MẤY CƠ SỞ TIẾP CẬN LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
VĂN HÓA
Trần Ngọc Khánh
Trong vài thế kỷ trở lại đây, văn hóa ngày càng trở nên rất nổi bật, bao trùm
tất cả mọi phương diện hoạt động của đời sống nhân loại. Tuy nhiên, trong lĩnh
vực học thuật, nhiều tư tưởng, trường phái, học thuyết về văn hóa thường bị gán
ghép, lẩn khuất hoặc phân nhánh trong nhiều ngành học khác nhau. Không hiếm
khi việc nghiên cứu văn hóa có cảm giác “trống vắng” về cơ sở lý luận, phương
pháp luận, kể cả trong các phạm vi ứng dụng thực tiễn.
Trong bài này, chúng tôi tập hợp bước đầu mấy cơ sở tiếp cận lý thuyết
nghiên cứu văn hóa, thông qua 5 đề mục: khái niệm văn hóa, các quan niệm văn
hóa khác nhau trên thế giới, các học thuyết và trường phái văn hóa, các tiếp cận
văn hóa trong khoa học xã hội và nhân văn, và các ứng dụng văn hóa – xã hội.
Các nội dung chủ yếu được tổng lược và biên soạn từ hai công trình: Khái
niệm văn hóa trong khoa học xã hội của Denys CUCHE, xuất bản lần đầu năm
1996, tái bản lần ba năm 2004; cùng với các bài giảng của cố giáo sư Joël
BONNEMAISON, sau khi mất được các học trò Maud Lasseur và Christel
Thibault biên tập lại thành công trình Địa văn hóa [2000].
Khái niệm văn hóa
Con người, về cơ bản, là một loài vật có văn hóa. Để có văn hóa, con người đã trải
qua quá trình tiến hóa làm người. Quá trình này không ngắn như một đời người, vài ba
thế hệ hoặc dăm bảy nghìn năm mà bắt đầu cách ngày nay ít nhất 15 triệu năm. Trong
quãng thời gian này, con người vừa thích ứng với môi trường tự nhiên, tạo nên các
biến đổi di truyền để sinh tồn, vừa thích ứng với môi trường văn hóa bằng nhiều
phương thức, trải qua nhiều thời kỳ biến đổi khác nhau để ngày càng phát triển.
Trong quá trình tiến hóa đầu tiên từ các loài vượn người thành người Homo
sapiens sapiens, các bản năng loài vật dần bị thoái hóa, thay thế bằng văn hóa. So với
quá trình thích ứng tự nhiên do di truyền, thích ứng văn hóa theo các chức năng của
loài người diễn ra nhanh hơn. Văn hóa giúp con người thích ứng với môi trường tự
nhiên, thích ứng theo các nhu cầu của chính mình, đồng thời còn làm cho con người
có khả năng biến đổi tự nhiên.
Khái niệm văn hóa nhằm giải thích trước hết các ứng xử tự nhiên của con người.
Đối với con người, không có “tự nhiên” thuần túy. Tự nhiên được biểu hiện bằng văn
hóa. Khi nói: “Bạn cứ tự nhiên”, thì trên thực tế có nghĩa là “Bạn cứ ứng xử theo cách
của bạn”. Các ứng xử lúc ấy không theo bản năng sinh học mà là ứng xử văn hóa.
Văn hóa làm biến đổi các xã hội loài người. Các nhu cầu theo chức năng sinh tồn
của cơ thể như ăn, ngủ, ngồi, đi lại, tiêu tiểu, tính dục, v.v. ở mỗi xã hội khác nhau là
do văn hóa[1]. Ngay như khác biệt sinh học về giới tính cũng không phải là tự nhiên
thuần túy. Đó là sự phân công về vai trò và nhiệm vụ theo giới tính của xã hội loài
người.
Trong khoa học xã hội, khái niệm văn hóa được xem xét theo quá trình tiến hóa
lịch sử, trực tiếp gắn với quá trình hình thành ý nghĩa văn hóa trong xã hội hiện đại.
Do đó, vấn đề không phải là phân tích văn hóa về mặt ngữ nghĩa, định nghĩa văn hóa
là gì, mà tìm kiếm các mối liên hệ giữa lịch sử “văn hóa” và lịch sử tư tưởng[2].
Các định nghĩa văn hóa khác nhau về ngữ nghĩa thường ẩn chứa bất đồng về
phương diện xã hội và dân tộc. Kể từ khi xuất hiện vào thế kỷ XVIII, khái niệm văn
hóa theo nghĩa rộng được nhiều người chấp nhận. Đó là sự đa dạng về lối sống và
cách thức suy nghĩ của con người.
VĂN HÓA LÀ GÌ?
“Văn hóa” là một từ cổ trong tiếng Pháp, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIII để
chỉ một thửa đất được trồng trọt [Bénéton, 1975]. Từ nguyên cultura theo tiếng Latinh
có nghĩa là chăm sóc đồng ruộng hoặc súc vật. Từ văn hóa được khai sinh trong tiếng
Pháp, rồi truyền bá sang tiếng Anh, tiếng Đức dưới hình thức vay mượn ngôn ngữ.
Đầu thế kỷ XVI, văn hóa không chỉ có ý nghĩa trạng thái, thuộc vật chất (thứ được
trồng), mà trở thành hoạt động, thuộc tinh thần (biết trồng trọt đất đai). Và cho đến
giữa thế kỷ XVI, văn hóa mới có nghĩa bóng, chỉ ra khả năng làm cho nó phát triển,
nhưng đến cuối thế kỷ XVII vẫn chưa được sử dụng phổ biến.
Đầu thế kỷ XVIII, văn hóa được đưa vào Từ điển Hàn lâm Pháp [1718], vừa có
nghĩa hoán dụ (từ văn hóa trạng thái đến văn hóa hoạt động), vừa có nghĩa ẩn dụ (từ
trồng trọt đất đai đến chăm sóc tinh thần). Tuy nhiên, văn hóa lúc bấy giờ còn đi kèm
với bổ ngữ: “văn hóa” nghệ thuật, văn chương, khoa học... để xác định loại tri thức
được bồi đắp. Trong Từ điển bách khoa, văn hóa chủ yếu vẫn được coi là “trồng trọt
đất đai”; còn nghĩa bóng nằm trong các chủ đề khác như: giáo dục, tinh thần, văn
chương, triết học, khoa học.
Dần dần, “văn hóa” thoát khỏi bổ ngữ, được sử dụng độc lập để chỉ sự “hình
thành”, sự “giáo dục” về tinh thần. Lúc ấy đã diễn ra hiện tượng ngược lại, văn hóa
chuyển biến từ hoạt động (giáo huấn) sang trạng thái (tinh thần được dạy dỗ vun đắp;
cá nhân ở tình trạng “có văn hóa”). Văn hóa phát triển thành các khái niệm. Các nhà
tư tưởng thế kỷ Ánh sáng quan niệm văn hóa là đặc trưng riêng có của loài người.
Theo Joël Bonnemaison [2000], văn hóa là toàn thể tri thức được tích lũy và lưu
truyền trong lịch sử nhân loại. Văn hóa tồn tại theo bốn dạng thức :
– Văn hóa là cái còn lại (résidu). Năm 1981, tạp chí Không gian địa lý tổ chức
cuộc hội thảo về địa văn hóa. Các nhà địa lý ở các trường đại học và viện nghiên cứu
(CNRS, ORSTOM) tiếp cận văn hóa với quan niệm: văn hóa là cái còn lại không giải
thích được khi ta đã giải thích hết. Cái còn lại ấy không đo đếm được, không sờ mó
được, dành cho con người tự do sáng tạo.
– Văn hóa là cái thành tựu. Từ văn hóa trong ngôn ngữ Ấn-Âu (kwel), ban đầu có
nghĩa là nuôi nấng, chăm sóc, thương mến[3]. Sau đó, người Hy Lạp sử dụng trong
nông nghiệp, với nghĩa là làm cho cây trồng chín muồi. Đó là thành quả hoạt động,
không phải do ngẫu nhiên hoặc “tự nhiên”, tức là không phải do bởi tự nó. Đối với
người Hy Lạp, văn hóa là cái thành tựu.
Do các cuộc đại xâm lăng của người Barbares (nghĩa là “man di”, theo cách gọi
của người phương Tây), từ văn hóa biến mất khỏi ngôn ngữ Ấn-Âu. Đến thế kỷ XII và
XIII, thời văn minh thượng Trung đại ở châu Âu, văn hóa xuất hiện trở lại trong tiếng
Pháp, với ý nghĩa thiên về tôn giáo là sự thờ cúng, tôn thờ (culte), để con người phát
triển theo đường hướng thánh thiện.
Cho đến thời Phục hưng, nhất là giai đoạn Ánh sáng thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới
có nghĩa rộng như hiện nay. Văn hóa bao gồm tinh thần, tri thức và sự tinh luyện. Văn
hóa đồng nghĩa với tiến bộ, với các giá trị phổ biến; văn hóa trái nghĩa với tự nhiên,
man di và dị đoan. Tóm lại, văn hóa biến đổi thành văn minh, là thành tựu của con
người về tinh thần, là sự sáng tạo không do ngẫu nhiên – giống như ý nghĩa ban đầu ở
Hy Lạp và hầu như không còn mang ý nghĩa tôn giáo.
Như vậy, từ văn hóa có phả hệ quan trọng về ý nghĩa, vì hàm chứa song nghĩa và
theo lộ trình đi lên, từ trật tự cấp thấp tự nhiên đến cấp cao tinh thần. Văn hóa dựa vào
tính chất nhị phân (hai mặt) – vật chất và tinh thần – của con người và hoạt động của
con người. Văn hóa vừa là hoạt động của con người để xây dựng chính nó, vừa thể
hiện hoạt động của con người đối với thế giới xung quanh ở bên ngoài, để xây dựng
môi trường sống nhân văn.
Sự phân biệt tương đối các ý nghĩa bẩm sinh/tri thức hoặc tính hai mặt tự
nhiên/văn hóa làm cho văn hóa mang tính nhân tạo, vì con người không thể có mặt
này mà thiếu mặt kia.
– Văn hóa là cái sở đắc và được lưu truyền. Đó là toàn thể di sản mà con người
tiếp nhận từ các thế hệ trước, gồm các biểu hiện, kiến thức, giá trị, tư tưởng và tính
biểu cảm. Văn hóa còn là phát minh của con người, trong khoảng thời gian và không
gian nhất định. Mỗi thế hệ, mỗi nhóm người lại phát minh và đổi mới văn hóa mà họ
tiếp nhận. Không có truyền thống đơn thuần, mà truyền thống được diễn đạt lại và làm
phong phú thêm. Văn hóa trở thành truyền thống sống động, pha trộn các đặc trưng
được lưu truyền và thụ đắc qua các biến động của thực tiễn. Truyền thống được tái tạo
này cấu thành nền tảng bản sắc cộng đồng, địa phương, bộ tộc, vùng miền, quốc gia
và các thực thể xã hội khác. Bản sắc không ngừng chuyển động, làm cho văn hóa trở
nên mạnh mẽ hoặc suy yếu. Văn hóa sống được thì cũng có thể chết được. Cho nên,
bản sắc cũng có thể biến chuyển, theo các chiều hướng khác nhau.
– Văn hóa là sự say mê quá khứ qua phong tục. Phong hóa vừa bén rễ với truyền
thống, vừa luôn chuyển động và biến đổi. Phong hóa không là một hệ thống bất động,
mà trái lại là di sản, cần đổi mới và hòa hợp. Nietzsche nói: “Một dân tộc không có ký
ức là dân tộc không có tương lai” [Bonnemaison, 2000].
ĐỊNH NGHĨA MÁC-XÍT VỀ VĂN HÓA
Văn hóa về mặt tư tưởng là kiến trúc thượng tầng, phụ thuộc vào cấu tạo vật chất
và kinh tế của xã hội. Văn hóa dùng để tái sản xuất, làm cho tinh thần quen với các giá
trị quy ước thuộc về văn hóa, để cấu trúc ấy tồn tại lâu dài. Tóm lại, văn hóa tạo nên
tinh thần, phụ thuộc vào ý thức hệ thống trị. Tuy nhiên, theo quan niệm Trung Quốc
trong “cách mạng văn hóa”, tác động lên cấu trúc thượng tầng có thể tác động lên cấu
tạo vật chất và kinh tế.
Văn hóa và văn minh thuộc về hai truyền thống lịch sử và địa lý khác nhau. Đối
với người Pháp và người Anh, văn hóa biểu hiện toàn thể các truyền thống tinh thần
(morales), còn các truyền thống tri thức (intellectuelles) tạo ra văn minh. Văn minh là
phương diện cao của nghệ thuật và văn chương. Trong thế kỷ Ánh sáng của Rousseau
và Diderot, văn minh là khái niệm gộp: văn minh thâu tóm văn hóa; văn minh là cái
thành tựu từ sự chín muồi lâu dài của văn hóa; văn minh thuộc về tư tưởng tiến bộ,
mới mẻ hơn, hiện đại hơn.
Văn minh có tính phổ quát và tiến bộ. Các nền văn minh có xu hướng cho mình
được quyền nắm giữ tính phổ quát và chân lý, coi đó là mô thức biểu hiện mà các nền
văn minh khác phải theo. Người Pháp coi họ là hình thái phổ quát của Chân (Vrai),
phổ cập lý trí; còn người Mỹ coi họ là hình thái phổ quát của Thiện (Bien)
[Bonnemaison, 2000].
Ngược lại, đối với người Đức, văn hóa (kultur) là biểu hiện mang tính địa phương,
không có tính phổ quát. Văn hóa thuộc về cái đặc thù, mang tính chủ quan của các dân
tộc, làm cho họ trở nên khác biệt. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc. Nước Ý và
nước Đức là các nước văn hóa hơn là văn minh. Nếu văn minh là tập hợp thì văn hóa
là khác biệt. Chính vì tôn trọng tính khác biệt nên mới có thể đạt đến tầm phổ quát.
Oswald SPENGLER (1880–1936), nhà triết học và sử học người Đức, quan niệm
văn hóa gồm tâm hồn, đời sống, tính sáng tạo; đối lập với văn minh gồm tri thức, lý
lẽ, óc phân tích. Văn minh là số phận không thể tránh khỏi của mọi nền văn hóa. Văn
hóa mang hình ảnh cái cây: thời kỳ đỉnh cao là thời kỳ đâm chồi nẩy lộc và còn non
trẻ, nhựa cây phát xuất và đổi mới từ bên trong; văn minh biểu hiện thời kỳ chín muồi
của cây: tiến bộ và kỹ thuật chiếm ưu thế hơn sáng tạo và tinh thần.
QUAN NIỆM VỀ VĂN MINH
Đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa gần giống như từ văn minh, cả về ngữ nghĩa và khái
niệm. “Văn hóa” và “văn minh” thường được dùng ở số ít. Đó là cái riêng có của Con
người (viết hoa), không phân biệt dân tộc, giai cấp. Tuy nhiên, khi đứng cạnh nhau,
“văn hóa” thiên về các tiến bộ cá thể; còn “văn minh” thuộc về các tiến bộ tập thể.
Từ văn minh mới xuất hiện ở thế kỷ XVIII, lúc đầu để chỉ sự thuần khiết của
phong tục, về sau mới có nghĩa là quá trình đưa nhân loại thoát khỏi tình trạng vô
minh về kiến thức và vô lý về trí tuệ. Văn minh lúc ấy được quan niệm là quá trình cải
tiến các thiết chế, pháp luật, giáo dục; là cuộc vận động chưa hoàn thành, có thể và
cần phải mở rộng ra khai hóa mọi dân tộc của nhân loại.
Kể từ ấy, con người được đặt ở vị trí trung tâm của tư tưởng. Con người là trung
tâm của vũ trụ. Diderot [1775] là người đầu tiên nghĩ đến việc hình thành một “ngành
khoa học nhân văn”; còn Alexandre de Chavannes [1787] là người đầu tiên đưa ra từ
“ethnologie”, hồi ấy có nghĩa là ngành học nghiên cứu “lịch sử văn minh tiến bộ của
các dân tộc”.
Nếu ý tưởng văn hóa từ thời Hy Lạp được truyền lại bằng tiếng Latinh (cultura),
thì văn minh (civilisation) có nguồn gốc từ tiếng Pháp, xuất hiện từ thế kỷ XVIII, với
ý nghĩa trái với dã man. Châu Âu thế kỷ XVIII cần một khái niệm để định nghĩa thế
giới đang chuyển động, để định vị một nền văn hóa được coi là tiến bộ và hiện đại
hơn, đối lập với dã man.
Văn minh xuất xứ từ civitas, thành thị, có gốc tiếng Latinh là civis, chỉ người đồng
hương, có nghĩa là “một tập thể có ý thức và trách nhiệm”, thuộc về một xã hội mang
tính dân sự. Từ nguyên tính dân sự (civilité) có nghĩa là nghệ thuật sống với nhau để
có văn minh (civilisé).
Từ văn minh cũng có hai nghĩa, tùy theo được sử dụng ở số ít hay số nhiều. Văn
minh ở số ít là nền văn minh phổ quát của cái tốt đẹp và tiến bộ, gắn với thành thị, với
sự phát triển kỹ thuật và tri thức, với sự xét đoán về giá trị, với sự ngự trị của lý lẽ.
Văn minh là văn hóa được phổ quát và biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Văn minh ở
số nhiều rất gần gũi với từ văn hóa, chính là các nền văn hóa lớn.
Theo định nghĩa từ điển, văn minh là “Toàn thể các tính chất tôn giáo, đạo đức,
văn hóa, xã hội và vật chất thuộc về đặc trưng của một xứ sở hoặc một xã hội”. Tuy
nhiên, ở Pháp văn hóa mang ý nghĩa hạn chế hơn văn minh: văn hóa giới hạn ở sự
nhận biết về tri thức, đào tạo về kiến thức. Édouard HERRIOT (1872–1957): “Văn
hóa là cái còn lại khi ta đã quên hết”. Văn hóa được coi là toàn thể các phương diện
tri thức của một nền văn minh, tương ứng với kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa
mác-xít.
Ý NGHĨA VĂN MINH TRONG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Văn minh là một tập hợp lớn về xã hội – chính trị – văn hóa và kinh tế; văn hóa là
các giá trị chung được chia sẻ bởi số đông, biểu hiện sự liên kết phần tinh túy nhất của
tập hợp, là ngọn nguồn của văn minh mà không mang tính toàn bộ (totalité).
Trong khoa học xã hội, đặc biệt là nhân học, sử học và địa lý, từ văn hóa được hiểu
theo nghĩa rộng hơn. Có các nền văn hóa và có các nền văn minh. Quan niệm này kết
hợp hai tầng: các giá trị tinh thần và các giá trị vật chất. Đối với nhà nhân học hoặc
địa văn hóa – tức là các “nhà văn hóa”, không có văn hóa hoặc văn minh cao cấp, mà
đa phần các nền văn hóa và văn minh làm cho nhân loại trở nên thịnh vượng.
Có khuynh hướng xem xét văn hóa và văn minh không do khác biệt về bản chất
mà khác nhau về phạm vi. Mỗi nền văn minh đều chứa đựng một số lượng không xác
định được các nền văn hóa và các hệ thống văn hóa. Văn minh có ý nghĩa và phạm vi
không gian rộng hơn so với văn hóa. Thời gian dài, không gian rộng là hai phạm vi
đặc trưng của văn minh; khác với văn hóa vốn thuộc về từng nhóm người, trong phạm
vi đời sống hàng ngày.
Văn minh thuộc về mức độ xã hội lớn hơn, thuộc phạm vi siêu văn hóa
(métaculturelle), dùng để mô tả một nền văn hóa khác; ngược lại văn hóa được hiểu ở
mức độ nhỏ hơn, của các nền văn hóa tộc người, quốc gia hoặc vùng miền
[Bonnemaison, 2000]. Tóm lại, văn hóa cần đối thoại, còn văn minh cần đấu tranh lẫn
nhau. Đó là “cú sốc của các nền văn minh”, vấn đề cơ bản của thế kỷ XX.
Các quan niệm văn hóa khác nhau trên thế giới
ĐỨC – ĐỐI LẬP VĂN HÓA VỚI VĂN MINH
Văn hóa (kultur) theo nghĩa bóng mới xuất hiện từ thế kỷ XVIII ở Đức. Giới
thượng lưu Đức, do chịu ảnh hưởng tư tưởng Ánh sáng từ nước Anh, đã vay mượn từ
văn hóa trong ngôn ngữ Pháp để diễn đạt.
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, giới trí thức thượng lưu Đức sử dụng các giá trị “tinh
thần” của văn hóa, bao gồm khoa học, nghệ thuật, triết học và tôn giáo, để đối lập lại
các giá trị “phong nhã” của giới quý tộc Đức, bị cô lập với các tầng lớp trung lưu
trong xã hội, vì bắt chước theo các kiểu cách được coi là “văn minh” của triều đình
Pháp. Theo đó, bất cứ cái gì có tính xác thực, góp phần làm giàu tri thức và tinh thần
đều là văn hóa; ngược lại, cái gì mang vẻ hào nhoáng, hời hợt, sang trọng bề ngoài thì
được coi là văn minh.
Văn hóa đối lập với văn minh, giống như sâu sắc phản nghĩa với nông cạn. Có thể
nói rằng, chính ý thức dân tộc Đức trước các thế lực phương Tây đã tạo nên sự đối lập
giữa văn hóa và văn minh, vì trong khi Anh và Pháp đã hình thành nhà nước sau cách
mạng Pháp thì Đức vẫn chưa thống nhất về mặt chính trị.
Johann Gottfried HERDER (1744–1803), nhà triết học người Đức, trong công
trình Một triết học khác của lịch sử [1774], là người đầu tiên sử dụng từ “văn hóa”
một cách có hệ thống. Herder chống lại thuyết văn hóa phổ quát và đồng nhất của triết
học Ánh sáng Pháp. Ông giải thích các nền văn hóa theo số nhiều, trên cơ sở phân tích
tính đa dạng của ngôn ngữ. Ông được coi là người mở đường cho quan niệm văn hóa
mang tính tương đối.
Kể từ thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc Đức, khái niệm kultur có
khuynh hướng vạch ra giới hạn, gia cố các khác biệt dân tộc và nhằm định nghĩa “tính
cách Đức”. Đó không chỉ là tính độc đáo, tính riêng biệt tuyệt đối, mà gồm cả tính ưu
việt của văn hóa Đức.
Văn hóa theo quan niệm ở Đức là toàn thể các thành quả về nghệ thuật, tri thức và
đạo đức cấu thành di sản của một dân tộc, làm nền tảng cho sự thống nhất. Đó là các
thành quả tinh thần, không lẫn lộn với các thành tựu kỹ thuật gắn với tiến bộ công
nghiệp, xuất phát từ thuyết duy lý vô hồn. Kể từ đó, văn minh được coi là tiến bộ vật
chất, gắn với phát triển kinh tế và kỹ thuật.
PHÁP – VĂN HÓA CỦA CÁC NHÀ KHAI SÁNG DÂN TỘC HỌC
Ở Pháp, quan niệm văn hóa theo chiều hướng rất khác biệt. Đó là toàn thể các tính
cách riêng của một cộng đồng, thường có ý nghĩa rộng và chung nhất. Văn hóa không
hề đối lập với văn minh, trong khi “văn minh” được sử dụng phổ biến thay thế cho
văn hóa[4].
Đến đầu thế kỷ XX, văn hóa vẫn theo quan niệm truyền thống của các nhà triết học
Ánh sáng về tính phổ quát, trừu tượng. Văn hóa mang ý nghĩa chung là văn hóa nhân
loại. “Trước khi có văn hóa Pháp, văn hóa Đức, văn hóa Ý, đã có văn hóa loài
người”[5]. Văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần, là tri thức dân tộc. Văn hóa không chỉ
phát triển tri thức cá nhân, mà trở nên phong phú hơn nhờ tri thức tập thể. Các đặc thù
văn hóa bị thu hẹp; quan niệm thống nhất thắng thế ý thức đa dạng.
Các nhà khai sáng dân tộc học ở Pháp coi văn hóa mang nội dung miêu tả thuần
túy. Họ quan niệm, vấn đề không phải văn hóa là gì, mà cần miêu tả nó đã xuất hiện
thế nào trong các xã hội loài người.
Đối với vấn đề thống nhất trong đa dạng, giữa tính đặc thù của loài người với sự
đa dạng của các dân tộc và của các phong tục, ngành dân tộc học Pháp chia thành hai
khuynh hướng: một, ưu tiên thống nhất và thu nhỏ đa dạng, bằng cách coi đa dạng là
“tạm thời”, theo một sơ đồ tiến hóa; hai, ngược lại, coi đa dạng là quan trọng, song về
cơ bản không mâu thuẫn với tính thống nhất của nhân loại.
Như vậy, từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, sự đối lập giữa tính đặc thù ở Đức và
tính phổ quát ở Pháp là hai quan niệm khác biệt điển hình về văn hóa. Đó cũng là cơ
sở của hai cách định nghĩa khái niệm văn hóa trong khoa học xã hội hiện nay.
MỸ – QUAN NIỆM CỦA CÁC NHÀ NHÂN HỌC VĂN HÓA
Ngành nhân học văn hóa Mỹ chia thành ba dòng chính: lịch sử văn hóa của Boas;
quan hệ giữa văn hóa (tập thể) và nhân cách (cá thể); quan niệm văn hóa là hệ thống
truyền thông giữa các cá thể. Các công trình nhân học văn hóa ở Mỹ bị nhiều chỉ trích,
song qua đó cho thấy khoa học văn hóa phát triển mạnh, góp phần bổ sung, hoàn
chỉnh các quan niệm văn hóa trước đó.
Các nhà nhân học văn hóa Mỹ không quan niệm văn hóa là ổn định, ở trạng thái
tĩnh, mà cho rằng văn hóa tiến hóa thông qua các biến đổi, tương tác khi thu nhận văn
hóa của các cá thể. Tranh luận xảy ra nhiều nhất về cách tiếp cận tương đối các văn
hóa, chú trọng tính số nhiều của các nền văn hóa hơn là tính đơn nhất của văn hóa.
Theo Boas, ban đầu thuyết tương đối là phản ứng về phương pháp luận chống lại
thuyết tiến hóa. Tuyệt đối thì không thể so sánh các nền văn hóa khác nhau, mà chỉ có
thể so sánh sau khi đã nghiên cứu riêng, thấu đáo từng nền văn hóa.
Thuyết bản chất hoặc thực thể luận của Kroeber [1917] quan niệm văn hóa là một
thực thể tự nó, thuộc lĩnh vực “cơ chế thượng tầng”, có các quy luật riêng, tồn tại độc
lập bên ngoài sự kiểm soát của các cá thể.
Các nhà nhân học Mỹ thuộc trường phái “văn hóa và nhân cách” quan niệm văn
hóa là trừu tượng. Chính các cá thể tạo nên văn hóa, chuyển giao và biến đổi văn hóa.
Người ta không thể quan sát văn hóa trên thực địa, vì đó chỉ là các ứng xử cá thể. Và
sau cùng, họ quan niệm chính tầm quan trọng của giáo dục đã làm nên sự khác biệt
văn hóa.
Các học thuyết và trường phái văn hóa
TYLOR VÀ HỌC THUYẾT PHỔ QUÁT VĂN HÓA
Ngài Edward Burnett TYLOR (1832–1917), nhà sáng lập nhân học xã hội Anh, là
người đầu tiên đưa ra định nghĩa theo quan niệm dân tộc học về văn hóa: Văn hóa
hoặc văn minh, hiểu theo nghĩa rộng nhất của dân tộc học, là cái toàn thể phức hợp
bao gồm nhận thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục và các năng
lực hoặc tập tục khác do con người thụ đắc với tư cách thành viên xã hội [Primitive
Culture, Văn hóa nguyên thủy, 1871, tr.1].
Định nghĩa Tylor miêu tả thuần túy và khách quan, không mang tính chuẩn tắc[6].
Theo Tylor, văn hóa biểu hiện toàn thể đời sống xã hội của con người; các đặc trưng
văn hóa thuộc về phạm vi tập thể; văn hóa được thụ đắc, không do di truyền sinh học,
trong khi nguồn gốc và tính chất của văn hóa phần lớn do vô thức.
Định nghĩa Tylor cũng không làm rõ khái niệm văn minh đối với xã hội nguyên
thủy, vì từ nguyên văn minh thuộc cấu trúc thành thị và trong khoa học lịch sử chủ
yếu chỉ các thành tựu vật chất, trong khi các xã hội nguyên thủy còn ít phát triển.
Thực ra, giữa xã hội nguyên thủy và văn minh không khác biệt về bản chất, mà khác
nhau do cấp độ phát triển về văn hóa.
Tylor định nghĩa văn hóa về khái niệm, song không phải là người đầu tiên sử dụng
từ này trong dân tộc học. Tylor chịu ảnh hưởng trực tiếp các nhà dân tộc học Đức, đặc
biệt là Gustave KLEMM [1843], người sử dụng từ văn hóa theo nghĩa khách quan để
tham chiếu văn hóa vật chất[7].
BOAS VÀ HỌC THUYẾT ĐẶC THÙ VĂN HÓA
Nếu Tylor là người đầu tiên đưa ra quan niệm khoa học về văn hóa, thì Franz
BOAS (1858–1942) là nhà nhân học đầu tiên tiến hành điều tra thực địa bằng quan sát
trực tiếp và lâu dài về văn hóa nguyên thủy. Sau chuyến đi khảo sát người Esquimaux
vùng Baffin năm 1883–1884, ông nhận thấy tổ chức xã hội do văn hóa quyết định hơn
là do môi trường tự nhiên.
Theo Boas, khác biệt cơ bản giữa các nhóm là do mô thức văn hóa, không phải do
chủng tộc; khái niệm chủng tộc không có liên hệ giữa các đặc trưng hình thể và đặc
trưng tinh thần; không có khác biệt “tự nhiên” (sinh học) giữa con người nguyên thủy
và văn minh. Đó là sự khác biệt về văn hóa được thụ đắc, không phải do bẩm sinh.
Boas là người đầu tiên từ bỏ quan niệm chủng tộc khi giải thích các ứng xử của con
người.
Khác với Tylor, mục tiêu nghiên cứu văn hóa của Boas là các nền văn hóa hơn là
Văn hóa. Ông quan niệm dân tộc học là ngành khoa học quan sát trực tiếp. Theo ông,
khi nghiên cứu văn hóa đặc thù, phải ghi chép mọi cái đến từng chi tiết và phải hiểu
biết thấu đáo nền văn hóa được nghiên cứu trước khi đưa ra kết luận chung. Boas cũng
là người sáng lập phương pháp quy nạp và bổ cứu thực địa. Chính nhờ ông mà nhân
học quan niệm thuyết văn hóa tương đối như là nguyên tắc thuộc về phương pháp
luận, bao gồm quan niệm tương đối về văn hóa.
DURKHEIM VÀ HỌC THUYẾT THỐNG NHẤT CÁC SỰ KIỆN VĂN HÓA
Cùng thời với Boas là Émile DURKHEIM (1858–1917), nhà xã hội học người
Pháp, người tham gia sáng lập ngành nhân học Pháp, thành lập tạp chí L’Année
sociologique (1897), với nhiều công trình chuyên khảo nổi tiếng về dân tộc học.
Durkheim không dùng khái niệm văn hóa, mà thường diễn dịch là “văn minh”.
Qua công trình soạn chung với Marcel Mauss “Note sur la notion de civilisation”
[Chú thích khái niệm văn minh, 1913], ông đưa ra quan niệm khách quan và không
chuẩn tắc về văn minh. Durkheim cho rằng các nền văn minh đặc thù góp phần vào
văn minh nhân loại, mà nói như Mauss [1901]: “Văn minh của một dân tộc không
phải cái gì khác hơn là toàn thể các hiện tượng xã hội. Không có dân tộc phi văn hóa,
không văn minh hoặc «tự nhiên»”.
Theo Durkheim, các hiện tượng xã hội đều mang tính biểu trưng, nên cần có chiều
kích văn hóa. Các hiện tượng xã hội trải rộng trên các khu vực vượt ra ngoài không
gian lãnh thổ quốc gia, hoặc phát triển qua các khoảng thời gian vượt ra ngoài lịch sử
một xã hội. Ông muốn chứng minh người nguyên thủy hoàn toàn có khả năng tư duy
lôgich. Ông không đồng tình với sơ đồ tiến hóa đơn tuyến, mà quan niệm đó là “một
thân cây tỏa ra nhiều nhánh” [1913]. Đối với thuyết văn hóa tương đối, Durkheim
quan niệm: chuẩn tắc của mỗi xã hội là tương đối và tương quan với trình độ phát
triển của nó.
Trong sự nghiệp của mình, Durkheim quan tâm đến việc xác định bản chất của liên
kết xã hội, hơn là đưa ra một học thuyết mang tính hệ thống về văn hóa. Ông xác định
xã hội chiếm ưu thế trên cá nhân. Kể từ công trình Le Suicide [Tự tử, 1897], Durkheim
triển khai lý thuyết “ý thức tập thể”, được coi là một dạng lý thuyết về văn hóa. Theo
ông, mọi xã hội đều có một ý thức chung, được hình thành từ các biểu hiện chung, các
lý tưởng, giá trị và tình cảm chung đối với mọi cá nhân trong xã hội ấy. Chính ý thức
tập thể tạo nên sự thống nhất và cố kết của một xã hội. Khái niệm “ý thức tập thể” của
Durkheim có khi được diễn đạt là “nhân cách tập thể”, rất gần với khái niệm mô thức
văn hóa và “nhân cách cơ bản” của các nhà nhân học văn hóa Mỹ, đặc biệt là lý thuyết
văn hóa về “cơ chế thượng tầng” của Alfred Kroeber [1917].
LÉVY-BRUHL VÀ HỌC THUYẾT TIẾP CẬN KHÁC BIỆT
Lucien LÉVY-BRUHL (1857-1939) với công trình “Les fonctions mentales dans
les sociétés inférieures” [Chức năng tinh thần trong các xã hội hạ đẳng, 1910], nêu
lên sự khác biệt văn hóa thể hiện hai quan niệm văn hóa khác nhau trong dân tộc học
Pháp thời kỳ đầu. Khác với Durkheim, Lévy-Bruhl sử dụng khái niệm “tinh thần” thay
cho “văn hóa”, nhằm bác bỏ học thuyết tiến hóa đơn tuyến và luận giải về sự tiến bộ
tinh thần.
Lévy-Bruhl cũng không chia sẻ các luận điểm Tylor về thuyết vật linh của người
nguyên thủy. Trong công trình “La mentalité primitive” [Tinh thần nguyên thủy,
1922], ông chống lại tư tưởng coi hoạt động tinh thần của “người nguyên thủy” ở
dạng sơ khai (tiền lôgich), trẻ thơ hoặc bệnh lý so với bối cảnh thời đại. Trái lại, theo
Lévy-Bruhl, người nguyên thủy thực hành tinh thần trong điều kiện bình thường, kể
cả phức tạp và phát triển theo cách của họ. Ông khẳng định con người có cùng đời
sống tâm lý cơ bản hơn là khác biệt, song ông phản ứng quan niệm chỉ theo một
phương thức chức năng duy nhất. Ông cũng không đồng tình với Durkheim muốn
chứng minh con người ở mọi xã hội đều có tinh thần “lôgich”, buộc phải tuân theo các
quy luật của lý trí.
Các quan điểm của Lévy-Bruhl hồi đầu thế kỷ XX mâu thuẫn với thuyết phổ quát
(trừu tượng) của triết học Ánh sáng và các nguyên tắc đạo đức theo khuôn mẫu của
phần lớn các học giả Pháp, do đó, đã tạo nên nhiều cuộc tranh luận khoa học sôi nổi
về tính khác biệt (altérité) và bản sắc văn hóa.
KROEBER VÀ HỌC THUYẾT TRUYỀN BÁ VĂN HÓA
Các học trò của Boas như Alfred KROEBER (1876–1960) và Clark WISSLER
(1870–1947) tiếp tục nghiên cứu phạm trù lịch sử của các hiện tượng văn hóa. Họ vay
mượn một loạt khái niệm về “vùng văn hóa” và “đặc trưng văn hóa” của các nhà nhân
học “truyền bá” Đức hồi đầu thế kỷ XX, để nghiên cứu sự phân bố trong không gian
của một hoặc nhiều đặc trưng văn hóa của các nền văn hóa ở gần nhau và phân tích
quá trình lan truyền của chúng.
“Truyền bá văn hóa” là kết quả quan hệ giữa các nền văn hóa khác nhau và sự di
chuyển các đặc trưng văn hóa. Khi có hiện tượng hội tụ các đặc trưng giống nhau
trong một phạm vi không gian, người ta gọi đó là vùng văn hóa. Trong đó, ở khu vực
trung tâm là các đặc trưng văn hóa cơ bản; còn ở khu vực ngoại vi, các đặc trưng này
đan xen lẫn nhau với các đặc trưng đến từ các khu vực văn hóa lân cận.
MALINOWSKI VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CHỨC NĂNG VĂN HÓA
Bronislaw MALINOWSKI (1884–1942), nhà nhân học Anh gốc Ba Lan, mang
quốc tịch Áo, là người đưa ra thuyết chức năng tập trung ở hiện tại, để chống lại
thuyết tiến hóa hướng đến tương lai và thuyết truyền bá hướng về quá khứ. Theo ông,
chỉ có quãng thời gian ở giữa là nơi mà nhà nhân học có thể nghiên cứu các xã hội loài
người một cách khách quan; cần quan sát trực tiếp các nền văn hóa trong tình trạng
hiện tại, không cần truy ngược về nguồn gốc vì hão huyền và không có chứng cứ khoa
học; mỗi nền văn hóa hình thành một hệ thống cân bằng theo chức năng, trong đó các
yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, nên cần loại trừ việc nghiên cứu riêng rẽ; văn hóa biến đổi
chủ yếu đến từ bên ngoài, do sự giao tiếp văn hóa.
Để giải thích các nền văn hóa có chức năng khác nhau, trong công trình Une
théorie scientifique de la culture [Lý thuyết khoa học về văn hóa, 1944], Malinowski
xây dựng học thuyết về các “nhu cầu” gây nhiều tranh cãi. Các yếu tố cấu thành một
nền văn hóa có chức năng thỏa mãn các nhu cầu chủ yếu của con người. Đối tượng
của ngành nhân học không phải là nghiên cứu các đặc trưng văn hóa vô nghĩa, cũng
không phải các sự kiện văn hóa riêng rẽ, mà là các thiết chế (kinh tế, chính trị, pháp
luật, giáo dục...) và quan hệ giữa các thiết chế trong tương quan của một hệ thống văn
hóa.
Hạn chế của học thuyết chức năng là ít có khả năng giải quyết các mâu thuẫn nội
tại, các rối loạn chức năng và các hiện tượng bệnh lý của văn hóa. Tuy vậy, công lao
của Malinowski là chứng minh không thể nghiên cứu văn hóa từ bên ngoài và quá lâu
về thời gian. Ông không bằng lòng với phương pháp quan sát trực tiếp tại chỗ, mà đã
hệ thống hóa việc sử dụng phương pháp dân tộc học miêu tả, thường gọi là phương
pháp “quan sát tham dự”.
TRƯỜNG PHÁI “VĂN HÓA VÀ NHÂN CÁCH”
Từ những năm 1930, ngành nhân học Mỹ hướng đến một hướng đi mới trong cố
gắng tìm cách giải thích một cách kiên trì các khác biệt văn hóa giữa các nhóm người.
Họ cho rằng nghiên cứu văn hóa còn quá trừu tượng, trong khi quan hệ giữa cá nhân
với văn hóa của mình còn chưa được tính đến; văn hóa không thể tồn tại như một thực
thể tự nó, nằm ngoài các cá thể, dù cho mọi văn hóa đều độc lập tương đối so với các
cá thể; mỗi nền văn hóa xác định một kiểu ứng xử chung cho toàn thể các cá thể tham
gia vào nền văn hóa đó. Vấn đề cần làm sáng tỏ là văn hóa đã hiện diện trong cá thể
như thế nào, thúc đẩy họ hành động ra sao và tạo nên cách ứng xử nào.
Vấn đề cơ bản của trường phái này là nhân cách. Con người đồng nhất với nhau về
phương diện sinh học và tâm lý, song cơ chế nào làm cho các cá thể lúc đầu có bản
chất giống nhau, biến đổi thành các kiểu nhân cách đặc trưng khác nhau trong các
nhóm riêng biệt. Họ đặt ra giả thuyết đa số các nền văn hóa tương ứng với nhiều kiểu
nhân cách.
Edward SAPIR (1884–1939), nhà nhân học ngôn ngữ Mỹ gốc Đức, cho rằng việc
truyền bá các đặc trưng văn hóa, các yếu tố văn hóa từ nền văn hóa này đến nền văn
hóa khác không độc lập với các cá thể, mà chính ứng xử của các cá thể có thể giải
thích sự vay mượn văn hóa đặc thù [1949].
Ruth BENEDICT (1887–1948) đề xuất khái niệm “mô thức văn hóa” [1934] từ ý
tưởng của Boas và Sapir. Theo đó, mỗi nền văn hóa có một kiểu mô thức đặc trưng,
đồng nhất và gắn bó với nhau nhờ các thiết chế (đặc biệt là giáo dục) và các giá trị,
qua đó điều khiển các cá thể theo một “sơ đồ” vô thức trong mọi hoạt động của đời
sống.
Margaret MEAD (1901–1978) nghiên cứu về cách thức, mô hình giáo dục và các
hệ quả văn hóa mà cá thể tiếp nhận để hình thành nhân cách của mình. Đó là quá trình
“truyền giao văn hóa” và xã hội hóa nhân cách bằng giáo dục. Nhân cách cá thể không
phải do các đặc điểm sinh học mà do “mô thức” văn hóa đặc thù của xã hội. Đó là quá
trình mà các nhà nhân học gọi là “văn hóa hóa” (enculturation), tạo nên sự liên kết
chặt chẽ giữa mô thức văn hóa, phương pháp giáo dục và nhân cách chủ đạo.
Ralph LINTON (1893–1953) cho rằng ngoài tâm lý của từng cá thể còn có tâm lý
chung của mọi thành viên trong một cộng đồng, gọi là “nhân cách cơ bản”. Văn hóa
biến đổi do ưu thế hơn hẳn của một kiểu nhân cách nào đó mà các thành viên trong
một cộng đồng cùng chia sẻ. Trong công trình Cơ sở văn hóa của nhân cách [1945],
ông cho rằng mỗi nền văn hóa ưu tiên một trong số các kiểu nhân cách được xã hội
coi là “bình thường”, phù hợp với chuẩn mực văn hóa và hệ thống các giá trị.
Abram KARDINER (1891–1981) đã cộng tác chặt chẽ với Linton để triển khai
quan niệm “nhân cách cơ bản”, được hình thành ở cá thể thông qua “các thiết chế sơ
đẳng” (trước hết là gia đình và hệ thống giáo dục) riêng của mỗi xã hội; và nhân cách
cơ bản này tác động trở lại văn hóa của nhóm bằng cách sản sinh ra “các thiết chế thứ
cấp” (đặc biệt là hệ thống các giá trị và tín ngưỡng).
LÉVI-STRAUSS VÀ HỌC THUYẾT PHÂN TÍCH CẤU TRÚC VĂN HÓA
Claude LÉVI-STRAUSS (1908–2009), nhà nhân học người Pháp, người được
James Frazer xưng tụng là “cha đẻ ngành nhân học hiện đại”, đã đưa ra một định
nghĩa về văn hóa: Mọi văn hóa đều có thể xem là toàn thể các hệ thống biểu trưng
được đặt lên hàng đầu gồm ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, quan hệ kinh tế, nghệ thuật,
khoa học, tôn giáo. Tất cả các hệ thống này đều nhằm diễn tả một số phương diện hiện
thực của tự nhiên và xã hội, đặc biệt là các quan hệ mà hai loại hiện thực này trao đổi
lẫn nhau và các hệ thống biểu trưng của từng loại trao đổi với nhau [1950].
Lévi-Strauss chịu ảnh hưởng của nhân học văn hóa Mỹ về tính toàn thể của văn
hóa, đặc biệt là của Boas, Kroeber và Benedict do ông ở Mỹ một thời gian khá lâu
(1941-1947). Trong công trình Tristes tropiques [Nhiệt đới buồn, 1955], ông mượn
của Ruth Benedict bốn ý tưởng chủ yếu: một, các nền văn hóa khác biệt do một mô
thức nào đó; hai, các kiểu văn hóa khả dĩ tồn tại với số lượng giới hạn; ba, nghiên cứu
các xã hội “nguyên thủy” là phương pháp tốt nhất để xác định sự kết hợp giữa các yếu
tố văn hóa; bốn, sự kết hợp này có thể được nghiên cứu tự bản thân chúng, độc lập với
các cá thể trong nhóm và họ không có ý thức gì về sự kết hợp này.
Ngoài việc nghiên cứu các biến đổi văn hóa, Lévi-Strauss còn phân tích tính không
thể biến đổi của một nền văn hóa đặc thù mà ông coi là “vốn chung” của nhân loại.
Tham vọng về nhân học cấu trúc của Lévi-Strauss là nhận biết và tiếp thu các sự kiện
bất biến, tức là các “tư liệu” văn hóa giữa các nền văn hóa luôn luôn giống nhau do
tính thống nhất về đời sống tâm lý của con người, tất nhiên là với số lượng có giới
hạn. Tổ chức đời sống xã hội phụ thuộc vào một nền văn hóa và đòi hỏi thực hiện các
quy ước xã hội. Trong các điều kiện chung về chức năng của đời sống xã hội, có thể
tìm gặp các quy ước phổ biến vốn là các nguyên tắc cần thiết của mọi đời sống xã hội.
Chẳng hạn, việc cấm loạn luân là cơ sở cần thiết cho các trao đổi của xã hội.
Các tiếp cận văn hóa trong khoa học xã hội và nhân văn
Đối với các nhà địa lý với tư duy thực nghiệm ở Mỹ, văn hóa bao gồm các thứ
không thuộc về tự nhiên. Họ phân biệt văn hóa là cái nhìn thấy được trong cảnh quan
địa lý, do con người tạo lập nên và có khả năng làm thay đổi môi trường tự nhiên. Đó
là cảnh quan được nhân hóa.
Đối với các nhà nhân học, văn hóa nằm ngay ở ngành học. Mỗi dân tộc được định
nghĩa trước tiên là có một nền văn hóa riêng. Đó là một toàn thể phức hợp như là một
tổng thể mà con người có được. Mỗi cá nhân sinh ra trong xã hội đều thuộc về một
nền văn hóa. Văn hóa mang ý nghĩa tập thể, thuộc về một cộng đồng, bộ tộc, xã hội...
Nói như Hérodote, “Phong tục là vua của mọi thứ”. Có hàng ngàn cách thức để thỏa
mãn nhu cầu của con người về ăn, ở, ngủ, nghỉ, đi lại hoặc làm việc.
Đối với các nhà văn hóa, họ quan niệm mọi nền văn hóa vừa giống nhau vừa khác
nhau trên một số phương diện, vì đáp ứng các nhu cầu và các mục tiêu chung bằng các
cách thức khác nhau. Ở cấp độ đầu tiên thì sự khác biệt tách rời nó ra, đến cấp độ thứ
hai thì tập hợp lại.
Song có lẽ chính các nhà ngôn ngữ mới đưa ra định nghĩa văn hóa đầy đủ và rõ
ràng nhất. Émile BENVENISTE (1902–1976), chuyên gia Ấn-Âu, nhà ngôn ngữ học
người Pháp, định nghĩa: “Tôi gọi văn hóa là môi trường của con người, là mọi thứ
vượt qua các chức năng sinh học để đem lại cho cuộc sống, cho hoạt động của con
người hình thức, ý nghĩa và nội dung” [Bonnemaison, 2000]. Từ văn hóa được sử
dụng ở đây vừa thuộc phạm vi vật chất – giống như các nhà địa lý Mỹ – vừa thuộc
phạm vi trí tuệ và tinh thần. Văn hóa là một hệ thống các thái độ, tín ngưỡng và các
biểu trưng.
Giống như ngôn ngữ, văn hóa được định nghĩa thông qua việc truyền đạt. Đó là
toàn thể các thứ di sản mà con người nhận được từ các thế hệ đi trước: các biểu hiện,
tri thức, giá trị, ý tưởng, tính biểu cảm. Nhưng văn hóa cũng là cái mà con người phát
minh, sinh sống trong một thời điểm và một không gian nhất định. Cho nên, người ta
nói văn hóa những năm 30, những năm 60, văn hóa vùng miền, văn hóa đô thị, văn
hóa ngoại ô, văn hóa xí nghiệp, v.v. vì văn hóa luôn được hoàn thiện, đổi mới, phát
minh trở lại tùy theo các thế hệ, nhóm người.
Không có truyền thống nào là thuần chất. Mọi truyền thống khi truyền đạt lại đều
được các thế hệ, nhóm người diễn giải lại. Chính vì vậy mà văn hóa là một truyền
thống sống động, hỗn hợp các đặc trưng được lưu truyền và các đặc trưng tri thức của
một thực thể chuyển động, cấu thành bản sắc.
Văn hóa bao gồm cả văn minh vật chất và văn minh tinh thần. Nhưng hệ luận văn
hóa đòi hỏi cả hai phải gắn với nhau thành một hệ thống, mang tính tổng thể, gọi là
phức hợp văn hóa. Đó là một hệ thống đi từ đặc trưng vật chất nhất đến đặc trưng tinh
thần nhất. Văn hóa gần giống như ngôn ngữ. Đó là một toàn thể, một hệ thống tiến
triển phức hợp và tương tác. Văn hóa biểu hiện sự chuyển động từ cái này đến cái kia,
từ cách sống đến ý nghĩa đời sống [Bonnemaison, 2000].
Ngành Địa văn hóa nói riêng bao gồm việc nghiên cứu cùng lúc các nền văn hóa
và văn minh. Nó không bị lạc hướng khi nghiên cứu sâu vào các quá trình của văn
hóa, mà ở các phạm vi khác nhau: quá trình văn minh và quá trình của các nền văn
hóa [Bonnemaison, 2000].
Địa văn hóa phân biệt văn hóa có bốn trình độ, từ đơn giản đến phức tạp là: đặc
trưng văn hóa hay các yếu tố văn hóa, các tập hợp hay phức hợp văn hóa, các nền văn
hóa và các nền văn minh. Cái toàn thể (còn gọi là phức hợp văn hóa hoặc chu kỳ văn
hóa) cấu thành từ các yếu tố hoặc đặc trưng. Văn hóa hội nhập các phức hợp văn hóa
khác nhau trong một hệ thống văn hóa tổng quát (global). Một nền văn hóa hay một hệ
thống văn hóa bao gồm nhiều tập hợp hoặc phức hợp văn hóa (một tập hợp có nhiều
phức hợp). Văn hóa tham gia vào văn minh, hội nhập ở tầng cao của các nền văn
minh.
VĂN HÓA LÀ MỘT QUÁ TRÌNH [Bonnemaison, 2000]
Quá trình được định nghĩa là sự tiến hóa của một tập hợp các đối tượng theo một
thông số cơ sở. Chẳng hạn, công nghiệp hóa, đô thị hóa, giao lưu văn hóa là các quá
trình. Mọi nền văn hóa đều là một quá trình, trong đó có thể phân tích thành 5 giai
đoạn: khám phá, phát minh, đổi mới, tiến hóa và truyền bá.
– Khám phá là tìm thấy cái gì đó tồn tại trong môi trường tự nhiên, chưa từng sử
dụng đến, có thể sử dụng mà không cần sáng tạo
– Phát minh là tạo ra cái gì mới, nhân tạo, xuất phát từ ý muốn của con người. Phát
minh cấu thành động lực phát triển xã hội, nhất là khi nó tạo nên sự đổi mới
[Schumpeter, 1911].
– Đổi mới là ứng dụng phát minh hoặc khám phá trong một lĩnh vực kỹ thuật và
trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, phát minh ra transistors cho phép ứng dụng một
loạt đổi mới trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Ngược lại, cũng có những khám phá
hoặc phát minh không phát sinh đổi mới vì các lý do văn hóa, kinh tế – xã hội và
chính trị.
– Tiến hóa là một trào lưu đi từ đơn giản đến phức tạp, từ biến chuyển, đổi mới lúc
đầu đến các hệ thống phức tạp hơn.
– Truyền bá là quá trình lan tỏa trong không gian và tiếp nối trong thời gian.
Như vậy, quá trình văn hóa là một trào lưu liên tục, vì nó kéo theo một loạt các
phản ứng dây chuyền. Xã hội càng tiên tiến, văn hóa càng trở nên phức tạp, không
thuần nhất và quá trình đổi mới diễn ra một cách nhanh chóng.
Lịch sử nhân loại đã và đang xảy ra ba cuộc cách mạng : từ cách mạng đá mới đến
cách mạng công nghiệp và đến nay là cách mạng thông tin và truyền thông. Quyết
định luận văn hóa hay chủ nghĩa văn hóa được coi là phương thế ưu tiêu dành cho các
phương diện văn hóa giải thích sự cấu thành các hiện tượng lịch sử, xã hội và các tập
tính tinh thần (mentalités).
KHÁI NIỆM “TIỂU VĂN HÓA” VÀ “XÃ HỘI HÓA”
Trong thế kỷ XIX, xã hội học và dân tộc học được hình thành và trở thành các
ngành khoa học độc lập. Pháp là nơi khai sinh ngành xã hội học. Trong thời kỳ đầu, xã
hội học ở Pháp độc quyền nghiên cứu mọi lĩnh vực của xã hội loài người. Các vấn đề
xã hội chiếm ưu thế, làm lu mờ các vấn đề văn hóa. Dân tộc học dần thu hẹp ở lĩnh
vực miêu tả (ethnographie), bị coi là một nhánh phụ của ngành xã hội học.
Trong khi đó, các nhà sáng lập xã hội học thuộc trường phái Chicago tỏ ra nhạy
cảm đối với lĩnh vực văn hóa trong các quan hệ xã hội, do chịu ảnh hưởng của nhân
học văn hóa Mỹ. Họ chú ý đặc biệt vấn đề di dân đầu thế kỷ XX; nghiên cứu các
“cộng đồng” đô thị những năm 1930.
Sự gần gũi giữa hai ngành học dẫn đến việc xã hội học vay mượn các phương pháp
nghiên cứu của nhân học, còn nhân học đi vào các lĩnh vực của xã hội học. Các nhà
nhân học đưa ra bằng chứng về sự thống nhất văn hóa ở Mỹ; còn các nhà xã hội học
hướng đến tính đa dạng văn hóa của xã hội Mỹ, dẫn đến hình thành khái niệm “tiểu
văn hóa” của các nhóm tộc người, các tầng lớp xã hội, của người nghèo, kẻ phạm
pháp, đồng tính, thanh thiếu niên, v.v. Các hiện tượng “phản văn hóa” như phong trào
“hippie” vào những năm 1960 và 1970 cũng được coi là một tiểu văn hóa.
Các nhà xã hội học ở Mỹ còn đưa ra khái niệm “xã hội hóa”, để giải thích tính liên
tục qua nhiều thế hệ của các nền văn hóa hoặc tiểu văn hóa đặc thù giữa các nhóm xã
hội khác nhau. Họ quan niệm đó là quá trình hội nhập của cá thể vào một xã hội hoặc
một nhóm người riêng biệt, bằng cách thu mình vào các mô thức văn hóa riêng của xã
hội hoặc của nhóm người đó. Tuy nhiên, khái niệm “xã hội hóa” chỉ sử dụng phổ biến
từ cuối những năm 1930, để phản ánh vấn đề cơ bản của xã hội học lúc bấy giờ là làm
thế nào cá thể trở thành thành viên trong xã hội của mình và làm thế nào xã hội đồng
nhất về bản sắc.
Theo Émile Durkheim [1922], mỗi xã hội đều thông qua giáo dục để truyền lại cho
các cá thể cấu thành xã hội toàn thể các tiêu chuẩn xã hội và văn hóa, nhằm bảo đảm
sự đoàn kết giữa mọi thành viên của xã hội, và các cá thể đều phải làm theo ở mức độ
nhất định.
Nhà xã hội học người Mỹ Talcott Parsons [1954] tìm cách dung hòa các phân tích
của Durkheim và Freud trong quá trình xã hội hóa. Ông cho rằng xã hội hóa hoàn tất ở
tuổi thanh niên; đời sống cá thể càng sớm phù hợp với các tiêu chuẩn, giá trị của xã
hội thì càng thích ứng dễ dàng hơn với “hệ thống xã hội”; ngoài gia đình là tác nhân
xã hội đầu tiên chiếm ưu thế, không thể xem thường vai trò của trường học và nhóm
đồng đẳng (bạn học và bạn chơi).
Ngoài ra, Robert K. Merton [1950] còn đưa ra khái niệm “xã hội hóa đi trước”, để
chỉ hiện tượng một cá thể tìm cách thích ứng và thu mình vào trước, theo các tiêu
chuẩn và giá trị của một nhóm mà cá thể ấy còn chưa thuộc về nhưng muốn hội nhập.
Peter L. Berger và Thomas Luckmann [(1966) 1986] còn phân biệt “xã hội hóa sơ
đẳng” (thời thơ ấu) và “xã hội hóa thứ cấp” (thời thanh niên). Họ quan niệm xã hội
hóa là một quá trình không ngừng trong cuộc đời của một cá thể, bao gồm các giai
đoạn “giải xã hội hóa” (cắt đứt hội nhập với mô thức chuẩn mực) và “tái xã hội hóa”
(trên cơ sở thu mình vào một mô hình khác).
HỆ THỐNG VĂN HÓA [Bonnemaison, 2000]
Một hệ thống văn hóa tạo nên các đặc trưng nhờ tổ chức đặc thù bên trong của nó.
Hệ thống văn hóa khác với hệ thống xã hội, vì có tính chất bao quát hơn, gồm có bốn
yếu tố: kiến thức, kỹ thuật, tín ngưỡng và không gian. Đây cũng là bốn cực hay bốn
trụ cột của hệ thống văn hóa.
– Di sản kiến thức: Văn hóa trước hết là di sản kiến thức. Đó là sự hiểu biết về thế
giới, làm cho văn hóa mang tính “khoa học”. Bên cạnh khoa học phương Tây có tính
phổ quát, còn có các “khoa học” trong mỗi nền văn minh khác nhau, ở mỗi tộc người
ngoại lai, gọi là các khoa học tộc người (ethnosciences) ngoài phương Tây, được coi
là các khoa học hoặc kiến thức tiền hiện đại. Ngày nay, văn hóa bản địa được đánh giá
cao, không bị coi là thấp kém như đầu những năm 1950...
– Di sản kỹ thuật: gồm các kỹ năng và công cụ. Theo cách nói của nhà địa lý người
Pháp Vidal de la Blache (1845–1918), đó là các lối sống, dựa vào các kỹ thuật cơ bản,
đáp ứng các nhu cầu đầu tiên của đời sống để sinh tồn, để phân biệt con người với loài
vật. Đó còn là nghệ thuật sống, một lý lẽ để sống.
– Tín ngưỡng: kiến thức và kỹ thuật “ngoài phương Tây” còn dựa trên tín ngưỡng
tôn giáo, thể hiện một cách nhìn về thế giới, thường được coi là tầng cao của văn hóa,
biểu hiện mối liên hệ cơ bản giữa các giá trị và kỹ thuật.
Văn hóa mang lại ý nghĩa, đưa ra cách nhìn về thế giới, tức là cách giải thích thế
giới. Đó là trật tự của tư duy, dựa trên tín ngưỡng, huyền thoại và các giá trị. Đó cũng
là trật tự của văn hóa, kết hợp ý nghĩa đạo đức và thẩm mỹ, luân lý và nghệ thuật, lý
trí và xúc cảm, thường được coi là các biểu hiện. Mọi văn hóa đều là hệ thống các
biểu hiện khác biệt, còn gọi là các biểu trưng địa lý.
Không có ký ức thì không có văn hóa, bởi vậy không có tương lai. Ký ức càng xa
về thời gian, văn hóa càng phong phú. Nếu thiếu quá khứ, đời sống văn hóa chỉ gắn
với hiện tại, quay lưng với chiều sâu văn hóa... Đó là sự phủ nhận văn hóa.
Trong một số trường hợp, tín ngưỡng tôn giáo được thay thế bằng ý thức hệ. Chủ
nghĩa mác-xít được coi là tôn giáo không có Thượng đế của con người, xây dựng trên
trái đất một “ngày mai tươi sáng” nhờ vào cuộc đấu tranh của giai cấp cần lao. Từ ý
thức hệ đến tín ngưỡng chỉ có một bước chân. Như vậy, một cách nhìn về thế giới là
một hệ thống cấu thành từ bốn yếu tố: các biểu hiện, các huyền thoại sáng thế, các
biểu trưng địa lý và ký ức. Hệ thống này biểu hiện tầng cao của văn hóa.
– Không gian: Các nền văn hóa được xây dựng và định vị trong một không gian.
Fernand BRAUDEL (1902–1985), nhà sử học người Pháp nổi tiếng với Lý thuyết hệ
thống kinh tế-xã hội trên phạm vi thế giới, cho rằng văn hóa có một chỗ dựa địa lý.
Khác với quyết định luận địa lý, nó có quan hệ biện chứng giữa môi trường và văn
hóa.
Môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn không cách ly lẫn nhau, mà tạo nên
môi trường văn hóa và môi trường địa lý. Sự phân chia các nền văn hóa trong không
gian tạo nên các vùng văn hóa. Vùng văn hóa được định nghĩa là một không gian
tương đối đồng nhất, trong đó có kết hợp một số đặc trưng văn hóa chủ đạo. Các vùng
văn hóa không khép kín, mà có thể tiếp nhận, trao đổi các đặc trưng văn hóa với nhau.
Có thể hình dung ba cấp độ cấu thành một hệ thống văn hóa là: vùng văn hóa, không
gian sinh sống và không gian văn hóa.
Không gian văn hóa tương ứng với một nền văn hóa riêng và một khu vực lãnh thổ
riêng. Có thể phân biệt các địa điểm và cái nôi[8] văn hóa, các khu vực, các vùng văn
hóa và các thế giới văn hóa. Mỗi nền văn hóa và mỗi nền văn minh lớn đều có một
hoặc nhiều cái nôi văn hóa. Khu vực văn hóa còn là một xứ sở (gồm một phức hợp
văn hóa và phạm vi lan tỏa của nó). Khi mở rộng một phức hợp văn hóa tương ứng
với một không gian địa lý sẽ tạo nên khu vực văn hóa; khu vực văn hóa là một nền
văn hóa với không gian của nó – đó là tập hợp của một nhóm các vùng văn hóa có các
biến thái chung hoặc cơ sở văn hóa giống nhau; thế giới văn hóa bao gồm nền văn
minh và không gian - đó là siêu văn hóa (métaculturel – cái vượt qua, cái bao gồm)
và nguồn cội hoặc các bể chứa văn hóa như : các tôn giáo lớn, ý thức hệ, các trào lưu
văn minh, ngôn ngữ, các cộng đồng quốc tế như EU, OTAN, APEC... và các trục thế
giới.
Các ứng dụng văn hóa – xã hội
Trong mấy thập niên gần đây, văn hóa được sử dụng ngày càng nhiều trong đời
sống xã hội. Có khuynh hướng sử dụng từ văn hóa thay thế cho các từ khác như trí
tuệ, tinh thần, truyền thống hoặc ý thức hệ. Văn hóa trở nên phổ biến trong từ vựng
chính trị: văn hóa chính quyền, văn hóa giải trung ương hóa, hoặc rất thông dụng vì ở
mỗi lĩnh vực xã hội đều muốn có văn hóa của mình như văn hóa hip hop, văn hóa
- Xem thêm -