẩm nghệ thuật                               *Tái tạo những vẻ đẹp của tự nhiên và xã hội, lấy con người làm trung tâm. Tác động  vào hai giác quan chính là Nghe và Nhìn (âm thanh và hình ảnh đẹp..)  Chon lựa, tập trung những hình ảnh đẹp, gạt bỏ những cái bình thường, bố trí lại, soi tỏ cái đẹp. * Sáng tạo những vẻ đẹp mới chưa có trong hiện thực, nhân vật lãng mạn, cảnh vật  huyền ảo, kỳ vĩ, . . . và những ước mơ khát vong cao cả. *Nhân vật chính là con người Câu hỏi: Cái đẹp nhất tồn tại ở đâu trong 3 phạm vi Tự nhiên – Xã hội – Nghệ thuật ?           Trong thần thoại Hi Lạp có câu chuyện hoa sĩ  Pigmalion tạc ra bức tượng cô  gái đẹp  từ một cái ngà voi. Nữ thần Venus cho cô gái ngà voi sức sống, chàng đặt  tên khai sinh cho vợ là Galatea, sinh con trai đặt tên là Paphos (tiếng Hylạp) nghĩa là  “say mê”. Từ đó sinh ra pathetique (và sympathetic) trong tiếng Latin, Pháp, Anh  nghĩa là “cảm động, thống thiết”.   Quan điểm của Tsernysevski “Cái đẹp là cuộc sống”. Cuộc sống hiện thực cao hơn  nghệ thuật  (đúng / sai ? SV thảo luâên)         Thật ra, chính nhờ bức tượng ngà voi là tác phẩm nghệ thuật tạo hình mà  Pigmalion mới cảm nhận được vẻ đẹp của nàng Galatea bằng xương bằng thịt – con  người thật sự.         Cái đẹp trong Tự nhiên rất phong phú, trong Xã hội càng phong phú hơn và cái  đẹp trong Nghệ thuật là vô tận. 2.3  Những quan niêêm về cai đẹp trước Mac Các nhà triết hoc cổ đại đã giải thích cái đẹp như những ma thuật, như cái lan tỏa  chứa đầy bí ẩn.       Nhà  triết hoc toán hoc Pythagore căn cứ vào các con số để giải thích sự cân đối,  hài hòa của thế giới. Cái đẹp sinh ra từ những sự chuyển động có nhịp điệu và âm  thanh. Vậy cái đẹp là sự vận động nhịp nhàng của các con số và sự hòa điệu của  chúng (tiến tới lí thuyết âm nhạc: cái đẹp của âm thanh goi là giai điệu ).       Nhà triết hoc Heraclet: cái đẹp sinh ra từ sự hài hòa của mâu thuẫn. Ông nhấn  mạnh tính tương đối của cái đẹp. Dấu hiệu của cái đẹp là sự hòa hợp trong mâu  thuẫn và phù hợp với điều kiện sống.       Nhà triết hoc Democrit cho rằng: điều tốt nhất của con người là sống, sống khoan  khoái hơn, ít buồn phiền hơn. Không nên cố đạt tới bất kì sự khoái cảm tột đỉnh nào  mà chỉ nên đạt tới khoái cảm gắn liền với cái đẹp. Ai vi phạm độ thì cái dễ chịu sẽ trở  thành cái khó chịu. Ông cũng cho rằng khi con người muốn tái hiện cuộc sống, tái  sản xuất cuộc sống thì nghệ thuật xuất hiện.       Nhà triết hoc Platon thờ cổ Hi Lạp: Cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, siêu cảm giác và  siêu trần thế. Moi vẻ đẹp là do Thượng đế nhập vào, con người chỉ nhận ra cái đẹp  mà “không thể giải thích được cái đẹp” (!) Nhà triết hoc Kant thế kỉ 18 : Cái đẹp chỉ tồn tại trong chủ thể Hegel thế kỉ 19 : Cái đẹp chỉ có ở nghệ thuật     Ý kiến của các nhà văn, nhà mĩ hoc Nga thế kỉ 19 tiến thêm một bước khi bổ sung  tính xã hội của cái đẹp (cái đẹp là đấu tranh cho tự do ). Giáo sư Chu Quang Tiềm (Trung Quốc) nói ”Đẹp là những sự vật mà tính chất, hình  thái nào đó về phương diện khách quan lại thích hợp với hình thái ý thức chủ quan có thể giao hoà làm một mà trở thành tính chất ấy của một hình tượng hoàn chỉnh”. 2.4.    Quan niêêm về cái đẹp của chủ nghia Mac­ Lê Nin Cái đẹp làm cho con người khoan khoái dễ chịu, yêu đời. Cái đẹp là nhu cầu tinh thần vô hạn của  con người (còn nhu cầu vật chất thì có hạn). Cái đẹp là một hiện tượng vô cùng phức tạp và đa dạng. Nó là một lĩnh vực tinh thần  và tình cảm dù nó tồn tại dưới dạng vật chất hay tinh thần. Cái đẹp là một loại giá trị  giúp con người đánh giá thế giới và bản thân mình. Cái đẹp là nhu cầu cá nhân đồng  thời cũng mang tính định hướng của xã hội. Nó tồn tại trong ba phạm vi  tự nhiên, xã  hội và nghệ thuật. Cái đẹp khách quan, tự nó Cái đẹp có những chuẩn mực như hình dạng cân đối, màu sắc, âm thanh, hương vị..  trật tự, hợp lí.  Về kích thước, cái đẹp có “tỉ lệ vàng”, “kích thước vàng” cho từng loại  đối tượng.       Thiên nhiên là nơi chứa đựng những cái đẹp khách quan tự nó sau khi trải qua  hàng triệu năm thích nghi, đào thải, chon loc và tích lũy. (xem phim khoa hoc “Thế  giới động vật” trên TV thấy  giới sinh vật có rất  nhiều vẻ đẹp kì lạ hiếm có). Cái đẹp hài hòa, chỉnh thể trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật Hài hòa, chỉnh thể là : những bộ phận đứng riêng lẻ chưa phải là đẹp nếu được sự  phối hợp có thể tạo ra một cái đẹp chung. Một bộ phận có thể thiếu sự cân xứng,  nhưng nó được đặt trong một tương quan nào đó nên vẫn tạo ra được cảm giác hài  hòa và đẹp . Ví dụ: mái tóc lệch, chiếc răng khểnh bản thân nó chưa đẹp, nhưng nhìn hòa hợp với  khuôn mặt, dáng người sẽ đẹp. Đôi chân con cò khẳng khiu, quá dài so với thân thể  nhỏ bé, nhưng lại hòa hợp với cổ dài, mỏ dài, do đó nhìn toàn bộ con cò rất đẹp. Một bài thơ hay có thể bao gồm cả những câu bình thường, thậm chí không hay. Một  tác phẩm hay vẫn có thể chứa đựng một số phần chưa hay. Khi phân tích tác phẩm,  xinb đừng nhằm vào những câu dở mà cố ép khen cho hay, hoặc áp đặt cho nó cái  đẹp mà nó không có (ví dụ bài thơ Bên kia sông Đuống rất hay, song câu thơ dở  không ít, chẳng hạn ”nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” . Xưa nay  bao giờ dòng sông ấy cũng nằm nghiêng vậy thôi, đâu phải chỉ trong kháng chiến nó  mới nằm nghiêng ! Câu thơ “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”là câu thơ dở ở  trong một bài thơ hay (Tràng giang của Huy Cận). Bài Các vi La Hán chùa Tây  Phương cũng là bài thơ hay mặc dù có khổ thơ cuối cùng rất dở, phi thực tế, vội  vàng…        Cái đẹp mang tính chủ thể – khách thể               Cái đẹp này phụ thuộc vào năng lực vào ý thức thẩm mĩ của con người chủ  thể. Mỗi con người gồm những yếu tố như: lứa tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh xuất  thân, trình độ hoc vấn và văn hóa, dân tộc, thời đại. Những yếu tố ấy tạo ra những thị hiếu thẩm mĩ khác nhau. Do đó khi đứng trước một khách thể, sẽ có thể sinh ra  những sự đánh giá khác nhau về cái đẹp.         Cái đẹp của nghệ thuật Đó là cái đẹp do nghệ sĩ sáng tạo ra trong các loại hình nghệ thuật nhưng cái đẹp ấy  có quan hệ mật thiết với cái đẹp trong tự nhiên và xã hội.             Trước hết, nghệ thuật tái tạo những cái đẹp có sẵn trong tự nhiên mà trung  tâm là con người. Tái tạo không phải là sự chép lại đơn giản (copy) mà là chon lựa,  sắp xếp bố cục, gạt đi những cái rườm rà, và tập trung chiếu sáng cái đẹp. Qua sự tái tạo, nghệ sĩ bộc lộ sự đánh giá và ca ngợi cái đẹp.             Tiến hơn nữa, nghệ sĩ còn sáng tạo những vẻ đẹp mới mẻ như một ước mơ,  một dự báo về cái đẹp tương lai, hoặc quay về sống với những cái đẹp đã trôi vào  quá khứ . . . Cái đẹp trong nghệ thuật phải đạt được tiêu chuẩn  là “tính  điển hình”. “Tính điển hình” nghĩa  là tính phô biến, quen thuộc đồng thời lại sinh động và cụ  thểđối với người thưởng thức. Trong quan niệm về cái đẹp cần tránh hai hướng lệch lạc: thói giáo điều và tự nhiên  chủ nghĩa Câu chuyện nhà thơ nhà soạn kịch Bertolt Brecht đến thăm một nhà hát “nổi tiếng”  có: một khán giả qúa xúc động đã bắn chết diễn viên đóng vai phản diện quá giống  (cả hai đều mắc bệnh tự nhiên chủ nghĩa, chưa có ý thức rõ rệt về nghệ thuật).  Bertolt đã chê trách người diễn viên và người khán giả thiếu ý thức mĩ hoc (giải thích  tại sao ?) Tiểu thuyết Đẹp của Khái Hưng kể chuyện hoa sĩ Nam mỏi mệt, thất vong vì đi tìm  mẫu vẽ không được như ý. Đến nhà người quen ở Hà Nội, anh gặp lại Lan – cô bé  ngày xưa goi anh bằng chú mà anh không chú ý, nay lớn lên xinh đẹp bất ngờ. Anh  xúc động, say mê vẽ. Và tình yêu đến, anh cưới Lan. Một thời gian trôi qua, anh lại  thất vong, không vẽ được nữa, Lan đã thành thiếu phụ. Bạn bè hỏi, anh buồn bã nói:  trên đời không có cái đẹp vĩnh cửu, nó đã chết, cái đẹp rất yểu mệnh, thật là buồn  chán ! (anh mắc bệnh giáo điều chủ nghĩa)         Nhân vật lí tưởng (con người  đẹp nhất)  đi cùng lịch sử mĩ hoc, lịch sử nghệ  thuật  và lịch sử phát triển của nhân loại :       Nhân vật lí tưởng tức là mẫu người đẹp nhất của mỗi  thời đại, mỗi xứ sở. Nghệ sĩ có bổn phận miêu tả ho trong  tác phẩm nghệ thuật … BÀI 3                       CÁI BI KỊCH                       (美丽 Bēi jù, The tragedy )  3.1  Khai niêêm              Bi kịch là tình trạng xung đột trực tiếp xảy ra giữa cái đẹp và cái xấu. Cái đẹp  và cái xấu đều muốn tồn tại hợp pháp và cố gắng duy trì sự tồn tại của mình.              Đó là những xung đột có ý nghĩa xã hội, lịch sử, đạo đức, tâm lí, chứ không  phải bất kì sự xung đột nào trong cuộc sống. Những xung đột bi kịch liên quan đến lẽ  sống  và tình đời rộng lớn của con người, có ý nghĩa triết lí sâu xa, khiến chúng ta  xúc động và rút ra những bài hoc răn đời.              Quan điểm của Aristote về bi kịch rất cô đong và chuẩn xác  như  sau đây:  Bi kịch là một hiện tượng quan trong trong xã hội thể hiện qua số phận cá nhân.  Bi kịch chân chính (tức là bi kịch chính thống) là bi kịch của những con người có  hành động  nghiêm túc và cao thượng­ “người tốt nhất so với những người trong  thực tế”. Kết thúc xung đột, những người tốt chịu đựng sự bất hạnh, thậm chí bị tiêu vong  thảm khốc. Nhưng sự thất bại của ho làm cho người đời xót thương, ca ngợi ho, vẽ chân dung  ho đẹp , “đẹp hơn thực” để treo trước cuộc đời một tấm gương. Tấm gương đó là bài hoc, giúp con người tránh điều ác, làm điều thiện. Bi kịch  làmtrong sạch hóa cảm xúc tương tự bằng cách khêu gợi sự xót thương và khủng  khiếp (hiệu ứng catharsis). Có người goi bi kịch là loại “anh hùng ca đẫm lệ”, nó làm cho con người ghê tởm và  căm ghét cái xấu, cái ác  và khích lệ con người đấu tranh cho lí tưởng sống của xã  hội. 3.2  Phân loại bi kịch  Bi kịch chính thống  gồm 2 loại             3.2.1­ Bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen tối của lịch sử           Bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen tối là một dạng thức bi kịch lịch sử và có tính chất điển hình nhất. Nói như Engels “đây là xung đột bi kịch giữa yêu sách tất yếu về mặt lịch sử và tình  trạng không thể nào thực hiện được điều đó trong thực tiễn” (Marx­Engels–Lenin Về  văn hoc và nghệ thuật). Như vậy, bi kịch ở đây là bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cái cách mạng còn đang ở  trong thế yếu, ở trong một hoàn cảnh nảy sinh nhu cầu tất yếu cần thay đổi lịch sử  hiện hành, vì nó đã già cỗi, nhưng điều kiện để thực hiện nhu cầu đó lại chưa chín  muồi. Nhưng không vì thế mà ngã lòng, lịch sử đã hiến dâng những người con ưu tú  nhất của mình, những người dám đón nhận sứ mạng cao quí là hiến dâng cả cuộc  đời mình để đốt lên những ngon đuốc làm bừng tỉnh cả một dân tộc, thậm chí cả  nhân loại, đang còn chìm đắm trong giấc ngủ triền miên.             Các nhân vật đó phải chết và chết một cách vĩ đại. Lúc đó, ho không chỉ đại  diện cho cá nhân ho. Ho cũng không chỉ đại diện cho một bộ phận nhỏ bé nào đó của xã hội. Hơn thế ho đại diện cho “những giai cấp và những trào lưu nhất định của thời  đại ”.            Tính cách của các nhân vật loại này trở nên hùng mạnh và có tính chất bi kịch  cũng bởi hành động của ho không phải là một thứ “ham thích vụn vặt”, mà là một  hành động có ý thức sâu sắc trước lịch sử, coi sự dấn thân vào dông bão là một  nhiệm vụ thiêng liêng không thể thoái thác được, và ho cũng nhận thấy rằng ngoài ho ra, những người khác chưa thể làm thế được.            Tấm gương của ho trở thành trác tuyệt, cũng vì cái chết của ho không phải là  cái chết trong bối cảnh đối địch thông thường của các giai cấp trong lịch sử, mà là cái chết trong bối cảnh vận động của lịch sử đã tạo thành phong trào đối địch. Và ho là  người góp phần quan trong đẩy mạnh phong trào lịch sử đó.            Ho chết, nhưng không vì thế mà lý tưởng của ho trở thành bi thảm; Trái lại, cái chết của ho có tác dụng thôi thúc moi người đứng dậy đấu tranh cho lẽ phải. Cũng  thông qua cái chết bi kịch này mà lịch sử đã hiện lên rõ nét những khuôn mặt và  những tâm trạng, sắp xếp các khuôn mặt, các tâm trạng đó thành hai tuyến đen,  trắng rõ ràng. Mác đã nói đến tình huống đấu tranh của nhân vật bi kịch và tác dụng  của nó làm cho “tâm trạng của kẻ thù trở thành bảo thủ thực sự một cách điển hình  và tất yếu”. Nói một cách khác, ho làm cho bộ mặt kẻ thù không còn ngụy trang được  bằng bộ mặt dễ coi, mị dân mà buộc phải tỏ thái độ, do đó, sự tàn bạo của kẻ thù  phải bộc lộ trắng trợn, làm cho xã hội ghê tởm và cảm thấy không còn sợ chúng nữa.              Chính vì thế, lịch sử mãi mãi ca ngợi sự thất bại của nghĩa quân Yên Thế  và  cái chết của cụ Hoàng Hoa Thám. Lịch sử cũng ghi đậm nét trên trang sách của nhà  trường bài ca chưa thành của nghĩa quân Bãi Sậy. Cái chết của liệt sy Phạm Hồng  Thái không hề uổng phí vì tiếng bom Sa Điện (Quảng Châu) ném vào mặt tên toàn  quyền Pháp đã làm thức tỉnh cả một thế hệ thanh niên Việt Nam, khiến đời đời còn  ghi nhớ:             Tấm gương sống và chiến đấu của những người cộng sản Việt Nam trước lúc tử hình như: Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trong, v.v.. . còn mãi mãi làm cho cuộc đời ngân vang những câu nói bất tử. Câu nói của Phuxich  người cộng  sản Tiệp Khắc nhắn nhủ con người lúc ông viết dưới giá treo cổ: “Hỡi nhân loại, hãy  cảnh giác” ngày nay vẫn còn ngân vang nhắc nhở loài người.        3.2.2 – Bi kịch của nhân vật chết trước bình minh                Đây là một dạng bi kịch lịch sử, nhưng là cái bi của cái mới, cái tiến bộ, cách  mạng đã ở thế thắng trong toàn cục, nhưng một bộ phận nào đó của nó còn lâm vào  hoàn cảnh trớ trêu, khiến cho người anh hùng bị sa cơ và bị tiêu vong thảm thương. Hành động của các nhân vật anh hùng thuộc loại này là một hành động hợp với yêu  cầu tất yếu của lịch sử và khả năng thực hiện lí tưởng của ho đã mở rộng, song cuộc  chiến đấu một mất một còn đó vẫn diễn ra gay gắt, trong một hoàn cảnh và điều kiện  nhất định, ở một thời điểm nhất định, kẻ địch còn tập trung được nhiều lực lượng và  tỏ ra lợi hại, người anh hùng chiến đấu trong điều kiện đó rất có thể bị thất bại, bị đàn áp khốc liệt.              Tuy người anh hùng chết đi, nhưng lí tưởng của ho không còn bị treo đấy (ở  trường hợp trên), mà đã được cả thế hệ của ho, dân tộc của ho dấy lên một phong  trào nối tiếp xả thân vì lí tưởng ấy.             Sự ngã xuống của ho không phải là sự vấp ngã giữa đêm dài đen tối, mà là  sự ngã xuống ngay trước ngưỡng cửa bình minh; do đó nó có tác dụng bật tung cái  then chốt cài im ỉm, khóa chặt nhiều năm để moi người từ trong hầm tối tràn ra ánh  sáng, trước Cung điện Mùa đông hoặc Quảng trường Ba Đình lịch sử… Chính vì thế, cái chết của các nhân vật anh hùng này có một tính chất mĩ hoc mới, đó là tính bi  hùng kịch.             Có thể kể về những tấm gương anh hùng thuộc dạng bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh như: Nữ chính ủy trong tác phẩm Bi kich lạc quan của nhà văn  Vinhepxki. Các anh hùng trong tác phẩm Chiến bại của nhà văn Fadeev, các nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn Tế của thầy Đồ Chiểu,  v.v..             Trong văn hoc nghệ thuật Việt Nam cũng không ít những nhân vật ngã xuống  đêm hôm trước của Cách mạng và ngay vào những ngày đấu tranh sắp giành thắng  lợi. Chúng ta có thể nghĩ đến: cái chết của anh Nguyễn văn Trỗi. Hình tượng chị Sứ  trong tác phẩm Hòn Đất của nhà văn Anh Đức. Võ Thị Sáu và bài ca ngát hương hồn  người nữ anh hùng trẻ tuổi (Ngợi ca chi Võ Thi Sáu của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn)  v.v… 3.2.3 – Bi kịch của cái cũ               Nó là cái cũ, như một cuốn vở sờn gáy, đang lật những trang cuối, nhưng  với lịch sử nó chưa trở thành xấu xa, phản động, trái lại nó có ít nhiều sứ mạng trước lịch sử mà sớm bị tiêu vong thảm thương cũng trở thành một hiện tượng bi kịch.             Bằng một cái nhìn tinh tế và sâu sắc, Mác viết: “Lịch sử của chế độ cũ là bi  kịch chừng nào nó còn là quyền lực của thế giới tồn tại bao nhiêu đời nay. Trái lại, tự  do là cái tư tưởng ám ảnh một số người cá biệt” (Mác­Engels  Toàn tập).              Khó có thể đánh giá hết lời chỉ dẫn sâu sắc đó của Mác. Mĩ hoc trước đây  mới chỉ thấy bi kịch là của cái mới. Mác không chỉ thừa nhận bi kịch là sự xung đột  giữa cái đẹp và cái xấu, vì Mác đã nhấn mạnh đến cái quyền lực của thế giới tồn tại  bao nhiêu đời nay và đối lập với nó “tự do”, “cái tư tưởng ám ảnh một số người cá  biệt”. Tiến xa hơn, Mác còn phát hiện ra bi kịch của cái cũ. Đó là trường hợp khi cái  cũ còn chưa mất hết sinh lực của nó và cái mới vừa nảy sinh chưa đủ lông cánh, cái  mới là tự do nhưng chưa phải là chùm nho trên giàn quả đỏ.             Ở phần trên, chúng ta đã đi sâu nghiên cứu bi kịch trong sự tiêu vong oan  uổng của cái tự do non trẻ thì ở đây Mác lại lưu ý chúng ta bi kịch của một lực lượng  khác: lực lượng của cái cũ.                Qua ý kiến của Mác, có thể xác định  ba tiêu chí cơ bản làm nên “bi kịch của  cái cũ”:       + Cái cũ chưa mất hết vai trò trong lịch sử, chưa trở thành hoàn toàn xấu xa,  phản động.       +  Bản thân cái cũ vẫn còn tin vào tính chất hợp lí của nó.       + Những con người “đứng ở phía chế độ cũ không phải là sự lầm lạc có tính cá  nhân, mà là sự lầm lạc có tính chất lịch sử toàn thế giới. Chính vì vậy cái chết của nó  là bi kịch.                                                                                                              (Mác­Engels   toàn tập).             Như vậy bi kịch ở đây không phải là xung đột giữa cái mới và cái cũ mà là bi  kịch của sự lầm lạc của chính cái cũ. Nói một cách khác, đó là sự lầm lạc của những  con người chưa nhận thức ra tính tất yếu của quá trình đang chết dần của cái cũ, nên vẫn đem hết cả tài trí và sức lực của mình ra để bảo vệ nó, do đó ho không thể tránh  khỏi thất bại thảm thương và bị tiêu vong oan uổng.              Những “anh hùng” của cái cũ phần đông đều trở thành các nhân vật như  “Đông Ki sôt” (Don Quijote). Ho là những người có lí tưởng, nhưng lí tưởng đó đã lạc  hậu và trở thành mơ hồ. Ho chiến đấu cho lí tưởng đó theo thói quen, theo một  “truyền thống” nhất định hơn là nhận thức ra sức sống của lí tưởng mà ho đang bảo  vệ ấy cũng đã quá lung lay vì nó đã đi hết con đường phát triển nội tại của nó.             Sự thất bại của vua Duy Tân nước ta và việc ông bị giặc Pháp bắt đi đày đến  tron đời cũng vì lí do đó.             Sự thất bại của ho là tất yếu, vì trong cuộc chiến đấu đó, ho trở thành “đơn  thương, độc mã”, ho không biết dựa vào ai cả, quần chúng cũng chẳng ai tin rằng ho  sẽ đem lại gì cho moi người nên tất thẩy đã đứng ngoài, hoặc thờ ơ với cuộc đấu  tranh của người “anh hùng” ấy.             Nhưng khi ho chết, quần chúng vẫn xót thương ho, như luyến tiếc một ráng  chiều đẹp trong một buổi hoàng hôn mà thôi. 3.2.4 ­  Bi kịch cuả sự lầm lẫn, sự kém hiểu biết hoặc sự “ngu dốt ”             Bi kịch của sự lầm lẫn được nêu ra như một bài hoc xương máu của đường  đời  có tác dụng nhắc nhở con người một bài hoc cảnh giác.             An Dương Vương mất Loa Thành phải giết con gái và tự vẫn vì đã mất cảnh  giác quá tin vào kẻ địch, đã tưởng có thể lấy tình cảm gia đình san bằng được lòng  tham không đáy của kẻ thù.              Othello – từ một nô lệ da đen, bằng cả cuộc đời dũng cảm và thông minh của mình, trở thành một võ tướng và lay động được một tình yêu say đắm, trong trắng  của một thiếu nữ da trắng cao quí tuyệt vời. Nhưng rồi Otenlô bóp chết người  yêu  ngay trên cái giường hạnh phúc của mình không phải vì quá ghen, mà vì quá tin, nên  bị kẻ xấu lừa dối.             Ở dạng thức này, chúng ta thấy có “Eudipe làm vua”. Do “số mệnh”, Ơ đip đã  giết cha mà không biết đó là cha đẻ, lấy mẹ mà không hay biết người đó đã sinh ra  chính mình. Khi nhận ra sự lầm lẫn, Eudipe đã tự choc thủng hai mắt để trừng phạt  mình. Hình tượng tự choc thủng mắt là sự trừng phạt tội không biết phân biệt lẽ đời  một cách anh minh – một sự anh minh không đạt tới được của một con người, nhưng khát khao cần phải đạt tới như một bản chất người cần sự trong sáng.             Bi kịch của sự kém hiểu biết liên quan đến vấn đề mà Mác goi là sự “ngu dốt”: “Sự ngu dốt là con quỷ mà chúng ta e rằng chúng sẽ còn gây ra nhiều tấn bi kịch”.             Ở một trường hợp khác, bi kịch của sự kém hiểu biết xảy ra không phải do  một lực lượng xã hội nào, cũng không phải do một phép tắc đạo đức nào dẫn dắt ho,  mà là một tai nạn , một sức mạnh mù quáng của tự nhiên. Thí dụ: cái chết của những người đi khai phá miền bắc cực, những anh hùng đã khuất trong cuộc thám hiểm  biển cả, những anh hùng đi mãi không biết rằng ho có thể hi sinh trong lúc làm nhiệm  vụ. Ho cũng thừa biết rằng trong cuộc đo sức ấy, con người còn nhiều điều chưa  lường hết và khả năng có hạn của con người chưa một lúc đã có đầy đủ phương tiện dự phòng hết. Nhưng ho vẫn ra đi với niềm tin rằng ho là người khai phá con đường  cho thế hệ sau.             Thực ra bi kịch của cái cũ cũng thuộc loại này nhưng  được ưu tiên tách ra  thành một loại riêng do tính lịch sử của nó. 3.2.5 – Bi kịch của những khát vong con người             Loại bi kịch này nảy sinh do xung đột gay gắt bởi những mâu thuẫn không thể nào khắc phục nổi giữa hai sự đối lập: những khát vong chính đáng riêng tư của con  nguời và khả năng không thể thực hiện được những khát vong đó trong cuộc sống. Bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn vặt của cá nhân, song nó lại động chạm đến lẽ  sống, tình yêu, sứ mệnh của con người, vì thế nó day dứt mãi lòng người.             – Thị Kính cả một cuộc đời oan uổng, đến chết, lúc thay áo liệm xác mới giải  được nỗi oan đời. Thị Màu cũng là một nhân vật bi kịch độc đáo, đằng sau vẻ lẳng lơ  “nổi loạn” kia là một tâm hồn bi kịch chua chát. ­ Những nhân vật bi kịch trong Tắt đèn, Đời cô Lựu, Chí Phèo, Lão Hạc . . . ­ Maslova phải ra vành móng ngựa mới làm cho kẻ hại đời mình là quan toà  Nekhliudov tỉnh ngộ (tiểu thuyết Phục sinh của L.Tôn­xtôi).             – Kiều là một nhân vật bi kịch tiêu biểu, cuộc đời trầm luân của nàng đã nói  lên sự vật lộn gay gắt giữa con người tài sắc “mười phân vẹn mười” ấy với những thế lực xã hội đen tối như quan chức xử kiện, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hoạn  Thư, Hồ Tôn Hiến v.v..(Đoạn trường tân thanh ­ Nguyễn Du) ­ Anna Karenina đau khổ, cuộc sống đầy bi kịch cũng bởi nàng có một tình yêu mãnh  liệt mà lại phải sống với người chồng quá khô khan, kiểu cách và quan liêu  (tiểu  thuyết Anna Karenina của Lev Tolstoi). ­ Tiểu thuyết Evgeni Onegin, Người con gái viên đại uý của Pushkin, Chiến tranh và  hoà bình của  Liev Tolstoi. ­ Phồn Y trong vở kịch nói Lôi vũ của Tào Ngu             Đau khổ của Kiều, Anna Karenina, Phồn Y . . . tuy là những đau khổ của  những con người bình thường, không có gì xuất chúng, ho không phải những anh  hùng nhưng nỗi đau của ho là bi kịch có ý nghĩa xã hội phổ biến. Khát vong của ho nó là những gì đáng yêu quí nhất, đáng trân trong của con người. Bi kịch này có yếu tố  vạch trần, lên án gay gắt cái xấu và nhắc nhở con người biết trân trong những  nguyện vong chính đáng của mỗi người. 3.2.6  Bi kịch của chính cái xấu             Cái cũ đã thực sự trở thành xấu và gây ra tác hại khủng khiếp, nó cần phải bị  trừng phạt một cách nghiêm khắc, “kẻ gieo gió ắt phải gặt bão”, đó là nội dung cơ bản của loại bi kich của chính cái xấu.             Giá trị my hoc của bi kịch này là:  nếu các dạng thức bi kịch khác đều là bi  kịch của cái đẹp, cái tốt, hoặc cái còn tốt mà bị lầm lạc thì bi kịch của chính cái xấu là  bi kịch của tội ác. Ở đây, người ta không lấy nước mắt để răn đời, không lấy lòng xót  thương mà luyến tiếc người đã mất, trái lại, lấy sự khủng khiếp để nhắc con người  chớ làm điều khủng khiếp. Đến đây chúng ta hiểu rõ quan điểm của Aristote về bi kịch khi ông viết: “Bi kịch làm  trong sạch hóa những cảm xúc tương tự qua cách khêu gợi sự xót thương và khủng  khiếp   (nguyên văn: cảm xúc Catharcis)”. Cái ý nghĩa khủng khiếp do tác động của bi kịch, của cái xấu mãi sau này qua tài nghệ của Shakespeare trong vởMacbeth người  ta mới nhận thức nó một cách rõ ràng. (Macbeth là một tướng giỏi của vua Duncan  xứ Scottland. Vốn tính vô tư, không sẵn lòng tham tàn, trên đường chiến thắng trở về, Macbeth được ba mụ phù thủy báo cho hắn biết sẽ lên làm vua, mụ vợ tham lam lại  xúi vào, một số cận thần xiểm ninh, nên  ý đinh giết vua đột nhiên bật ra, sau đó  chiếm ngôi và cuối cùng bi trưng phạt thảm hại ). Tóm lại,  tình huống bi kịch rất đa dạng, phong phú và phức tạp y như sự phong phú  và phức tạp của cuộc đời. Tình huống của bi kịch có thể là những xung đột của cái  mới, cái tiến bộ, cái cách mạng; nhưng cũng có thể là xung đột của chính cái cũ, cái  xấu xa cái phản động. Bi kịch cũng còn do sự lầm lẫn, do sự “ngu dốt” hoặc do những khát vong chính đáng của đời người bị phủ định một cách oan uổng. Vấn đề là, moi  tình huống của bi kịch phải thuộc những vấn đề có ý nghĩa xã hội rộng lớn, có ảnh  hưởng đến lịch sử, lẽ sống, đạo đức và thân phận con người. Nghĩa là những vấn đề  có ý nghĩa triết luận sâu xa của xã hội và con người, trong đó, xung đột giữa cách  mạng và phản động phải là xung đột trung tâm và chủ yếu của bi kịch. Truyện Kiều, một vương quốc của nỗi buồn, do thi hào Nguyễn Du dựng nên để làm  nơi chiêm nghiệm suy tư của mỗi người Việt Nam. Chỉ có kim cương mới cắt được  kim cương, chỉ có nỗi buồn mới cứu được nỗi buồn… 3.3 – NGHỆ THUẬT BI KỊCH Đi tìm nguồn gốc của bi kịch                         Nhà thơ Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều viết về định mệnh của con  người một cách duy tâm (Cung oán ngâm khúc):                           Thảo nào khi mới chôn rau (nhau)                      Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra                Thật ra, bi kịch không gắn với tiếng khóc chào đời của con người. Phải  trải  qua một thời gian phát triển khá dài, mãi đến thời kì giáp ranh giữa xã hội công xã  nguyên thủy và chiếm hữu nô lệ, bi kịch mới hình thành và phát triển.               Mác cho rằng: khi loài người chuyển dần sang chế độ chiếm hữu nô lệ,  nghĩa là từ cái giai đoạn mông muội sang thời đại văn minh, con người đã sáng tạo ra lịch sử anh hùng, đồng thời đẻ ra một bi kịch lớn nhất của xã hội loài người là:  bóc  lột và áp bức lẫn nhau.             Nhưng không phải con người ngay một lúc đã có thể nhận thức ra tình trạng  bi kịch của mình. Đầu tiên là sự cảm nhận mà sự cảm nhận nguyên thủy thường pha  chất tôn giáo rõ rệt. Cho nên thuở sơ khai, bi kịch nảy sinh từ hình thức tế lễ thần  rượu nho (Dionysos) – đó là vị thần tượng trưng cho sự tái sinh, sự trù phú, cho nghề ép rượu, cho những cơn say, và vị chúa tể của những vong hồn.             Thần Rượu nho (Dionysos) là con riêng của Dớt (Zeus) – khi ngoại tình với  công chúa Semele thành Thebes. Chức năng của thần bao gồm hai quá trình đối lập  nhau, đó là quá trình sinh và tử được chung đúc lại.             Bi kịch đầu tiên xảy ra là bi kịch của Icare mục tử ( bác Icare chăn cừu). Icare  gặp Dionysos, bác đã tiếp đãi vị thần với tất cả lòng chân thành. Để đáp lại, thần tặng Icaremột cành nho trĩu quả, dạy cho Icare cách nấu rượu. Vốn lòng mến khách, vả lại “rượu ngon mà thiếu bạn hiền mất vui”, Icare đem mẻ rượu đầu tiên ấy đãi các bạn  bè của mình. Các mục tử này chưa bao giờ biết đến điều say, nên khi hương mật  ngào ngật của rượu nho thấm vào, ho đều lăn quay ra bãi cỏ ngủ mê mệt. Tỉnh dậy,  không thấy đàn cừu đâu, ho tưởng rằng Icare đã đầu độc ho để chiếm đoạt gia súc,  ho nổi giận giết chết Icarơ và vùi xác ở trong núi. Nhờ con chó dẫn đường, cô con gái yêu của Icare tìm được xác cha mình. Đau buồn quá đỗi, nàng treo cổ chết trên cành  cây rủ bóng xuống ngôi mộ. Con chó trung thành buồn quá cũng chết theo. Cảm kích  trước tai hoa đau thương và tình cha con, tình chủ tớ, Dionysos đã hồi sinh tất cả và  dẫn ho lên thiên đàng Olympe. Theo truyền thuyết, từ đó trên bầu trời bỗng hiện ra  chòm sao mục tử, cô gái và con chó lớn.             Nhưng rồi bản thân Dyonysos cũng phải chết vì sự đố kị của những thế lực  hắc ám, đó là con quỷ khổng lồ Titan đã xé xác thần ra làm nhiều mảnh, nhưng thần  vẫn hồi sinh vào mỗi mùa xuân bằng chất nhựa của những mầm nho.             Qua thiên thần thoại trên, con người không chỉ phản ánh nghề trồng nho và  nghề ép rượu nho mà qua đó, con người muốn trình bày sự gặp gỡ và chung đúc  của hai luồng cảm xúc đối lập: Vui và buồn, sướng và khổ, hồi sinh và tàn tạ nhập  vào nhau, thống nhất trong một chỉnh thể, có thể xây dựng thành nghệ thuật để nói  lên những triết lý của lẽ đời.             3.3.1. Bi kịch Hy Lạp cổ đại             Sự hình thành nhà nước dân chủ­ chủ nô trong hình thái chiếm hữu nô lệ đã  tạo ra những cảm xúc thẩm my độc đáo. Một mặt là cuộc đấu tranh giữa những thế  lực dân chủ và tự do với những thế lực phú hào, mặt khác là cuộc đòi quyền sống  của những người nô lệ vẫn thường xuyên diễn ra gay gắt. Tuy nhiên, vai trò của  những cá nhân tự do trong đời sống xã hội (những thợ thủ công, thương nhân và làm ruộng, chăn nuôi v.v..) đã được khẳng định hơn so với chế độ thị tộc. Do đó cá nhân  con người trở thành có vai trò độc lập nhất định.             Tất cả những nguyên nhân xã hội này dẫn tới một khát vong là, con người  muốn nhận thức, muốn lí giải những xung đột gay gắt của cuộc đời bằng thẩm my.  Cũng từ đó đánh dấu sự ra đời của nền bi kịch chính thống, nghĩa là có sự chuyển từ hình thức tế lễ nguyên thủy sang một loại hình nghệ thuật có khả năng tái hiện cuộc  sống một cách rộng rãi, khái quát và sâu sắc.             Đến đây, bi kịch không còn chỉ bó hẹp trong sự miêu tả cuộc đời và những  bước thăng trầm của thần Dionysos nữa. Bi kịch đã mở rộng chủ đề và đề tài của  mình và mang ý nghĩa xã hội phổ biến hơn. Bi kịch đã chú trong đến các đề tài lịch  sử, chú trong phản ánh những lỗi lầm của cuộc đời, xây dựng các tính chất anh hùng  và các tính cách đau thương khác. Nhưng các truyện thần thoại vẫn còn đóng vai trò  quan trong trong bi kịch Hy Lạp cổ đại.             Bên cạnh anh hùng ca Iliade và Odyssee của Homer, Hy Lạp cổ đại đã để lại  cho kho tàng văn hóa nhân loại một nền bi kịch quý giá với ba nhà viết kịch tiêu biểu  là Eshille, Sophocle và Euripide, cùng các vở nổi tiếng là Promethe bi xiềng, Eudip  làm vua, Angtigon , Medee.              Có thể nêu  mấy đặc điểm quan trọng của nền bi kịch này là:             Các lực lượng đối lập với con người thường có uy quyền rất lớn, thường  được khoác áo thần linh (Zeus trong Promete bi xiềng), nhưng cũng có khi được biểu hiện như một thứ định mệnh (trong Eudip  làm vua) hoặc một thứ khát vong cuồng nộ (trong vở Medee  của Euripide).             Các anh hùng của bi kịch thường bị thất bại thảm thương, bị đoa đầy đau khổ, hoặc bị hi sinh trong đẫm máu.             Bi kịch Hy Lạp cổ đại đã chú ý khai thác những yếu tố thẩm my như: Tính bất  tử của con người chân chính. Bi kịch cũng chú ý cảm hứng về sự tái sinh của vẻ đẹp  con người dưới một hình thái mới.             Người anh hùng trong bi kịch này bị hi sinh vì lợi ích của con người nên vẫn  được người đời mến phục và xót thương, đời đời dành cho ho những vòng nguyệt  quế đẹp nhất. Chính vì vậy, có thể nói nghệ thuật bi kịch Hy Lạp cổ đại đã biết buộc  cái chết phục vụ cuộc sống.           3.3.2. Bi kịch thời Trung cổ phương Tây và Phương Đông      Bi kịch Trung cổ phương Tây mang màu sắc tôn giáo rõ nét. Quan niệm về bi kịch  Trung cổ phương Tây gắn với truyền thuyết về sự phạm tội của ông bà Adam và Eva; gắn với truyền thuyết giáng thế và chịu khổ hình trên thánh giá của chúa Jesus. Các  hình ảnh được biểu hiện đầy rẫy trong những tác phẩm nghệ thuật và những tranh  tượng trong những nhà thờ Cơ đốc giáo.             Xuất phát từ những quan niệm tôn giáo ấy, bi kịch Trung cổ gắn với ý niệm  goi là tuẫn giáo, khổ hình (martyre), nghĩa là sự tự dày vò, tự nguyện sống khổ cực,  nhẫn nhục để chuộc lại tội tổ tông đã gây ra cho con cháu. Người trung cổ quan  niệm  “Cuộc đời là ngon nến leo lét trước cơn gió mạnh”, là “con thuyền mong manh  trước cơn sóng dữ”, “Đời là bể khổ”. Chỉ có sống chịu đựng và cầu xin Chúa ban  phước mới mong được lên thiên đàng. Chính vì thế, hình tượng con người trong  nghệ thuật Trung cổ hiện ra với dáng lom khom, mặt choắt, mũi khoằm, ở hai tư thế:  nhìn xuống hoặc ngước lên. Nhìn xuống để sám hối tội lỗi; ngước lên là để cầu xin  Chúa rủ lòng thương.       Như vậy, bi kịch Trung cổ phương Tây không my hóa vẻ đẹp con người, mà chỉ  my hóa thảm cảnh của con người. Nó ca ngợi sự quằn quại đau thương của đời  người bằng thứ triết lí khắc kỉ giả dối. Nó quan niệm bi kịch theo tư tưởng  tôn giáo. Bi kịch phương Đông thể hiện rõ nhất ở Trung Quốc: Suốt hời kỳ phong kiến dài trên  hai ngàn năm, tấn bi kịch rõ nét nhất là bi kịch Nho giáo. Đó là những cuộc xung đột  giữa Nho giáo với các hệ ý thức khác như Đạo giáo, Phật giáo và tự do tư sản. Nhiều tác phẩm văn hoc nêu bật được những xung đột đó như cuộc đời và thi ca Lí Bạch,  và đỉnh cao nhất là tiểu thuyết Hồng lâu mộng, văn xuôi Lỗ Tấn.v.v…                 3.3.3 – Bi kịch thời Phục hưng         Bi kịch Phục hưng gắn với tên tuổi của Shakespeare và các tác phẩm nổi  tiếng: Hamlet, Othello, Romeo và Juliet, Macbeth, Vua Lia, v.v..             So với Trung cổ, nghệ thuật bi kịch thời Phục Hưng là một bước tiến quan  trong, vì nó đặt ra những vấn đề nhân sinh trực tiếp. Khi giai cấp tư sản ra đời, nó  làm cho cá nhân con người ý thức sâu sắc về mình; cá nhân lao đầu về phía trước,  tìm niềm vui và ham muốn trần tục. Mâu thuẫn trong bi kịch thời Phục hưng là mâu  thuẫn trong bước quá độ chuyển từ phong kiến sang tư bản. Bước quá độ đó không  mang theo sự tiến bộ tuyệt đối. Nó làm cho nhiều mặt của xã hội được phát triển,  nhưng cũng hủy hoại nhiều giá trị đạo đức và giá trị tinh thần của thế giới cũ.             Bi kịch Phục Hưng có tính lí tưởng rõ rệt. Nó xây dựng được những mâu  thuẫn điển hình giữa một bên là những tính cách khổng lồ với một bên là hoàn cảnh  khắc nghiệt, sẵn sàng đè bẹp tính cách khổng lồ đó.             Bi kịch Phục hưng còn phát hiện và miêu tả những cơn lốc dục vong, ham  muốn quá độ và quá trình trở thành nạn nhân của chính dục vong đó.             Bi kịch Phục hưng đã phản ánh được những trở ngại khách quan như một lực lượng tàn ác không sao khắc phục nổi (bức tượng Người không lồ bi trói của  Michellangelo) hoặc đi sâu vào mâu thuẫn nội tâm (kịch Othello của Shakespeare ).             Bi kịch Phục hưng  thiên về ý nghĩa triết luận của cuộc đời, phát hiện ra tính  phổ biến của các mâu thuẫn (kịch Hamlet của Shakespeare).             Tóm lại, bi kịch Phục Hưng đã phản ánh được những mâu thuẫn sâu sắc giữa lí tưởng nhân văn, tự do, giải phóng với một thực tại là: con người lại đang rơi vào  những xiềng xích mới của “lối trả tiền mặt lạnh lùng” phi nhân tính.              3.3.4 – Nghệ thuật bi kịch cổ điển thế kỉ 17             Mâu thuẫn cơ bản của thế kỉ 17 Pháp là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản đang  lên và giai cấp phong kiến lỗi thời vẫn còn sức sống dai dẳng nên ho buộc phải hòa  hoãn, tạm thời bắt tay nhau.       Nhân vật bi kịch là người bị rơi vào hoàn cảnh trớ trêu. Một mặt, anh ta muốn  đi  theo lí tưởng nhưng mắc kẹt giữa nhà vua và nhà tư sản, không biết nên dâng hiến  tron đời cho ai. Đó là thứ “bi kịch ngập ngừng”. Đáng lẽ phải miêu tả mâu thuẫn ngấm ngầm giữa hai đối thủ lớn, nhà văn lại đi miêu tả mâu thuẫn giữa nghĩa vụ và dục  vong cá nhân (vở Le Cid của Corneill) .             Do vậy, bi kịch cổ điển Pháp còn nhiều nhược điểm về giá trị nhận thức xã  hội, nhưng cũng có đóng góp quan trong về nghệ thuật xây dựng tính cách, tu từ lời  thoại và kết cấu vở kịch. Kịch của Corneill được coi là “trường hoc của những tâm  hồn cao thượng”, còn Racine là tài năng khám phá những uẩn khúc trong lòng giai  cấp quí tộc phong kiến đang tàn, phân tích sự giằng xé bi đát của dục vong con  người, sự bất lực của ho trước “định mệnh”, gây cho khán giả cảm xúc “vừa thương  vừa sợ”. 3.3.5        Nghệ thuật bi kịch của thế kỉ Ánh sáng (thế kỉ 18)               Hướng vào những vấn đề cơ bản của đời sống, my hoc hiện thực thời Khai  sáng đã tạo những tiền đề cho bi kịch, đạt nhiều thành tựu mới so với bi kịch Cổ điển.             Nếu ở bi kịch Cổ điển, mỗi biến cố gây ra bất hạnh cho con người thường  được cho là xuất phát từ những cái khung định sẵn của lí tưởng hòa hoãn giai cấp,  thì ở bi kịch thời Khai sáng,  mỗi biến cố gây ra tổn thương cho con người lại được  đánh giá xuất phát từ những lí tưởng của chính quá trình tiến bộ khách quan của hiện thực.             Nếu ở bi kịch Cổ điển, tính cách không có quan hệ biện chứng với hoàn cảnh  thì  ở bi kịch Khai sáng có sự tác động tích cực lẫn nhau giữa tính cách và hoàn cảnh , trong đó vai trò chủ đạo thuộc về tính cách. Nếu ở bi kịch Cổ điển có tính mực  thước lạnh lùng của tính cách, thì ở bi kịch Khai sáng lại tràn ngập sự nồng nhiệt lạ  lùng của tính cách các nhân vật, sự nồng nhiệt này thấm vào tất cả các mặt của tính  cách: đó là sự nồng nhiệt của khát khao, của những đam mê, căm giận, kiêu hãnh,  đau đớn, hy vong và tuyệt vong, của tình yêu và tuổi trẻ.              Vở bi kịch  Âm mưu và ái tình của Schiller là một vở như thế. Ở tác phẩm  này, cuồn cuộn những tình cảm bão táp, những tư tưởng vưà hiện thực vừa phóng  khoáng của thế kỉ, tràn ngập trong từng chi tiết và lập thành một đường dây xuyên  suốt tác phẩm. Nó tạo thành thứ ánh sáng trong trẻo chiếu roi trên những nẻo đường  mới còn rất gập ghềnh. Đó là thứ ánh sáng vừa đập nát những xiềng xích, những  ngục tù trói buộc, giam hãm con người thời phong kiến và soi sáng những bước đi  mới cho con người. Ở đây, các nhân vật đều được bộc lộ đến tận cùng của tính cách  và tâm trạng. Những tình huống căng thẳng, quyết liệt, những đối thoại chát chúa, ào  ạt, rực lửa quyện với những lời tâm tình ngot ngào, cay đắng, đắm đuối mà vẫn trí  tuệ đã nâng ý nghĩa của vở Âm mưu và ái tình lên ngang tầm thời đại. Ở đây, cái  chết của Louise và Fecdinant làm đau nhói mãi tâm hồn của những con người có  lương tri. Hình tượng về cái chết trong vở bi kịch vì thế đã vượt qua tính hạn hẹp của  thời gian để cùng hành động, lên tiếng đòi tự do chân chính cho con người.             3.3.6 ­  Về nghệ thuật bi kịch hiện đại                   Bi kịch xã hội tư bản, xét về tổng thể, có thể nói là những bi kịch dựa  trên triết lí ngậm ngùi. Bi kịch hiện đại phương Tây thì dựa trên triết lí bi đát.             Triết lí bi đát của nghệ thuật phương Tây hiện đại dựa trên quan niệm về sự  thỏa hiệp đau thương không tránh khỏi của con người với thực tại nghiệt ngã và bạo  tàn. Chính điều này không cho phép nghệ thuật của nó tồn tại nhân vật anh hùng. Vì  thế, nghệ thuật ấy chỉ có thể dựng lên những con người bị tha hóa một cách tồi tệ. Có thể rút ra mấy kiểu nhân vật tha hóa của bi kịch hiện đại:     Bi kịch con người vỡ mộng             Ho là những người lúc đầu có chút ít lí tưởng sống, muốn xông pha với đời,  nhưng rồi dần dần ho mất hết niềm tin và bị vùi dập bởi cái lí tưởng cá nhân mỏng  manh kia không chống choi nổi hoàn cảnh khốc liệt. Cái mâu thuẫn giữa cá nhân và  xã hội là không giải quyết nổi.      Bi kịch con người nhỏ bé            Đó là bi kịch thê thảm, chua chát. Trong bi kịch này, con người sống giữa tha  nhân nhưng anh ta tìm đâu ra một tấm lòng ưu ái ? Gregor Samxa trong tiểu  thuyết Biến dạng của nhà văn F.Kapka là một con người như thế. Anh ta muốn tron  đời khiêm tốn làm một nhân viên chào hàng của một hãng buôn lớn. Nhưng rồi bỗng  đâu tai hoa giáng xuống. Một buổi sáng trở dậy anh ta biến thành con sâu. Ngày  trước anh ta còn là thân nhân vì kiếm được tiền nuôi cha mẹ em gái. Ngày hôm sau,  anh ta thành “của nợ”, vì làm cho gia đình khổ lây. Anh ta chết, chỉ cần một nhát chổi  hất anh ta vào thùng rác và cả gia đình cho là đã “thoát nợ”. Anh chàng Giôzép K.  cũng vậy, trong tiểu thuyết  Vụ án, nhà văn Kapka cũng chẳng cần giải thích vì sao 
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan