Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại...

Tài liệu Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại

.PDF
74
251
116

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------- NGUYỄN HOÀNG THOẠI PHƢƠNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -------------------- NGUYỄN HOÀNG THOẠI PHƢƠNG LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một công trình nào. Mọi sự giúp đỡ cho luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, số liệu ghi trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Thoại Phƣơng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI .............................................................. 6 1.1. Bản chất của hợp đồng ......................................................................................... 6 1.2. Sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận ................................................................. 9 1.3. Điều kiện có hiệu lực của sự thỏa thuận ............................................................ 20 1.4. Nguyên tắc của thoả thuận ................................................................................. 23 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI ............................ 25 2.1. Cấu trúc và nguồn của pháp luật hợp đồng Việt Nam hiện nay ........................ 25 2.2. Quy định pháp luật Việt Nam về yếu tố thỏa thuận (thống nhất ý chí) của hợp đồng ........................................................................................................................... 28 2.3. Pháp luật điều tiết những rủi ro thường gặp trong thoả thuận ........................... 41 2.4. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong thoả thuận .................................. 48 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 51 3.1. Cần phải có quan niệm đầy đủ, chính xác, thống nhất về thoả thuận trong pháp luật hợp đồng ............................................................................................................. 51 3.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định trong Bộ luật Dân sự có liên quan đến thoả thuận trong giao kết hợp đồng................................................................................... 53 3.3. Đối mới, nâng cao hiệu quả xét xử của toà án đối với tranh chấp hợp đồng ..... 62 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự GKHĐ : Giao kết hợp đồng HĐ : Hợp đồng L/C : Thư tín dụng LTM : Luật thương mại NLHV : Năng lực hành vi dân sự UBTVQH : Uỷ ban thường vụ Quốc hội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử, là nền tảng của giao dịch kinh doanh. Cùng với tự do thương mại, pháp luật hợp đồng ngày càng được hài hòa hóa, thậm chí nhất thể hóa trên quy mô khu vực và toàn cầu. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã góp phần giải quyết được sự tản mạn, rải rác của những quy định pháp luật hợp đồng được điều chỉnh ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 1995, Luật Thương mại 1997, và các đạo luật chuyên ngành khác; pháp luật hợp đồng Việt Nam đã dần dần được thống nhất thành một hệ thống, các quy định cũng thể hiện được sự tương thích với pháp luật thế giới và là một phần quan trọng của pháp luật quốc gia. Khi nhắc đến hợp đồng thì có một vấn đề không thể không đề cập đó là “sự thống nhất ý chí”. Dù cổ luật hay pháp luật hiện đại, dù là Civil law hay Common law…, tất cả đều thống nhất với quan điểm “Hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực pháp lý bắt buộc”, nghĩa là sự thống nhất ý chí là yếu tố cơ bản và không thể thiếu của hợp đồng, phải tồn tại một sự thỏa thuận hợp pháp thì hợp đồng mới được hình thành. Như vậy, nghiên cứu về yếu tố thỏa thuận chính là nền tảng để hiểu đúng bản chất của hợp đồng nói chung. Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại ở Việt Nam thời gian qua cho thấy hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không theo kỹ năng pháp lý. Trong khi đó, xu hướng hội nhập đang mở ra rất nhiều cơ hội và cả thách thức cho thương nhân Việt Nam.Những hợp đồng được ký kết với bên đối tác nước ngoài như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế… ngày càng phổ biến và chiếm số lượng lớn. Nếu không có một sự hiểu biết nhất định về pháp luật hợp đồng thì liệu những thương nhân nước ta có đủ sức bảo vệ mình khi có tranh chấp trước những đối tác nước ngoài vốn rất hiểu biết và coi trọng pháp luật? Những vấn đề pháp lý như đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, năng lực chủ thể 1 tham gia giao kết… nếu không được nhìn nhận một cách thỏa đáng thì chúng ta sẽ rất khó có được những bằng chứng pháp lý thuyết phục để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, có thể nói giai đoạn giao kết hợp đồng, đặc biệt là yếu tố thỏa thuận gần như là giai đoạn quan trọng bậc nhất trong pháp luật hợp đồng, nó sẽ là nền tảng thiết lập nên quan hệ giữa các bên và là cơ sở cho những hậu quả pháp lý phát sinh sau này. Nhận thức được tầm quan trọng của sự thỏa thuận như vậy, pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng đã phần nào thể hiện sự quan tâm đến yếu tố này với những quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của BLDS 1995 và Luật thương mại 1997, đồng thời cũng có sự tương thích nhất định với pháp luật thế giới, đặc biệt là với hệ thống luật thành văn. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn mang tính nguyên tắc chung, khiến cho việc áp dụng có thể gặp phải những bất cập không đáng có, đôi khi còn không phù hợp với thông lệ quốc tế. Trước tình hình đó, tôi chọn “Lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, qua đó có được cái nhìn tổng quan về vấn đề, thấy được những điểm tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam để tìm hướng khắc phục, góp phần vào quá trình thống nhất và hoàn thiện hệ thống pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luật hợp đồng là nền tảng của kinh doanh.Tìm hiểu luật hợp đồng là thiết yếu đối với những người mong muốn tiến hành kinh doanh.Bởi thế các quy định về hợp đồng luôn được giới luật học và cả các cá nhân, thương nhân quan tâm tìm hiểu.Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành đối với hầu hết các khía cạnh liên quan đến pháp luật hợp đồng. Liên quan đến đề tài mà tác giả đã chọn, có thể kể đến một số sách, báo, bài viết ít nhiều liên quan đến đề tài như: Tạ Thị Hồng Vân- luận văn thạc sĩ luật học, 2005 “Nguyên tắc tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam”; TS. Bùi Ngọc Cường “Thống nhất pháp luật về hợp đồng ở Việt nam”; tạp chí Luật học số 2 năm 2001; Phạm Hoàng Giang “Vai trò của án lệ với sự phát triển của pháp 2 luật hợp đồng”; Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 91 năm 2007; Đinh Mai Phương, “Thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS về hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 năm 2011; “Giáo trình luật hợp đồng” của PGS Ts Ngô Huy Cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội năm 2013….Tuy nhiên, trong giới hạn tìm hiểu của mình, tôi chưa tìm thấy một công trình chuyên nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sự thống nhất ý chí tạo lập hợp đồng thương mại ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật hợp đồng Việt Nam về yếu tố thỏa thuận, có đặt trong sự đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài, để tìm kiếm, phát hiện những tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam, đưa ra những kiến nghị, giải pháp xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về sự thỏa thuận; chỉ ra được vai trò quan trọng của sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng trong tổng thể chung của chế định hợp đồng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích trên, tác giả xác định phải thực hiện những nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về hợp đồng và yếu tố thỏa thuận của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam và thế giới. Qua đó thấy được tầm quan trọng của thỏa thuận trong chế định hợp đồng. + Phân tích nội dung sự thỏa thuận của hợp đồng; bao gồm quy định của pháp luật Việt Nam (chủ yếu trong Bộ Luật Dân Sự 2015) về các thành tố tạo nên sự thỏa thuận: đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, các điều kiện hiệu lực và vô hiệu của thỏa thuận, các khiếm khuyết chủ yếu của một thỏa thuận trong thực tiễn. Có sự đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài để làm rõ vấn đề. + Đánh giá pháp luật về yếu tố thỏa thuận của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật này, đảm bảo tính chặt chẽ về mặt lập pháp, tính ứng dụng cao trên thực tế, và sự 3 công bằng khi buộc phải giải quyết theo con đường tư pháp những tranh chấp xảy ra đối với sự thỏa thuận. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chế định hợp đồng là một chế định rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như giao kết, thực hiện, chấm dứt hợp đồng…, các vấn đề về chủ thể, điều kiện hiệu lực, các nguyên tắc chung…Luận văn không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ hệ thống này mà chỉ đi sâu nghiên cứu yếu tố thỏa thuận hay thống nhất ý chí - là yếu tố đầu tiên của hợp đồng, nghiên cứu các quy định cụ thể được nêu ra trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Tập trung phân tích các thành tố tạo nên sự thỏa thuận: đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS 2015, luật gốc của chế định hợp đồng Việt Nam, có sự đối chiếu so sánh với các quy định của các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Đồng thời chỉ ra các điều kiện để thỏa thuận có hiệu lực, các khiếm khuyết của nó, từ đó đưa ra những kiến nghị xây dựng một khung pháp luật thỏa đúng cho vấn đề. Trong luận văn tác giả cũng nghiên cứu các quy định về hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015, mặc dù bộ luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2017. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề chung của sự thống nhất ý chí giao kết hợp đồng thương mại, không đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề của luật chuyên ngành liên quan tới hợp đồng. Luận văn cũng không phân tích, đánh giá thực trạng, cũng như thi hành các qui định của các văn bản pháp luật chuyên ngành. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở đó, vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm phương pháp luận cho quá trình nghiên cứu. Tác giả sử 4 dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, khảo cứu thực tế để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần vào việc củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận về hợp đồng trong khoa học pháp lý Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đặc biệt đi sâu phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về các vấn đề liên quan đến yếu tố thỏa thuận, điều này là phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu đã đặt ra. Dựa trên những cơ sở nền tảng đã được đề cập, việc phân tích như vậy giúp tác giả có thể đánh giá một cách khách quan tính ưu việt và sự hạn chế của quy phạm pháp luật Việt Nam, đối chiếu vào thực tiễn để rút ra những điểm cần phát huy và những điểm cần sửa đổi, hoàn thiện, tạo tính minh bạch và ứng dụng cao của sự thỏa thuận. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận tổng quát về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại ở việt nam. 5 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ SỰ THỐNG NHẤT Ý CHÍ ĐỂ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƢƠNG MẠI 1.1. Bản chất của hợp đồng 1.1.1. Quan niệm về hợp đồng Hợp đồng là sự thống nhất ý chí nhằm làm phát sinh ra mối quan hệ nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Nói tới hợp đồng là nói tới hành vi pháp lý đa phương khác với hành vi pháp lý đơn phương là việc biểu lộ ý chí để tạo lập ra một quan hệ pháp lý. Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp tại điều 1101 quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều chủ thể phải chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc vì lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác”. Điều 1305 Bộ luật dân sự Philippin định nghĩa “Hợp đồng là sự thống nhất ý chí giữa các bên, theo đó mỗi bên tự ràng buộc mình trên cơ sở tôn trọng bên kia để đưa một cái gì đó hoặc trả cho một dịch vụ nào đó”. Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam (BLDS) 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Các định nghĩa trên tuy có cách thể hiện khác nhau phù hợp cách lập pháp của từng quốc gia, nhưng về cơ bản đều nói lên bản chất của hợp đồng, đó là “sự thỏa thuận có hiệu lực pháp lý”, nói cách khác “Thực chất, hợp đồng là sự thỏa thuận mà tòa án cưỡng chế thi hành”, (Daniel Khoury,Yvonne S Yamouni, Understanding contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart, Melbourne, Perth, 1989, p.7). Mỗi bên trong quan hệ hợp đồng thường theo đuổi những lợi ích nhất định của riêng mình, do đó hợp đồng chính là kết quả của sự dung hòa các lợi ích đối lập nhau giữa các chủ thể. Để đạt được mục đích đó, các bên buộc phải có sự thỏa thuận. Hợp đồng là sự thống nhất ý chí để làm phát sinh một hệ quả pháp lý đặc biệt: nghĩa vụ. Một khi đã 6 làm phát sinh hậu quả thì đương nhiên nó có giá trị bắt buộc đối với các bên liên quan, và tòa án có quyền cưỡng chế thi hành. Tóm lại, về bản chất, hợp đồng là sự thỏa thuận có hiệu lực pháp lý bắt buộc. Nghĩa là khi xem xét một hợp đồng cần lưu ý đến hai vấn đề: (i) Hợp đồng là sự thỏa thuận (ii) Sự thỏa thuận đó phải có giá trị pháp lý (thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực và được pháp luật thừa nhận). 1.1.2. Các thành tố của hợp đồng 1.1.2.1. Sự thỏa thuận hợp đồng Thỏa thuận là sự gặp gỡ hay thống nhất ý chí của các bên làm phát sinh các hệ quả pháp lý. Đây là yếu tố đầu tiên của hợp đồng. Không thể có hợp đồng nếu không có sự thỏa thuận giữa các bên. Thỏa thuận có thể là trực tiếp bằng những cuộc gặp mặt, trao đổi về vấn đề cần thương lượng, hoặc cũng có thể thông qua các hình thức khác như điện thoại, mail, fax… Bằng chứng của sự thỏa thuận là các giấy tờ như biên bản thỏa thuận, hoặc các giao dịch, hành động cụ thể… biểu hiện sự thống nhất ý chí của các bên. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ được coi là hình thành khi đã đạt được sự thỏa thuận tại những điều khoản cơ bản. Các bên phải xác định được đâu là điểm mấu chốt của vấn đề, từ đó có sự thỏa thuận sâu vào những điều khoản đó, không nên thỏa thuận chung chung, thỏa thuận về những vấn đề thứ yếu, vừa không hiệu quả vừa làm mất thời gian của các bên. Các thỏa thuận được hình thành một cách hợp pháp thì sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với người xây dựng nên các thỏa thuận. Một thỏa thuận tạo nên một bản hợp đồng đòi hỏi phải có: - Sự thống nhất ý chí nội tại, tức là ý chí bên trong và hành vi bên ngoài của bản thân chủ thể; - Ý chí của các bên gặp nhau. 7 Mọi nội dung thỏa thuận không phù hợp với ý chí thực của các bên có thể và cần phải dẫn đến việc không thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng. Tuy nhên, ý chí là một phạm trù rất khó nắm bắt. Việc “nói vậy mà không phải vậy” là một hiện tượng khá phổ biến trong thực tiễn. Trong hợp đồng, có thể do nhận thức, hiểu biết, thậm chí do những mưu đồ riêng của các chủ thể, hay có thể do sự không rõ ràng của ngôn từ mà việc thực hiện hợp đồng đôi khi gặp khó khăn. Do đó, yếu tố thỏa thuận luôn được đặt ra và dễ gây tranh cãi nhất. Cũng cần lưu ý: Hợp đồng là sự thỏa thuận, nhưng không phải bất cứ thỏa thuận nào cũng là hợp đồng. Và cũng không cần sự thỏa thuận trực tiếp mới có quan hệ hợp đồng, thỏa thuận có thể ngầm định xét theo hoàn cảnh. Bởi vậy, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian, các bên tham gia,… tất cả phải được xem xét gắn liền với thỏa thuận. Điều này cũng được áp dụng khi xem xét hiệu lực của thỏa thuận. Ví dụ một thỏa thuận được đưa ra trong hoàn cảnh cấp bách, một trong các bên bị đe dọa về tinh thần… thì không thể được xem là một thỏa thuận hợp pháp và có hiệu lực thi hành. - Yếu tố nhận biết về sự thỏa thuận hợp đồng là: Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 1.1.2.2. Mục đích của sự thỏa thuận hợp đồng Một giao dịch khi được tiến hành phải hướng tới những đối tượng nhất định. Điều kiện quan trọng nhất mà các bên cần phải thỏa thuận trước hết cũng là đối tượng của hợp đồng, sau đó mới đi vào thỏa thuận các điều khoản còn lại. Tùy thuộc vào tính chất và nội dung của từng thỏa thuận cụ thể mà chủ đích của nó là khác nhau. Điều 276 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 quy định: “1. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện 2. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự phải được xác định cụ thể 8 3. Chỉ những tài sản có thể giao dịch được, những công việc có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự”. Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Hồi giáo Iran cũng chỉ ra: “Điều 214: Đối tượng của giao dịch nhất thiết phải là tài sản hoặc hành vi mà hai bên đồng ý giao hoặc thực hiện. Điều 215: Đối tượng của hợp đồng nhất thiết có khả năng được sở hữu và nhất thiết bao gồm lợi ích hợp lý và chính đáng Điều 216: Đối tượng của giao dịch không nên mơ hồ trừ trường hợp đặc biệt khi nhận thức chung về vấn đề này là đầy đủ.” Như vậy, chủ đích của sự thỏa thuận bao gồm tài sản hoặc hành vi. Tài sản có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, hành vi có thể là công việc phải làm hoặc công việc không được thực hiện….Những tài sản hay hành vi đó phải là hợp pháp, được xác định cụ thể, đáp ứng được một lợi ích nào đó (vật chất hoặc tinh thần) cho chủ thể có quyền. Đây là nguyên tắc cơ bản mà bất cứ pháp luật của hệ thống nào cũng ghi nhận. Một thỏa thuận hướng đến chủ đích như vậy sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý: xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong thỏa thuận; đáp ứng những nhu cầu hay lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia thỏa thuận. Đây là mục đích của thỏa thuận và cũng chính là cơ sở xác lập mục đích của hợp đồng. Mục đích này sẽ được biểu hiện thông qua chính nội dung của thỏa thuận và áp đặt lên các đối tượng mà thỏa thuận hướng tới. 1.2. Sự thống nhất ý chí hay sự thỏa thuận hợp đồng 1.2.1. Chủ thể của thỏa thuận hợp đồng Đã gọi là “thỏa thuận” thì đương nhiên có sự bàn bạc, trao đổi, thương lượng với nhau. Tùy từng trường hợp cụ thể mà số lượng chủ thể là khác nhau và thông thường là từ hai người trở lên. 9 Trường hợp đặc biệt chỉ có một bên chủ thể. Ví dụ: A giám hộ cho B, quản lý tài sản của B, thiết lập thỏa thuận cho thuê tài sản của B mà A chính là người thuê (trong pháp luật Việt Nam phải có sự đồng ý của người giám sát giám hộ), hay A ủy thác cho B bán tài sản và B cũng chính là người mua…Tuy nhiên dù thực tế là một chủ thể nhưng chủ thế này lại thể hiện với hai tính cách khác nhau, do đó, vẫn có thể coi là hai chủ thể của sự thỏa thuận. Chủ thể của thỏa thuận có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, các tổ chức. - Nếu là cá nhân, phải đảm bảo có đủ năng lực hành vi tham gia thỏa thuận. Tùy từng trường hợp mà xem xét hiệu lực pháp lý của những thỏa thuận do những người bị hạn chế hay chưa đủ năng lực hành vi tạo lập. Bộ luật dân sự của Pháp tại điều 1108 quy định các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, trong đó các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Như vậy, để thỏa thuận trở thành hợp đồng thì cũng đòi hỏi yêu cầu này. Điều 211 BLDS Cộng hòa Hồi giáo Iran quy định các bên nhất thiết phải ở một độ tuổi nhất định, đã trưởng thành và có nhận thức thích hợp. BLDS Việt Nam cũng có những yêu cầu tương tự. - Nếu là pháp nhân, tổ chức khác thì phải có đủ năng lực để tiến hành giao dịch, đang hoạt động bình thường và hợp pháp tại thời điểm thỏa thuận… Các vấn đề về ủy quyền, đại diện… phải hợp pháp và chính đáng. Chủ thể có thể tự mình tham gia thỏa thuận, hoặc cũng có thể thông qua người đại diện của họ, người này phải có quyền đại diện. Việc biểu lộ ý chí của người đại diện sẽ ràng buộc người được đại diện, bởi thế họ cũng phải có ý chí đại diện và ý chí thỏa thuận, giao kết hợp đồng. Thông thường đại diện được đặt ra khi có bên chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc người mất năng lực hành vi. 1.2.2. Các thành tố của sự thỏa thuận hợp đồng Để tiến hành thỏa thuận, các bên có thể trực tiếp gặp nhau và đàm phán, một trong các bên khởi xướng đàm phán bằng chào hàng. Các bên sẽ thỏa thuận, thống nhất từng điều khoản, khi điều khoản cuối cùng được thống nhất, các bên có thể ký 10 trực tiếp vào hợp đồng. Trong trường hợp này, khó xác định được đâu là chào hàng, đâu là chấp nhận chào hàng. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, các hợp đồng - đặc biệt là hợp đồng thương mại quốc tế - thường được ký kết giữa các bên vắng mặt, sự thống nhất ý chí của các bên thông qua trao đổi thư từ, tài liệu, gọi là trao đổi đề nghị và chấp nhận đề nghị. 1.2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng * Khái niệm Điều 2.1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 định nghĩa: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận”. Bộ luật dân sự của Pháp thì quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là quyết định đơn phương có chủ ý của một người bày tỏ ý định giao kết hợp đồng theo những điều kiện xác định với một hay nhiều người khác” [23,tr.27]. Định nghĩa này có phần hơi khác so với định nghĩa trên, nhưng về cơ bản cũng nói được bản chất của lời đề nghị, nó còn chỉ ra đề nghị không chỉ được gửi đến một người cụ thể mà có thể với cả nhiều người. Tóm lại, đề nghị giao kết hợp đồng là một đề nghị bày tỏ rõ ý định muốn giao kết hợp đồng, có nội dung xác định và được gửi tới những đối tác đã được xác định. Bên đề nghị còn phải chịu sự ràng buộc về đề nghị đó. * Đặc điểm của đề nghị Đề nghị giao kết hợp đồng thực chất là một hành vi pháp lý đơn phương. Hành vi này do bên đưa ra lời đề nghị thực hiện, hoàn toàn xuất phát từ chủ ý đơn phương của người đó, làm phát sinh một số hệ quả pháp lý nhất định đối với bản thân người đó mà không thể làm phát sinh nghĩa vụ đối với bên nhận được đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức cụ thể: văn bản, lời nói, hành vi cụ thể… 11 Đề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, không được mang tính nước đôi, nghĩa là nội dung của nó phải thể hiện rõ ý muốn giao kết hợp đồng của bên đưa ra đề nghị, không được có sự thay đổi, thất tín trong một thời hạn nhất định, và chỉ cần hành vi chấp nhận đề nghị của bên kia là đủ để giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng phải hướng tới đối tượng cụ thể, có thể là một người hoặc một nhóm người, thậm chí cũng có thể hướng tới công chúng nói chung; có kèm theo hoặc không kèm theo thời hạn trả lời. Ví dụ: Carlill v. Carbolic Smoke Ball Company [1893] 1 QB 256: Bị đơn là người sản xuất “smoke ball” đã quảng cáo như sau trên một số tờ báo: “Carbolic Smoke Ball Company sẽ trả 100 bảng cho bất kỳ ai mắc phải cúm, cảm hay bất kỳ bệnh nào bị gây ra bởi nhiễm lạnh sau khi đã dùng carbolic smoke ball phù hợp với chỉ dẫn kèm theo. 1000 bảng đã được gửi tại Alliance Bank, Regent Street minh chứng cho sự thành thật của chúng tôi trong vấn đề này”. Tin tưởng vào quảng cáo, bà Carlill đã mua hàng và sử dụng phù hợp với chỉ dẫn. Thế nhưng bà vẫn mắc bệnh cúm, nên bà kiện đòi 100 bảng từ Carbolic Smoke Ball Company. Bị đơn lập luận hợp đồng như vậy đã lập với cả thế giới và điều đó là không thể. Toà án Anh Quốc khẳng định: Đề nghị như vậy được xem là đề nghị với cả thế giới và nó ràng buộc khi có ai đó tới và thực hiện điều kiện như quảng cáo. [Sir William R. Anson, Principles of the English Law of Contract and of Agency in its Relation to Contract, Twenty- second edition, Oxford at the Clarendon Press, 1965, p. 41; Daniel Khoury, Yvonne S Yamouni, Understanding contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart, Melbourne, Perth, 1989, p. 20] * Điều kiện của đề nghị Thứ nhất, đề nghị phải đủ cụ thể, rõ ràng để cho phép hình thành hợp đồng khi được chấp nhận. Đề nghị giao kết hợp đồng là nền tảng cho hợp đồng trong tương lai, bởi thế phải nêu rõ nội dung chủ yếu, các điều khoản cơ bản của hợp đồng. Tuy nhiên, để 12 đảm bảo tính linh hoạt của các quan hệ tư, “nhà làm luật không thể và cũng không cần xác định một cách cứng nhắc những nội dung nhất định mà một đề nghị giao kết hợp đồng phải bao gồm” [28,tr.161]. Việc xem xét tính cụ thể của một đề nghị tùy thuộc vào mong muốn bị ràng buộc bởi hợp đồng của người đề nghị và người chấp nhận; và những điều khoản có thể xác định bằng việc diễn giải ngôn ngữ của hợp đồng, xác định theo tập quán, theo ý chí chung của các bên….Thực tế một đề nghị thiếu cụ thể có thể được khắc phục bằng nhiều cách như dẫn chiếu đến các quan hệ hợp đồng đã có giữa các bên, các điều khoản mẫu đã được thừa nhận, tình hình thị trường vào thời điểm ký kết…. Tuy nhiên, những phân tích trên không làm mất đi đặc điểm về tính xác định của đề nghị. Lời đề nghị đưa ra vẫn phải cụ thể, rõ ràng, có đủ cơ sở để ràng buộc trách nhiệm đối với bên đề nghị. Nếu thiếu đi đặc điểm này thì đề nghị có thể trở nên vô hiệu, thậm chí không được xem là tồn tại, đặc biệt đối với đề nghị chung (đề nghị gửi tới công chúng rộng rãi). Ví dụ: Sự việc Phán quyết của Tòa án Trong vụ kiện Công ty đại lý bán buôn A thắng kiện. Giữa A và B không có Farris Wholesale, Inc.(bên A) và cửa quan hệ hợp đồng. Hai bên chỉ thỏa hàng bán ga Harvey(bên B), CA 9 thuận rằng A sẽ cung cấp ga cho B khi Idaho,589 F 2d 1979; A thỏa thuận sẽ nào B cảm thấy có nhu cầu và giá cả cung cấp ga cho B khi nào B có nhu cầu hợp lý. Một thỏa thuận như vậy không và cảm thấy giá cả phù hợp. Sau một quy định một nghĩa vụ xác định và cụ thời gian khi B muốn mua thì A từ chối thể của B, vì B có thể thực hiện khi thấy với lý do tại nơi B kinh doanh đã có quá có lợi cho mình. Do thiếu tính xác định nhiều cửa hàng đại lý bán ga cho A. như vậy, cho nên giữa 2 bên không tồn tại quan hệ hợp đồng. [28, tr.162] Thứ hai, thể hiện được ý chí của bên đề nghị mong muốn được ràng buộc nếu bên kia chấp nhận đề nghị đó. 13 Nghĩa là bên đề nghị phải biểu lộ ý định muốn giao kết hợp đồng trong lời đề nghị được đưa ra. Tuy nhiên, ý chí thì khó mà tuyên bố được một cách rõ ràng, do đó cần xem xét đến các yếu tố khác để đánh giá mong muốn này của bên đề nghị như hoàn cảnh, cách thức trình bày đề nghị, đối tượng được đề nghị…. Thông thường một đề nghị được gửi tới 1 hoặc 1 vài người cụ thể thì được chú ý hơn là một đề nghị gửi tới cộng đồng nói chung; và đề nghị càng chi tiết, càng cụ thể thì ý chí muốn giao kết của bên đề nghị cũng được chú ý hơn. Nếu thiếu ý chí muốn xác lập các nghĩa vụ pháp luật của bên đưa ra lời đề nghị thì không được coi là đề nghị giao kết hợp đồng và không dẫn đến trách nhiệm của người đưa ra nó. Thứ ba, phải gửi tới những người mà lời đề nghị nhắm tới. Bên đề nghị đã sẵn sàng cho việc ký kết một bản hợp đồng tương lai, và chủ thể ký kết cũng đã được họ xác định. Do đó đề nghị phải có một đích đến cụ thể và được gửi đi trong thời gian hợp lý. Cũng cần phân biệt giữa đề nghị và “lời mời đàm phán”: Một lời mời đàm phán cũng là một đề nghị, tuy nhiên nó lại khác căn bản so với đề nghị giao kết hợp đồng. Việc phân biệt hai khái niệm này sẽ làm rõ hơn các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng, và cũng phần nào giải thích được tại sao cần có những điều kiện đó thì một lời đề nghị mới được coi là đề nghị giao kết hợp đồng Đề nghị GKHĐ Lời mời đàm phán - Thể hiện rõ ý định giao kết - Chỉ gồm những thông tin chung, chưa hợp đồng với 1 bên đã được xác định cụ thể - Thể hiện việc chịu sự ràng buộc về đề - Chưa thể hiện rõ nghị đối với bên đã được xác định - Chịu sự ràng buộc về trách nhiệm - Không có sự ràng buộc pháp lý, ngoại pháp lý trừ nghĩa vụ thiện chí,trung thực - Nếu được chấp nhận thì hợp đồng sẽ - Nếu được chấp nhận thì không đủ để được giao kết giao kết hợp đồng mà chỉ đưa tới kết quả các bên đồng ý đàm phán về hợp đồng 14 Để một tuyên bố tạo thành một lời đề nghị giao kết hợp đồng, nó nhất thiết phải làm rõ rằng người lập ra nó có ý chí bị ràng buộc pháp lý bởi sự chấp thuận của người khác. Nếu không có ý chí như vậy có thể được biểu lộ, thì tuyên bố được lập, dù nó có thể là bất cứ thứ gì khác, không tạo thành một lời đề nghị giao kết hợp đồng. Giấy báo giá, catalogue, đấu giá… đều là lời mời đàm phán. Thực tế việc phân chia ranh giới giữa đề nghị giao kết hợp đồng và lời mời đàm phán thường rất mập mờ, phải dựa vào tình tiết của từng vụ việc cụ thể. Ví dụ: Khi một công ty kêu gọi mọi người mua cổ phần của công ty thì chỉ là lời mời thương thảo, người muốn mua mới là người đưa ra đề nghị, công ty có quyền đồng ý bán hoặc không. Nhưng khi công ty chào bán cổ phần mới thì cổ đông phổ thông có quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán với một tỷ lệ nhất định, lúc này thư của công ty thông báo cho các cổ đông quyền ưu tiên mua cổ phần của họ được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, chỉ cần cổ đông chấp nhận mua thì hợp đồng được xác lập mà công ty không có quyền từ chối. * Hiệu lực của đề nghị Đề nghị được đưa ra sẽ có ý nghĩa bắt buộc đối với bên đề nghị. Tuy nhiên trách nhiệm này không phải là vô hạn mà tùy thuộc vào hiệu lực của lời đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng nếu thỏa mãn các điều kiện kể trên thì sẽ có hiệu lực vào thời điểm được gửi tới cho người được đề nghị. - Đề nghị có thời hạn và đề nghị không có thời hạn Với đề nghị có kèm thời hạn trả lời thì đó là thời hạn có hiệu lực của đề nghị, trong khoảng thời gian này, người nhận có quyền chấp nhận và hợp đồng sẽ được giao kết. Đây cũng là thời gian ràng buộc trách nhiệm của bên đưa ra lời đề nghị, bên đề nghị không được giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong khi chờ bên được đề nghị trả lời. Trường hợp đề nghị không kèm thời hạn trả lời thì cũng phải xác định một khoảng thời gian hợp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Khoảng thời gian này tùy từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào đối tượng của hợp đồng, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan