Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
(NHTM)
1.1 Khái niệm NHTM
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có
một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương
mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động
trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay
cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch
vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho
vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm hữu
hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…
Ngoài ra, còn có một số khái niệm khác về NHTM như sau: ngân hàng trước tiên
là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài chính là gì? Trung gian tài chính là
một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện các chức năng trung gian giữa hai
hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định. Cũng có thể hiểu theo một cách
định nghĩa khác, trung gian tài chính là một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn
giữa người cho vay và người đi vay theo phương thức gián tiếp. Những tổ chức trung
gian tài chính mà ta thường nghe nhắc đến bao gồm: Ngân hàng; Tổ chức công
cộng/hiệp hội; Tổ chức tín dụng nghiệp đoàn; Đơn vị tư vấn/cố vấn tài chính và môi
giới; Các hình thức công ty bảo hiểm; Quỹ tương hỗ; Quỹ hưu trí
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt
Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán.
Trang1/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
1.2 Chức năng của NHTM
1.2.1 Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi
trả tiền theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ
được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh
chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà
nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu
thông, vận chuyển, bảo quản…).
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc
quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho
xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá
trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện
qua sec và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện
các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền
bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec
ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy
vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
1.2.2 Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng
không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung
ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân
hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút
tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh toán
trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương
mỗi nước. Vậy tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả
sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec
Trang2/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo
thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng
Ngân hàng A
Ngân hàng B
Ngân hàng C
...
Tiền toàn hệ thống ngân hàng
Tiền gửi mới
1.000.000
900.000
810.000
...
10.000.000
Thanh toán
cho vay mới
900.000
810.000
729.000
...
9.000.000
Dự trữ bắt
buộc
100.000
90.000
81.000
1.000.000
Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10%
thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người
vay, người vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu
lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người
được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ
có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là
810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến
người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc
này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến
khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan
hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho
vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống ngân hàng
2 cấp.
1.3 Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế của NHTM
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử
dụng một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu
thông) nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có
những chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không
quen biết nhau và cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông.
Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho
vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của
nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trang3/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có
được nó sẽ duy trì họat động của mình.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu,
trái phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao
mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2.1 Thành tựu và ưu điểm.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng thương mại nhà nước
(NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên
doanh, 2 ngân hàng 100% vốn nước ngoài (HSBC và Standard Charter Bank), 6 công
ty tài chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân dân và 46 văn
phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận
về nguyên tắc cho ra đời thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng
đang vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả là một sự trưởng
thành vượt bậc.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng dư nợ tín dụng qua các năm (%)
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn
cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-18% GDP, gần 50% vốn đầu tư
toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng
khoảng 24%, cao hơn mức 19% năm 2005. Hệ thống ngân hàng cũng có nhiều đóng
góp cho tăng trưởng, phát triển và ổn định nền kinh tế trong những năm qua.
Trang4/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Thứ hai, hệ thống ngân hàng đã có cuộc đổi mới toàn diện. Nhiều văn bản luật đã
được ban hành một cách đồng bộ; Cơ chế chính sách về hoạt động ngân hàng đã ngày
một hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế; Khuôn khổ thể chế ngày một thông
thoáng và minh bạch hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng, tổ
chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ;
Chức năng cho vay tín dụng chính sách và cho vay tín dụng thương mại đã được tách
bạch; Các NHTM, các tổ chức tín dụng đã được tự chủ và tự chịu trách nhiệm khá đầy
đủ. Tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng được nâng cao; Thị trường dịch vụ ngân
hàng được phát triển an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, chính sách tiền tệ (CSTT) được đổi mới và điều hành theo nguyên tắc thị
trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các công cụ gián tiếp điều hành CSTT đã
được hình thành và phát triển. Chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái đã được áp dụng
linh hoạt theo cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng được mở rộng và đổi mới theo
hướng tạo sự công bằng, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp và
mọi đối tượng dân cư.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại tài chính, tăng vốn điều lệ cho các
NHTMNN, xử lý nợ xấu (hiện tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ đã giảm từ gần 20% trong
những năm 90 xuống còn khoảng 3,1%), đào tạo cán bộ và nâng cấp hệ thống trên cơ
sở công nghệ hiện đại, nối mạng và thanh toán điện tử…
2.2 Bất cập, hạn chế.
Một là, hệ thống dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa
cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền
thống. Huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi, chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động
và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập. Do
không thể đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các NHTM Việt Nam
chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ
này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định.
Hai là, tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm chưa chắc chắn, trong đó đáng
chú ý là khối các TCTD nhà nước, cụ thể nợ xấu của khối NHTM quốc doanh chiếm
khoảng 91% nợ xấu của toàn hệ thống. Nợ tồn đọng trong cho vay đầu tư xây dựng cơ
bản bằng VND đang ở mức cao trên tổng dư nợ.
Trang5/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Nguyên nhân chính dẫn đến nợ quá hạn gia tăng tại các NHTM quốc doanh là do:
Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị
trường hàng hoá chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp; Việc cho vay tràn
lan đối với một số dự án (đặc biệt đối với các dự án xây dựng cơ bản) trong và ngoài kế
hoạch; Công tác kiểm tra nội bộ chưa được coi trọng đúng mức nên hiệu quả chưa cao,
chưa phát hiện kịp thời các sai phạm trong công tác tín dụng; Việc chấn chỉnh sau
thanh tra, đặc biệt là xử lý cán bộ có sai phạm trong công tác tín dụng tại một số TCTD
còn chưa nghiêm.
Ba là, tự do hoá lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng
lên. Lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào HTNH. Tuy nhiên, lãi
suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều đó tạo thêm
gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân
hàng. Trong điều kiện nói trên, một phần không nhỏ số doanh nghiệp có thể mất khả
năng thanh toán và phá sản nếu không được tiếp tục vay vốn từ ngân hàng. Hậu quả là
ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến nguy cơ mất vốn ngày càng lớn.
Hiện nay, lãi suất tiền gửi trung hạn lên tới 8,5%/năm. Lãi suất đầu vào tăng nhanh đã
đẩy mặt bằng lãi suất cho vay lên cao (mức cho vay trung và dài hạn ở mức 1213%/năm); tạo gánh nặng chi phí cho các doanh nghiệp và là một trong những nhân tố
làm tăng lạm phát.
Bốn là, các công cụ điều tiết chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước còn cần
phải bàn và còn bất cập nên tác dụng điều tiết chưa cao. Do đó khi lãi suất thị trường
lên cao trong khi vốn khả dụng của các NHTM dư thừa, Ngân hàng Nhà nước thiếu
khả năng can thiệp để điều tiết mặt bằng lãi suất.
Năm là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, trong đó kênh cung cấp vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu là thông qua HTNH (Nguồn vốn huy động
thông qua thị trường chứng khoán mới đạt khoảng 8,5% GDP). Tuy nhiên, tỷ trọng tiền
gửi có kỳ hạn dài trên 1 năm tại các NHTM chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 30%, còn lại là
ngắn hạn dưới 1 năm chiếm đến 70%. Trong khi đó tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn hiện
đã ở mức trên 40% và đang có sức ép tăng lên với quá trình công nghiệp hoá của đất
nước. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn huy động ngắn hạn chuyển cho vay
trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn.
Trang6/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Sáu là, hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn bằng ngoại
tệ còn chưa cao như mong muốn, chưa chuyển được nhiều thành vốn tín dụng phục vụ
cho sản xuất kinh doanh và phát triển của nền kinh tế.
Bảy là, phần lớn các NHTM Việt Nam vốn còn thấp nên khả năng thanh khoản và
tính bền vững của hệ thống chưa được cao. HTNH thương mại quốc doanh chiếm đến
trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng, sức ép
cạnh tranh còn thấp. Các ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng quá nhỏ bé và yếu kém đang
là điểm dễ bị tổn thương nhất của hệ thống. Có một số công ty tài chính và quỹ tài
chính được thành lập nhưng mới bắt đầu hoạt động.
Tám là, các ngân hàng chưa mở rộng và thay đổi phương thức kinh doanh; năng
lực thẩm định dự án thấp. Tình trạng này một phần do thị trường tài chính chưa phát
triển và các khuôn khổ pháp luật, kế toán và quản lý không đầy đủ, nhưng chủ yếu là
do thiếu sự cạnh tranh.
Chín là, hội nhập kinh tế quốc tế đi liền với các cam kết quốc tế về mở cửa thị
trường tài chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng
như những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với HTNH trong
thời gian tới. HTNH chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp
thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình
kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mười là, nhiều TCTD chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung đối
với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản lý rủi ro
thanh khoản hầu như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi xuất hiện
những biến động bất thường, một số NHTM luôn phải đối mặt với nguy cơ mất khả
năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
Mười một là, phần lớn các TCTD chưa xây dựng được quy trình tập trung tại Hội
sở chính đối với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng thái
ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả để hạn chế
tác động những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất và tỷ giá. Bên cạnh đó,
một số TCTD được phép kinh doanh ngoại hối không chấp hành các giới hạn về trạng
thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực, đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát
được rủi ro tỷ giá. Vì vậy, khi phải đối mặt với sự biến động của thị trường đã gây tổn
thất cho chính TCTD.
Trang7/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
2.3 Cơ hội khi gia nhập WTO
Hội nhập quốc tế sẽ làm tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam,
nhất là trên thị trường tài chính khu vực.
Đối với NHNN, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng lực và hiệu quả
điều hành và thực thi chính sách tiền tệ, đổi mới cơ chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỉ giá
theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập cũng là cơ hội để NHNN tăng cường phối hợp
với các NHTW và các tổ chức tài chính quốc tế về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin
và ngăn ngừa rủi ro, qua đó hạn chế biến động của thị trường tài chính quốc tế và đảm
bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ
hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ
thống pháp luật và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý tài chính, loại
bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp vốn, tài chính đối với các NHTM trong nước, hạn chế
tình trạng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của NHNN và Chính phủ.
Đối với các TCTD, hội nhập quốc tế là động lực thúc đẩy cải cách, buộc các ngân
hàng trong nước phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường, khắc phục những nhược
điểm còn tồn tại, đồng thời phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao
trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân hàng. Trong quá trình hội nhập
và mở cửa thị trường tài chính trong nước, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp
dần với thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và
từng bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn,
thị phần của NHTMNN có thể giảm và nhường chỗ cho các nhóm ngân hàng khác,
nhất là tại các thành phố và khu đô thị lớn. Tuỳ theo thế mạnh của mỗi ngân hàng, sẽ
xuất hiện những ngân hàng hoạt động theo hướng chuyên môn hóa như ngân hàng bán
buôn, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, đồng thời hình thành một số ngân hàng qui
mô lớn, có tiềm lực tài chính và kinh doanh hiệu quả. Kinh doanh theo nguyên tắc thị
trường cũng buộc các tổ chức tài chính phải có cơ chế quản lý và sử dụng lao động
thích hợp, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thu hút lao
động có trình độ, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh trên thị trường
tài chính.
Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và nới lỏng hạn chế đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài là điều kiện để thu hút đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực tài chính – ngân
Trang8/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
hàng, các NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo
thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính
quốc tế. Vì thế, các ngân hàng cần tăng cường hợp tác để chuyển giao công nghệ, phát
triển sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, khai thác thị trường. Trong quá trình hội
nhập, việc mở rộng quan hệ đại lý quốc tế của các ngân hàng trong nước sẽ tạo điều
kiện phát triển các hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, góp phần thúc đẩy
quan hệ hợp tác đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Nhờ hội nhập quốc tế, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính
quốc tế một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp
phần nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động. Các ngân hàng trong nước sẽ phản
ứng, điều chỉnh và hoạt động một cách linh hoạt hơn theo tín hiệu thị trường trong
nước và quốc tế nhằm tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
2.4 Thách thức khi gia nhập WTO
Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về
tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình
nới lỏng các qui định đối với các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về mở chi nhánh
và các điểm giao dịch, phạm vi hoạt động, hạn chế về đối tượng khách hàng và tiền gửi
được phép huy động, khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng, trong khi các tổ chức tài
chính Việt Nam còn nhiều yếu kém:
Trình độ chuyên môn và trình độ quản lý còn bất cập, hiệu quả hoạt động và sức
cạnh tranh thấp, nợ quá hạn cao, khả năng chống đỡ rủi ro còn kém, vốn nhỏ, năng lực
tài chính thấp, chất lượng tài sản chưa cao.
Hoạt động tín dụng được mở rộng nhanh chóng nhưng rủi ro tín dụng chưa được
kiểm soát và đánh giá một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu
cầu hội nhập.
Sản phẩm và dịch vụ còn đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, chất lượng dịch vụ
thấp. Qui trình quản trị trong các TCTD Việt Nam chưa phù hợp với các nguyên tắc và
chuẩn mực quốc tế, tính minh bạch thấp, chưa hình thành môi trường làm việc và văn
hóa kinh doanh lành mạnh do vai trò và trách nhiệm của các vị trí công tác chưa rõ
ràng, hệ thống thông tin quản lý và quản lý rủi ro chưa hiệu quả.
Trang9/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán lạc hậu và có nguy cơ tụt
hậu xa hơn so với các nước trong khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng
cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của NHNN và khả năng chống đỡ
rủi ro của các NHTM còn nhiều hạn chế.
Thể chế của hệ thống ngân hàng còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về ngân
hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập.
Vì thế, các NHTM Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh về qui mô, khách hàng và
hệ thống kênh phân phối, nhất là sau năm 2010, khi những hạn chế nêu trên và sự phân
biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Sau thời gian đó, qui mô hoạt động và khả năng tiếp cận
thị trường, các nhóm khách hàng, chủng loại dịch vụ do các ngân hàng nước ngoài
cung cấp sẽ tăng lên. Đáng chú ý, rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể
tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài chính
trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh; một số tổ
chức tài chính trong nước sẽ gặp rủi ro và có nguy cơ thua lỗ, phá sản do sức cạnh
tranh kém và không có khả năng kiểm soát rủi ro khi tham gia các hoạt động ngân hàng
quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ bên
ngoài, cơ hội tận dụng chênh lệch tỉ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị
trường quốc tế giảm dần. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với các cơn
sốc kinh tế, tài chính quốc tế và nguy cơ khủng hoảng. Trong trường hợp đó, thị trường
vốn chưa phát triển sẽ khiến hệ thống ngân hàng phải chịu mức độ thiệt hại lớn hơn do
rủi ro gây lên.
3. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM
Như vậy, bước vào hội nhập, khi chúng ta mở cửa toàn diện với các tổ chức tín
dụng, tổ chức tài chính quốc tế thì sức ép cạnh tranh rất lớn. Với kinh nghiệm, vốn và
kỹ thuật hiện đại với mạng lưới rộng khắp trên thế giới thì sự cạnh tranh của các ngân
hàng quốc tế với chúng ta sẽ mạnh hơn và khắc nghiệt hơn. Để đứng vững và phát triển
được đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài đồng bộ để
phát triển HTNH nuớc ta.
3.1 Giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng nhà nước:
Về phía Chính phủ
Trang10/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Trước hết cần cải cách DNNN, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh
nghiệp. Việc bảo hộ cho khu vực DNNN là nguyên nhân chính gây ra nợ khó đòi, nợ
quá hạn, nợ xấu tại các NHTM nhà nước cao. Chính vì vậy, nếu không kiên quyết đẩy
mạnh tiến trình cải cách DNNN thì việc cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
nói chung và các NHTM nói riêng sẽ khó thực hiện.
Thứ hai, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ ban hành Luật
Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đưa luật này trở thành công cụ để Chính phủ kiểm
soát hoạt động cạnh tranh. Sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Luật các TCTD. Rà soát kỹ hoạt động và tình hình tài chính của các NHTM trước khi
bổ sung vốn và tiến hành cổ phần hoá. Khẩn trương thực hiện việc cổ phần hoá Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam; đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại HTNH.
Thứ ba, thống nhất quan điểm, xác định rõ và cụ thể về lộ trình mở cửa tài chính.
Tự do hoá tài chính phải được thực hiện sau cùng, sau khi đã thực hiện cải cách cơ cấu
và tự do hoá thương mại. Nếu có được lộ trình hội nhập tài chính thích hợp sẽ đảm bảo
hệ thống tài chính hội nhập hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh mà không bị vướng vào
các dạng khủng hoảng tài chính - ngân hàng khác nhau.
Thứ tư, khẩn trương hoàn thiện hoạt động của thị trường tiền tệ và hoàn thiện hoạt
động của thị trường chứng khoán, xác định cụ thể lộ trình mở cửa thị trường tài chính ngân hàng.
Thứ năm, củng cố hệ thống thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước; bảo đảm
để mọi tổ chức, cá nhân tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tín dụng; đồng
thời có biện pháp cụ thể kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro của các NHTM, ngăn
chặn xu hướng gia tăng nợ xấu.
Thứ sáu, thực hiện kiểm toán các NHTM theo chuẩn mực quốc tế, thuê kiểm toán
nước ngoài kiểm toán đối với hoạt động ngân hàng năm 2005 và 2006.
Về phía Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Thứ nhất, năng cao năng lực quản lý điều hành. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ
chức, quy định lại chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước nhằm năng cao hiệu
quả điều hành vĩ mô, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia
và trong việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Trang11/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Thứ hai, phối hợp cùng Bộ Tài chính tham gia xây dựng và phát triển đa dạng thị
trường vốn, tạo điều kiện san sẻ bớt gánh nặng cung cấp vốn hiện nay mà các NHTM
đang phải gánh vác.
Thứ ba, NHNN cần nhanh chóng xin phép Chính phủ để đẩy nhanh thực hiện cổ
phần hóa các NHTM nhà nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng này hoạt động an toàn
và hiệu quả hơn.
3.2 Giải pháp từ chính các Ngân hàng
Tăng cường năng lực tài chính
Năng lực tài chính của các NHTM nước ta nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số
đều còn là thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính,
các ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử
lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng
cạnh tranh và chống rủi ro.
Đối với các NHTM nhà nước, cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành
cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt
được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Đối với các NHTM cổ phần, cần tăng vốn điều lệ thông qua sáp nhập, hợp nhất,
phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể
tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu
hồi giấy phép hoạt động.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán, chú trọng hoạt động
Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại
dựa trên công nghệ hiện đại
Công nghệ ngân hàng nước ta dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị
đánh giá là yếu kém. Hiện nay, nhiều ngân hàng đã triển khai các phần mềm hiện đại
với chức năng hoạt động giao dịch trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia
tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng. Nhìn chung, các phần
mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều
ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển
khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công
nghệ đó.
Trang12/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
Cùng với việc hiện đại hoá công nghệ, các NHTM cần có chính sách khai thác
công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa
trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự
đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo sản phẩm đến khách hàng.
Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân
tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, các NHTM cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thủ tục
vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
Xác định khách hàng mục tiêu, xây dựng chiến lược khách hàng và tăng cường
phát triển mạng lưới.
Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó
với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng.
Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch
ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết
sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định
và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Ngoài ra, các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên
việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Về chiến lược thu hút tiền gửi, cần xây
dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử
dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo
thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh tín dụng cần tạo được quy trình cung cấp linh hoạt sản
phẩm của ngân hàng, đặc biệt đối với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện
cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.
Cần cải cách bộ máy quản lý điều hành theo tư duy kinh doanh mới. Đồng thời,
xây dựng chuẩn hoá và văn bản hoá toàn bộ quy trình nghiệp vụ của các hoạt động chủ
yếu của NHTM, thực hiện cải cách hành chính doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện
đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là
Trang13/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán
bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử
dụng và vận hành công nghệ mới.
Trang14/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Quốc Lý, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1/2007.
2. TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Thống Kê,(2007)
3. GS. TS. Dương Thị Bình Minh, TS. Sử Đình Thành, Lý thuyết tài chính tiền tệ,
NXB Thống Kê, (2001)
4. GS.TS Lê Văn Tư, Ngân hàng thương mại , NXB Tài Chính, (2004)
5. GS.TS. Lê Văn Tư, Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, NXB Thống Kê,
(2001).
6. Lê Vinh Danh, Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương,
NXB Chính Trị Quốc Gia, (1996)
7. Các trang web:
http:\\www.sbv.gov.vn
http:\\www.centralbank.vn
http:\\www.vnba.org.vn
Trang15/16
Hệ thống ngân hàngthương mại Việt Nam
SV: Thái Võ Sơn
MỤC LỤC
1.
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1
1.1
Khái niệm NHTM ................................................................................................... 1
1.2
Chức năng của NHTM ............................................................................................ 2
1.2.1
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán... 2
1.2.2
Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp ................. 2
1.3
Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế của NHTM .................................................... 3
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM ................ 4
2.1
Thành tựu và ưu điểm. ............................................................................................ 4
2.2
Bất cập, hạn chế. ..................................................................................................... 5
2.3
Cơ hội khi gia nhập WTO ....................................................................................... 8
2.4
Thách thức khi gia nhập WTO ................................................................................ 9
3. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NHTM VIỆT
NAM ....................................................................................................................................10
3.1
Giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng nhà nước: ............................................10
3.2
Giải pháp từ chính các Ngân hàng ..........................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................................15
Trang16/16
- Xem thêm -