Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật tục và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng n...

Tài liệu Luật tục và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người êđê ở các tỉnh tây nguyên việt nam

.PDF
221
596
109

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI HỒNG QUÝ LUËT TôC Vµ ¶NH H¦ëNG CñA LUËT TôC §èI VíI THùC HIÖN PH¸P LUËT TRONG CéNG §åNG NG¦êI £§£ ë C¸C TØNH T¢Y NGUY£N VIÖT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Bùi Hồng Quý MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình đã được nghiên cứu có liên quan đến Luận án 1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu, những vấn đề Luận án tiếp tục nghiên cứu, các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu 9 9 26 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LUẬT TỤC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT TỤC ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của luật tục trong đời sống xã hội 2.2. Pháp luật và quan hệ giữa pháp luật với luật tục 2.3. Thực hiện pháp luật và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật 31 31 44 52 Chương 3: THỰC TRẠNG LUẬT TỤC CỦA NGƯỜI ÊĐÊ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI ÊĐÊ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN 3.1. Khái quát chung về luật tục trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên 3.2. Ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên 67 67 86 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG KHÔNG TÍCH CỰC CỦA LUẬT TỤC ĐỐI VỚI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI ÊĐÊ Ở CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 4.1. Quan điểm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng không tích cực của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam giai đoạn hiện nay 4.2. Các giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng không tích cực của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam giai đoạn hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ Đà CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 118 118 129 153 155 156 169 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND : Hội đồng nhân dân PBGDPL : Phổ biến, giáo dục pháp luật QPPL : Quy phạm pháp luật TAND : Toà án nhân dân TGPL : Trợ giúp pháp lý UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật tục có nguồn gốc từ phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng tộc người; trên thế giới, luật tục còn được gọi là luật dân gian, luật bản địa..., và khi được nhà nước thừa nhận như là một nguồn của pháp luật thì được gọi là tập quán pháp. Luật tục là một dạng quy phạm xã hội, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, luật tục ra đời, điều chỉnh các quan hệ xã hội từ trước khi có nhà nước, có pháp luật và tồn tại song hành cùng pháp luật cho đến ngày nay. Trong tiến trình đó, với vai trò quan trọng của luật tục trong việc duy trì trật tự xã hội, nên kể từ khi mới ra đời, nhà nước đã lựa chọn những luật tục - phong tục, tập quán phù hợp với yêu cầu quản lý xã hội để nâng lên thành pháp luật. Hiện nay, có rất nhiều quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau thừa nhận phong tục, tập quán là nguồn của pháp luật. Và trong xu thế xã hội loài người ngày càng văn minh, quyền con người, quyền tự quyết của quốc gia, dân tộc ngày càng được tôn trọng, thì vấn đề đa dạng nguồn pháp luật, đa dạng các phương thức giải quyết các mối quan hệ trong xã hội, đặc biệt là các phương thức hòa giải, tự quản, tự cam kết và tự thực hiện những điều đã cam kết... càng được đề cao. Do đó, có thể khẳng định, luật tục đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Ở Việt Nam, với đặc thù là một quốc gia đa dân tộc, có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, nên rất đa dạng và phong phú về phong tục, tập quán. Dưới các triều đại phong kiến và thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, các hương ước làng xã, các phong tục, tập quán và luật tục đã đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung, thậm chí thay thế pháp luật, góp phần duy trì sự ổn định của xã hội. Sau năm 1945, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong một vài giai đoạn lịch sử, chúng ta không thừa nhận tập quán là một loại nguồn của pháp luật. Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Quan điểm chủ đạo cho quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020 là phải "Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu 2 có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại của hệ thống pháp luật" [26]; một trong những giải pháp về xây dựng pháp luật được Nghị quyết đề ra là nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng tập quán..., góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật. Trên thực tế, một số lĩnh vực pháp luật nước ta, như dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình..., phong tục, tập quán đã được thừa nhận và đảm bảo thực hiện từ phía Nhà nước, với những nguyên tắc nhất định. Ở phương diện rộng hơn, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp hiện hành nước ta (Hiến pháp năm 2013) khẳng định: "Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại" (Khoản 1 Điều 60) [75]; và "... Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình" (Khoản 3 Điều 5) [75]. Những nội dung Hiến định đó, vừa gợi mở, vừa đặt ra yêu cầu cấp thiết về vấn đề nghiên cứu bản sắc, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán và luật tục các dân tộc Việt Nam. Thực tế ở nước ta hiện nay, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Mặc dù hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong xã hội ngày càng tăng, nhưng nhìn tổng thể, phong tục, tập quán và luật tục vẫn có một vai trò không thể thay thế trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nên có nhiều ảnh hưởng đối với thực hiện pháp luật của người dân, nhất là ở nông thôn, các cộng đồng dân tộc thiểu số và đặc biệt là với những lĩnh vực mà pháp luật chưa hoặc không điều chỉnh được. Bên cạnh đó, tuy việc nghiên cứu luật tục trong mối quan hệ với pháp luật không phải là vấn đề mới ở Việt Nam, nhưng nhìn chung còn ít người quan tâm; những nghiên cứu cho đến nay mới chỉ tiếp cận, khai thác khía cạnh hẹp nào đó hoặc đề cập chung chung, khái quát, mà chưa nghiên cứu, giải quyết một cách đầy đủ và toàn diện về mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục trong quản lý xã hội, cả về mặt lý luận và thực tiễn. Đó cũng là nguyên nhân của việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật ở nông thôn và cơ sở thời gian qua còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết. Do vậy, việc nghiên cứu luật tục một cách có hệ thống trong quan hệ với pháp luật là một yêu cầu đặt ra hiện nay; việc hiểu đúng giá trị của luật tục, phát huy được những yếu tố tích cực của luật tục là hết sức cần thiết, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý xã hội, quản lý cộng đồng của chính quyền, 3 tạo nên sự ổn định và phát triển ở khu vực nông thôn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tây Nguyên là vùng đất phía Tây của Nam Trung bộ, gồm 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng; có 12 dân tộc tại chỗ cư trú từ lâu đời (Gia Rai, Êđê, Chu Ru, Raglai, Ba Na, Xơ đăng, Giẻ-Triêng, Brâu, Rơ măm, Mạ, M’nông và Cơ Ho); mỗi dân tộc tại chỗ đều có luật tục riêng, trong đó có những luật tục khá nổi tiếng, như luật tục Êđê, luật tục M’nông, luật tục Gia Rai, luật tục Stiêng, luật tục Ba Na, luật tục Mạ..., tạo nên kho tàng đa dạng và phong phú hệ thống luật tục tại đây. Dân tộc Êđê hiện nay có 330.000 người, xếp thứ 11 về dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và đứng thứ hai trong số các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên (chỉ sau dân tộc Gia Rai), cư trú chủ yếu và tập trung tại tỉnh Đắk Lắk (gần 300.000 người), một bộ phận (khoảng hơn 30.000 người) cư trú tại vùng giáp ranh thuộc các tỉnh Phú Yên, Đắk Nông, Gia Lai... Do cư trú kề cận nhau, có nhiều buôn làng cộng cư từ lâu đời, nên giữa dân tộc Êđê với dân tộc Gia Rai (cư trú tập trung ở tỉnh Gia Lai và tỉnh Đắk Lắk, có số dân đông nhất trong số các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên) và dân tộc M’nông (cư trú tập trung ở tỉnh Đắk Nông và tỉnh Đắk Lắk) có rất nhiều điểm tương đồng trong phương thức sản xuất, canh tác, trong tổ chức xã hội và trong sinh hoạt cộng đồng; nhiều phong tục tập quán thấy ở dân tộc Êđê thì cũng thấy ở người Gia Rai, người M’nông và ngược lại; ba dân tộc này cũng dễ dàng hiểu được ngôn ngữ của nhau và có rất nhiều truyền thuyết chung cho cả ba tộc người này... Điều đó có nghĩa là, ở những phạm vi nhất định, các yếu tố cơ bản về phong tục, tập quán và luật tục của dân tộc Êđê cũng là sự đại diện cho dân tộc Gia Rai, dân tộc M’nông và thậm chí là nhiều dân tộc tại chỗ khác ở Tây Nguyên. Do đó, có thể nói, là sản phẩm tinh thần, là truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán được đúc kết qua quá trình lịch sử lâu đời của cộng đồng người khá đông đảo, luật tục Êđê được coi là điển hình tương đối của các tộc người tại chỗ ở Tây Nguyên. Từ những lý do và nhận thức trên đây, chúng tôi chọn đề tài "Luật tục và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam" để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ Luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của Luận án là nhằm xây dựng và hoàn thiện các giải pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng không tích cực của 4 luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê (cũng như các dân tộc tại chỗ khác) ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam một cách khả thi và có hiệu quả. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, Luận án hướng đến giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau: - Điểm luận về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Luận án, qua đó xác định những phạm vi, lĩnh vực đã được nghiên cứu và mức độ nghiên cứu; những vấn đề Luận án tiếp tục nghiên cứu. - Phân tích cơ sở lý luận về luật tục và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng luật tục của người Êđê và ảnh hưởng của chúng đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên. - Xác định quan điểm và hệ thống giải pháp bảo đảm việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng không tích cực của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Việc nghiên cứu Luận án được thực hiện trên đối tượng là luật tục của dân tộc Êđê, bao gồm luật tục trong xã hội truyền thống và sự hiện diện, tồn tại của luật tục trong các buôn làng người Êđê hiện nay; nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê hiện nay (các yếu tố ảnh hưởng của luật tục và luật tục Êđê đối với thực hiện pháp luật trong Luận án, được đề cập ở hai phương diện là tích cực và không tích cực). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước và pháp luật, vai trò của luật tục trong quản lý xã hội trước đây, hiện nay và xu hướng phát triển của thời đại; luật tục của người Êđê và những vấn đề nhằm phát huy vai trò tích cực của luật tục đối với quá trình thực hiện pháp luật, mà cụ thể là được tiến hành thông qua các hình thức cơ bản của thực hiện pháp luật (tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật) và các lĩnh vực quan hệ xã hội chủ yếu (duy trì trật tự cộng đồng, hôn nhân và gia đình, dân sự, hành chính, hình sự, bảo vệ tài nguyên - môi trường...) trong cộng đồng người Êđê. 5 Về không gian và thời gian: Luận án được nghiên cứu tại những địa bàn cư trú lâu đời và tập trung nhất của cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, như đã đề cập trên đây, người Êđê hiện nay cư trú tập trung đông nhất là ở tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông (chiếm đến 92% tổng số người Êđê của cả nước) [5, Biểu 5], do đó Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu ở hai tỉnh này. Việc khảo sát, điều tra xã hội học, chủ yếu thực hiện tại các buôn làng người Êđê sinh sống, trong đó chú trọng đối tượng là người dân, các già làng, những người có uy tín, am hiểu luật tục trong cộng đồng, đặc biệt là những vụ việc áp dụng luật tục cụ thể đã diễn ra và những người có liên quan; việc thu thập tư liệu, số liệu được thực hiện ở các cơ quan, tổ chức có liên quan, chú trọng các ban tự quản, tổ hòa giải ở khu dân cư của người Êđê. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật; các học thuyết, quan điểm của các nhà tư tưởng tiến bộ khác về nhà nước và pháp luật hiện đại, đặc biệt là về nhà nước pháp quyền, về tập quán pháp và về cơ chế tự quản của cộng đồng... 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận Mác - Lênin và các phương pháp chủ yếu sau đây: - Phương pháp thống kê, tổng hợp và phân tích tài liệu: Được sử dụng để thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài Luận án, bao gồm các văn kiện của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu về văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên đã được công bố trong và ngoài nước; đặc biệt là sử dụng các tư liệu, số liệu thống kê chính thức, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật hiện hành của Nhà nước, các báo cáo của cơ quan chức năng..., để minh chứng cho những luận điểm nghiên cứu của Luận án. Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu toàn bộ nội dung Luận án, nhất là Chương I, Chương II và Chương III. - Phương pháp điền dã dân tộc học: Được chúng tôi coi trọng trong quá trình nghiên cứu trên thực địa, bao gồm các thao tác cơ bản như: Quan sát tham dự, quan sát trực tiếp, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. 6 + Trong quá trình điền dã, chúng tôi cũng đã sử dụng phương pháp quan sát tham dự và quan sát trực tiếp, để cùng trao đổi, cùng thị sát với người dân để có thể thu thập các thông tin về cuộc sống của họ, trong đó có các thông tin về văn hóa xã hội và những vấn đề nhạy cảm có liên quan; để đánh giá các khía cạnh đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội của các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, đặc biệt là dân tộc Êđê - đối tượng nghiên cứu chính của đề tài. + Để tiến hành trực tiếp phỏng vấn sâu người dân và cán bộ nơi người Êđê sinh sống, chúng tôi đã lựa chọn các thông tín viên chủ chốt gồm chính những người dân tộc tại chỗ, những người tham gia công tác chính quyền các cấp và các già làng, trưởng buôn làng, người có uy tín trong cộng đồng. Nội dung phỏng vấn được chúng tôi chuẩn bị trước bằng Đề cương với những câu hỏi được xây dựng theo nguyên tắc gợi ý để người trả lời có nhiều lựa chọn khi đưa ra quan điểm, ý kiến của mình một cách khách quan nhất về vấn đề được hỏi. Những vấn đề chính trong Bảng phỏng vấn sâu đề cập tới là những vấn đề mà bảng hỏi định lượng không thể giải quyết được một cách triệt để hoặc sâu sắc. - Phương pháp điều tra xã hội học: Được thực hiện thông qua Bảng hỏi chuẩn bị sẵn. Nguyên tắc chọn mẫu: Theo phương pháp ngẫu nhiên. Trong cơ cấu mẫu có chú ý tới các nhóm đối tượng khảo sát: Nhóm người dân tộc tại chỗ và nhóm người dân tộc mới đến. Phương pháp trưng cầu ý kiến: Dùng Bảng hỏi trực tiếp với những người được trưng cầu ý kiến, theo nguyên tắc số phiếu phát ra phải lớn hơn số phiếu dự kiến thu về ít nhất là 10%... Kỹ thuật phân tích và xử lý thông tin, số liệu: Các số liệu định lượng được xử lý bằng công cụ phần mềm hỗ trợ SPSS for Windows; các thông tin định tính được kết hợp phân tích, đối chiếu cùng số liệu định lượng nhằm bổ sung cho nhau, tăng tính xác thực của thông tin, số liệu thu thập được. Phương pháp điền dã dân tộc học và phương pháp điều tra xã hội học trên đây, được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu Chương III và Chương IV Luận án (Thông tin cơ bản về thực hiện hai phương pháp nghiên cứu này tại Mục I Phụ lục 06). - Phương pháp chuyên gia: Được thực hiện qua các cuộc trao đổi trực tiếp với các chuyên gia làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và thực tiễn về pháp luật và luật tục; những người có nhiều trải nghiệm khi nghiên cứu về văn hóa - xã hội Tây Nguyên, cũng như những đánh giá của họ về tác động của các yếu tố văn hóa - xã hội ở Tây Nguyên đến sự ổn định và phát triển; phương pháp này cũng nhằm thu 7 thập ý kiến của lãnh đạo chính quyền các cấp, các ban, ngành trong việc thực thi chính sách từ Trung ương xuống địa phương, làm cơ sở đối sánh với những thông tin, tư liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp này là sự bổ trợ cho các phương pháp nêu trên đây trong quá trình nghiên cứu toàn bộ nội dung Luận án. 5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận án Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định trên đây, Luận án có những kết quả nghiên cứu mới sau đây: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu cả ở phương diện lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục và ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay. Luận án phân tích làm rõ thêm những vấn đề về luật tục Êđê trong xã hội truyền thống và hiện nay; làm rõ các yếu tố và thực trạng ảnh hưởng của luật tục đến thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê; chỉ ra những yếu tố, nội dung, phạm vi ảnh hưởng tích cực và không tích cực của luật tục đến thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên. Bên cạnh đó, Luận án đánh giá những nguyên nhân chủ yếu và đưa ra được những quan điểm, giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm từng bước phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng không tích cực của luật tục đến thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 6.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án góp phần chỉ rõ những đặc điểm cơ bản của luật tục, luật tục Êđê và vị trí, vai trò của nó trong điều chỉnh quan hệ cộng đồng; nhận diện mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục. Kết quả nghiên cứu của Luận án đưa ra cách nhìn đầy đủ về truyền thống, thói quen tâm lý trong đồng bào dân tộc Êđê nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung; góp phần làm phong phú thêm lý luận nhà nước và pháp luật về mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác; bổ sung cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. 8 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần đánh giá thực trạng, rút ra những giá trị tích cực, những mặt hạn chế của luật tục Êđê trong quản lý xã hội trên địa bàn nghiên cứu; tìm ra những giá trị của luật tục cùng những giải pháp khả thi để có thể sử dụng luật tục hỗ trợ cùng pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội vùng nông thôn - cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; làm cơ sở cho rà soát, hệ thống hóa, phát huy những quy phạm luật tục phù hợp, đưa vào các hương ước, quy ước khu dân cư, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và loại bỏ những quy phạm mang tính hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan đang tồn tại trong luật tục, nâng cao ý thức thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê nói riêng và các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên nói chung. Luận án có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong việc giảng dạy, đào tạo, tập huấn chuyên sâu cho cán bộ; trong xây dựng chính sách về dân tộc của Đảng và Nhà nước; trong quản lý xã hội, đảm bảo an ninh nông thôn, đưa pháp luật vào cuộc sống... vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay và trong những năm tới. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Luật tục vừa có vai trò quản lý xã hội, vừa chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa dân gian, tín ngưỡng tôn giáo, điều hòa các quan hệ xã hội của cộng đồng... Chính vì thế, từ rất sớm đã có nhiều nhà quản lý, nhiều nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu luật tục với nhiều phương diện và góc độ khác nhau. Trong phạm vi của Luận án, chúng tôi tập trung điểm luận tình hình nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ luật học, xã hội học pháp luật và nhân học pháp luật..., về luật tục và vai trò của luật tục đối với đời sống xã hội; về mối quan hệ và sự ảnh hưởng của luật tục nói chung, luật tục Êđê nói riêng đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng dân cư ở khu vực Tây Nguyên. 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH Đà ĐƯỢC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về luật tục, luật tục Êđê và vai trò của luật tục đối với đời sống xã hội Thứ nhất, trên thế giới, vấn đề luật tục sớm được đề cập tại các nước châu Âu. Đó là sự hiện diện của các tập quán được luật hóa trong luật La Mã, khởi đầu là Bộ luật 12 bảng - vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên (Đây là một trong những văn bản luật ra đời sớm nhất và mãi cho đến thế kỷ XIX vẫn được xem là nguồn luật pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu (ngay các Bộ luật Dân sự hiện đại, như Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Áo cũng hình thành trước tiên từ Luật La Mã)) [121]. Tuy vậy, theo nhiều nghiên cứu, trên thế giới luật tục được giới học giả đặc biệt quan tâm nghiên cứu một cách chính thức kể từ cuối thế kỷ XVIII. G. Condominas (một nhà nghiên cứu người Pháp) cho biết, chính quyền thực dân trước đây có ý định tập hợp các bài thơ luật tục thành một dạng luật để áp dụng, những người đi đầu vận động cho công việc này có C. Van Vollenhoven và B. Ter Haar đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu lớn [112, tr.55-56]. Nguyễn Thị Hiền, khi tiếp cận luật tục cũng cho rằng, ở phương Tây luật tục đã được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX [112, tr.188]... Từ đầu thế kỷ XX, xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về luật tục của các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở châu Phi và châu Á, do các nhà 10 nghiên cứu phương Tây thực hiện. Cũng theo Nguyễn Thị Hiền, khi thực dân Đức, Pháp và Anh đặt ách đô hộ một số nước ở hai châu lục này, thì một trong những vấn đề căng thẳng là mâu thuẫn giữa luật bản địa (luật tục) và luật pháp phương Tây và để giải quyết vấn đề này, một số nước đã công nhận luật tục và kết hợp luật tục với luật pháp trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhất là các quan hệ dân sự, hôn nhân, và gia đình [112, tr.188-189]. Ở châu Phi, có công trình nghiên cứu: "African Law and Legal Theory" (Luật châu Phi và lý thuyết pháp luật) của Woodman [160], Gordon R và A. O. Obilade, đã đề cập đến nhiều vấn đề về luật tục trong mối tương quan với luật pháp, trong đó phần lớn nội dung đề cập tới bản chất của luật tục châu Phi, luật tục trong hệ thống pháp luật của nhà nước... [160]. Bên cạnh đó, Ngô Đức Thịnh cho biết còn có công trình của Y. C. Bekker: "Luật tục Nam phi", đề cập đến các khía cạnh quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình, quyền thừa kế, quyền sở hữu... [99, tr.17]. Ở châu Á, vốn có nhiều quốc gia chịu sự đô hộ bởi nhà nước thực dân, vấn đề nghiên cứu luật tục được người Anh, người Pháp quan tâm từ rất sớm ở Ấn Độ, Inđônêxia, Malayxia... và nhất là ở Việt Nam. Ngô Đức Thịnh cũng cho rằng, công trình nghiên cứu: "Asian indigenous law in Interaction with Received law" (Luật bản địa châu Á trong mối quan hệ tương hỗ với luật thành văn) của Masaji Chiba [154], bao gồm nhiều chương viết về luật tục của nhiều dân tộc và quốc gia khác nhau, như người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản [99, tr.17-18]. Tại Ấn Độ, có công trình: "Luật tục bộ lạc ở Đông Bắc Ấn Độ" của Shinbani Roy và S. H. M. Rizvi; hay "Đất đai công cộng và luật tục" của Minoti Charcravarty-Kaul, đề cập đến vấn đề sở hữu đất đai theo luật tục ở Bắc Ấn Độ... Inđônêxia và Malayxia là hai quốc gia hiện còn sử dụng luật tục trong đời sống thường ngày của nhiều dân tộc, nên đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu đến từ Hà Lan (Von Benda-Beckmann K và Von Benda-Beckmann F), Mỹ (John Ambler)... [99, tr.18], tiêu biểu có tác phẩm ADAT Law in modern Indonesia (Luật ADAT ở Inđônêxia hiện nay) của M. B. Hooker [153]. Các nhà khoa học Việt Nam cũng có những nghiên cứu luật tục của các nước trong khu vực, như tác phẩm: "Một số luật tục và luật cổ ở Đông Nam Á" của Vũ Quang Thiện, Tô Nguyễn [97] (sưu tầm, biên dịch và giới thiệu: Luật tục của người Chin (ở Myanma và một phần đất tiếp giáp ở Ấn Độ) Ka-chin (ở Myanma và một phần đất tiếp giáp ở Trung Quốc); Bộ luật Lào cổ; Bộ luật Luông Pha-băng của 11 người Lào; Bộ luật hôn nhân và thừa kế của người Gia-va Hồi giáo ở Malayxia và Inđônêxia) [97]. Công trình: "Family law and Customary Law in Asia: A contemporary Legal Perspective" (Luật gia đình và Luật tục ở châu Á: Một góc nhìn pháp lý hiện nay) của David C. Buxbaum [145] đã nghiên cứu một cách hệ thống về luật gia đình và luật tục của nhiều quốc gia châu Á đặt trong mối quan hệ với pháp luật đương đại; và công trình: "The Nature of Customary Law - Legal, Historical and Philosophical Perspectives" (Bản chất của Luật tục - Quan điểm pháp lý, lịch sử và triết học) của Amanda Perreau - Saussine và James B. Murphy [144], nghiên cứu về bản chất của luật tục trên cơ sở các quan điểm pháp lý, lịch sử và triết học. Thứ hai, ở Việt Nam, với đặc điểm có nhiều dân tộc cùng sinh sống nên đa dạng về phong tục tập quán, đặc biệt là có rất nhiều luật tục được hình thành từ lâu đời và tồn tại với tính ổn định cao; cùng với đó, với lịch sử gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nên việc nghiên cứu luật tục của các dân tộc ở vùng đất này (gồm cả hương ước của người Việt) đã được người Pháp và các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khác quan tâm từ đầu thế kỷ XX cho đến nay. Tiêu biểu như: Một là, ở góc độ luật học ứng dụng: Ngày 30/7/1923, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier ra Thông tri số 578-ca, yêu cầu thu thập và ghi chép luật tục để thực thi việc cai trị, kể cả ở người Kinh và các dân tộc thiểu số [99, tr.20], [112, tr.65]. Việc ban hành Thông tri này thể hiện sự quan tâm chính thức của chính quyền thực dân, tuy nhiên, thực tế từ năm 1913, Leopold Sabatier (Ông sinh năm 1877, mất năm 1936, được bổ nhiệm làm đại diện tại Đắk Lắk năm 1912, sau đó làm Công sứ tỉnh này trong gần 14 năm (từ 1915 đến 1929)) đã để công sưu tầm, hệ thống luật tục và đến năm 1927 cho công bố cuốn sách ghi chép luật tục bằng tiếng Êđê (Hdruôm hră klei duê klei bhiăn đưm) [151] (Đến năm 1940, Dominique Antomarchi đã dịch cuốn sách này ra tiếng Pháp và công bố thành cuốn: "Recueil des Cutumes Rhadies du Daclac". So với cuốn xuất bản năm 1927, cuốn sách này có bổ sung hoàn chỉnh hơn, nội dung ghi chép các luật tục của người Êđê ở tỉnh Đắk Lắk, thực chất là các câu nói vần truyền miệng về: Các điều chung về tội, về hình phạt; tội chống lại thủ lĩnh, các tội mà thủ lĩnh phạm phải, tội phạm với các cá nhân, tội trong hôn nhân, tội hình về tranh chấp của cải, đất đai...). Tuy chưa thật hoàn chỉnh và có nhiều nội dung biên soạn theo ý chí của tác giả nhằm mục đích phục vụ việc cai quản của chính quyền do chính Ông làm Công sứ, nhưng có thể 12 nói, đây là công trình sưu tầm, hệ thống và ứng dụng đầu tiên về luật tục ở Việt Nam, nó có vai trò mở đầu cho các các công trình nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và chủ yếu là ở Tây Nguyên sau này. Sau cuốn luật tục Êđê của Leopold Sabatier, có các tác phẩm nghiên cứu luật tục ở Việt Nam và chủ yếu ở Tây Nguyên, như: "Coutumier Stieng" (Luật tục Stiêng) của Theophile Gerber [159] đã ghi chép nội dung luật tục Stiêng. "Nri: Recueil des Coutumes Srê du Haut-Donnai" (Luật tục xét xử theo phong tục tập quán của người Srê và người Mạ vùng thượng nguồn sông Đồng Nai) của Jacques Dournes [149] đã ghi chép bằng tiếng Srê và dịch sang tiếng Pháp luật tục xét xử theo phong tục tập quán của người Srê và người Mạ vùng thượng nguồn sông Đồng Nai. "Coutumier de la tribu Bahnar, des Sedang et des Gia Rai de la Province de Kontum Selon la Coutume appliquée dans les tribunnax" (Luật tục của bộ lạc Bana, Xơ đăng và Gia rai ở tỉnh Kon Tum, theo luật tục áp dụng trong các toà án) của Paul Guilleminet [156] dẫn ra và bình luận những luật lệ tương ứng mà chính quyền thực dân Pháp sử dụng. "Quelques aspects du coutumier (N’ri) des Cau Mae" (Một vài khía cạnh về luật tục (N’ri) của người Mạ) của Jean Boulbet [150] nói về luật tục Mạ. "Tơ lơi djuat: coutumier de la tribu Gia Rai" (Tơ lơi djuat: luật tục của bộ lạc Gia Rai) của Pierre Bernard Lafont [157] đã ghi chép tương đối đầy đủ và trực tiếp từ những người có hiểu biết về luật tục của dân tộc Gia Rai ở tỉnh Gia Lai. Hai là, ở góc độ xã hội học và nhân học pháp luật: tác phẩm: "Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII" của Insun Yu [143], chỉ ra sự khác biệt giữa nguyên lý Nho giáo mà triều Lê nâng lên địa vị thống trị với những phong tục tập quán lâu đời của truyền thống văn hóa Việt Nam. Tác phẩm: "Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh" của Jean Boulbet [42], nghiên cứu về luật tục của dân tộc Mạ và các dân tộc thiểu số khác ở tỉnh Đồng Nai và vùng Tây nguyên. Công trình: "Les peuples Mon-Khmer, trait d’union antre les peuples de l’Asie Centrale et de l’Austronésie" (Các dân tộc Môn-Khmer, gạch nối giữa các dân tộc của châu Á Trung tâm và châu Úc) của P. W. Schmidt [155] nghiên cứu và chỉ ra có sự liên hệ và nhiều điểm tương đồng giữa các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (Ở Việt Nam có đến 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, cư trú ở cả ba miền: Miền Bắc có 5 tộc người, trong đó, 4 tộc người (Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun) cư trú ở các tỉnh Tây Bắc, tộc người Ơ Đu ở Nghệ An; Miền Trung - Tây Nguyên có 15 tộc người (Bru - Vân Kiều, Tà ôi, Cờ Tu, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, H Rê, Gié Triêng, 13 Xtiêng, Co, Chơ Ro, Rơ Măm, Brâu); Nam Bộ là địa bàn cư trú của tộc người Khmer. Các tộc người này đều có lịch sử lâu đời ở Việt nam và Đông Dương. Bên cạnh đặc điểm chung về ngữ hệ, mỗi tộc người có những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán và cả luật tục riêng... [2]) của châu Á và các dân tộc ở châu Úc. Tác phẩm điền dã: "Chúng tôi ăn Rừng đá - Thần Gôo" của G. Condominas [41] về những phong tục tập quán của người M’nông Gar ở Tây nguyên... Công trình: "Người Êđê một xã hội mẫu quyền" của Anne de Hautecloque - Howe [54] đã có cách nhìn thực tế về người Êđê ở Tây Nguyên trong bối cảnh đời sống xã hội, tôn giáo, gia tộc, khế ước hôn nhân và đặc biệt là xã hội mẫu quyền điển hình nhất của dân tộc này, là kết quả của tác giả qua 14 tháng (tháng 4/1961 đến tháng 6/1962) đi điền dã ở Đắk Lắk, nên có thể nói đây là một trong những công trình rất có giá trị và có tính đại diện cao về phản ánh phong tục tập quán cũng như luật tục của người Êđê ở Tây Nguyên. Các tác phẩm: "Rừng người thượng" của Henri Maitre [61]; "Free in the Forest. Ethnohistory of the Vietnamese Central Highland 1954-1976" (Tự do trong rừng. Lịch sử tộc người ở Tây Nguyên Việt Nam 1954-1976) của Gerald Hickey [146]; "Sons of the Mountains. Ethnohistory of the Vietnamese Central Higlands to 1954" (Những đứa con của núi rừng. Lịch sử tộc người ở Tây Nguyên Việt Nam cho đến năm 1954) của Gerald Hickey [147]; "Shatted World. Adaptation and Survival among Vietnam’s Highland Peoples during the Vietnam War" (Một thế giới bị chia cắt. Thích ứng và sinh tồn của các tộc người cao nguyên trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam) của Gerald Hickey [148]..., đã giúp chúng ta có thêm khám phá về vùng Tây Nguyên, với những phong tục tập quán và luật tục đa dạng, phong phú của các cộng đồng người dân tộc thiểu số tại chỗ ở vùng đất này. Phạm Văn Sơn, với Luận án Tiến sĩ: "Research on village covenants in Vietnamese rural communities management" (Nghiên cứu về hương ước thôn bản trong quản lý cộng đồng nông thôn Việt Nam) của Pham Van Son [158] đã nghiên cứu về luật tục, luật dân gian, hương ước ở Việt Nam dưới góc độ của nhân loại học và xã hội học pháp luật, qua đó đã chỉ ra vai trò của hương ước cùng các phong tục tập quán và luật tục đối với quản lý trong xã hội nông thôn; mối quan hệ giữa pháp luật với hương ước và luật tục, phong tục tập quán cùng xu hướng phát triển của chúng... Ba là, với các nhà nghiên cứu trong nước, cho đến nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, trong đợt sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Đắk Lắk, vấn đề luật tục 14 mới được quan tâm đề cập. Trong các cuốn sách: "Văn hóa dân gian Êđê" của Ngô Đức Thịnh, Tô Đông Hải và Đỗ Hồng Kỳ [101] và "Văn hóa dân gian M’nông" của Ngô Đức Thịnh, Tô Đông Hải và Đỗ Hồng Kỳ [102] - là các kết quả của đợt sưu tầm, ngoài các nội dung phản ánh về lịch sử, bản sắc văn hóa tộc người Êđê, M’nông, mỗi cuốn sách đều có một chương viết về luật tục của hai dân tộc này. Tiếp theo đó là các công trình do Ngô Đức Thịnh chủ trì thực hiện, như: Bổ sung, biên dịch và công bố bộ: "Luật tục Êđê - tập quán pháp" [103; 104], nội dung giới thiệu có hệ thống và đầy đủ về luật tục trong xã hội Êđê truyền thống; năm 1998, công bố: "Luật tục M’nông - tập quán pháp" [108] giới thiệu về luật tục trong xã hội M’nông; năm 2004, xuất bản tác phẩm "Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Nam Tây Nguyên" [105] trên cơ sở bổ sung các bộ luật tục đã được người Pháp sưu tầm, giới thiệu nội dung các văn bản luật tục các dân tộc Xtiêng, dân tộc Mạ, và dân tộc Kơ ho; công trình: "Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam" [99]; "Luật tục trong đời sống các tộc người ở Việt Nam" [100] đã khảo sát các khía cạnh khác nhau của luật tục như góc độ tiếp cận, nguồn gốc và bản chất, các hình thức phát triển, nội dung luật tục, việc thực thi luật tục, giá trị của luật tục, luật tục và pháp luật; giới thiệu luật tục Êđê, M’nông ở Tây Nguyên, luật tục Thái ở phía Bắc và hương ước của người Kinh. Phan Đăng Nhật với các công trình: "Luật tục Gia Rai" [69]; "Luật tục với đời sống" [70] đã luận giải luật tục các dân tộc Việt Nam, đặc biệt giới thiệu về xã hội, luật tục dân tộc Gia Rai ở Gia Lai; luật tục và các quy ước văn hóa; luật tục với việc phát triển xã hội hiện nay của các dân tộc thiểu số Việt Nam. "Luật tục người K’ho Lạch" của Krajan Plin [73], giới thiệu về văn hóa xã hội và luật tục của người K’ho Lạch ở tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Nông. Vượt ra ngoài không gian các tỉnh Tây Nguyên là các công trình nghiên cứu về luật tục của dân tộc Chăm và dân tộc Raglai ở các tỉnh Nam Trung bộ. Có thể nói Phan Đăng Nhật, Tô Đông Hải, Nguyễn Thế Sang, Sử Văn Ngọc và Sử Thị Gia Trang..., là những người Việt Nam có công nghiên cứu về cộng đồng người Chăm, người Raglai và văn hóa, luật tục của hai tộc người này [68; 71; 72; 79]. Bùi Quang Thanh, Nguyễn Văn Mạnh, Nguyễn Xuân Hồng và Nguyễn Hữu Thông cũng đã có những nghiên cứu về đặc điểm các dân tộc thiểu số cư trú ở khu vực miền núi các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị (các dân tộc Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng và Co ở Quảng Nam; Tà Ôi, Cơ Tu, Bru-Vân Kiều ở Thừa Thiên Huế, Quảng Trị) [62; 91; 92]. 15 Ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, việc nghiên cứu và sưu tầm luật tục của các dân tộc thiểu số chưa được quan tâm như ở khu vực Miền Trung - Tây Nguyên. Năm 1999, Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng chính thức công bố bộ luật tục Thái (xuất bản lần 2 vào năm 2003), đây là bộ luật tục đầy đủ nhất cho tới nay của dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam, được người Thái ghi chép lại bằng chữ Thái cổ [106; 107]. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong các dân tộc ở Việt Nam Thứ nhất, đối với luật tục của các dân tộc thiểu số: Trong những năm gần đây, khi nghiên cứu về sự ảnh hưởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật, các nhà nghiên cứu thường chú trọng đến những yếu tố có tính thực tiễn. Đặc biệt, gần đây nhất có một loạt đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình Tây Nguyên 3 đã được nghiệm thu, nghiên cứu tổng thể về các lĩnh vực khác nhau, nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, trong đó có rất nhiều đề tài có nội dung nghiên cứu về vai trò và sự ảnh hưởng của luật tục các dân tộc đối với quản lý xã hội ở vùng Tây Nguyên hiện nay (chúng tôi sẽ đề cập rõ hơn về các đề tài này tại Mục 1.1.3). Trong thực tiễn ở nước ta, sau khi có Nghị quyết Trung ương 05 Khóa VII (1993) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), vấn đề quan hệ giữa luật tục, hương ước và pháp luật cũng như vai trò của luật tục, hương ước với quản lý và phát triển nông thôn ở cơ sở được đặc biệt quan tâm nghiên cứu trên khắp cả nước, nhiều hội thảo khoa học về vấn đề này đã được tổ chức ở Tây Nguyên [23; 24]. Khởi đầu là Hội thảo khoa học về "Mối quan hệ giữa luật tục, hương ước và pháp luật hiện hành" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp [136]. Hội thảo thu hút sự tham gia của 10 tỉnh thuộc khu vực Duyên hải Miền Trung - Tây Nguyên và có 13 bài phát biểu cùng tham luận được trình bày. Các ý kiến thống nhất cho rằng cần nghiên cứu, sử dụng luật tục và hương ước vào quản lý cộng đồng và phát triển nông thôn ở cơ sở, góp phần tăng cường tình đoàn kết dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc... Tiếp theo là một loạt các hội thảo, đề tài, công trình khoa học được triển khai, nghiên cứu trên khắp cả nước và tập trung nhất là tại khu vực Tây Nguyên - Trung bộ và khu vực Miền núi phía Bắc, tiêu biểu có: Một là, ở khu vực Tây Nguyên và Trung bộ: Năm 1999, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia và Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Đắk Lắk phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về "Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở 16 Việt Nam" [112] với sự tham gia của 40 nhà khoa học trong nước và 18 nhà khoa học nước ngoài đến từ Pháp, Mỹ, Hà Lan, Inđônêxia, Thuỵ Sỹ, Đức, Nhật Bản và đại diện các Bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trên phạm vi cả nước (Hội thảo nhận được hơn 60 báo cáo khoa học trong và ngoài nước, tập trung vào 4 chủ đề lớn: Có 11 báo cáo tham luận đề cập các vấn đề chung về luật tục và nghiên cứu luật tục; 15 báo cáo tham luận đề cập các vấn đề về luật tục với việc bảo tồn, khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên; 17 báo cáo tham luận đề cập về luật tục và vấn đề quản lý xã hội và văn hóa ở cơ sở; 16 báo cáo tham luận đề cập các vấn đề về luật tục và pháp luật). Hội thảo nhận định luật tục là sản phẩm của xã hội cổ truyền, gắn liền với hình thái kinh tế - xã hội tiền công nghiệp, gắn với cơ cấu xã hội mà ở đó gia đình và buôn làng giữ vai trò then chốt và cơ bản của hệ thống xã hội; luật tục đã từng phát huy vai trò cố kết cộng đồng và điều hòa các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với thiên nhiên; hiện nay, vùng nông thôn nước ta đang trải qua sự biến đổi từ xã hội cổ truyền sang xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh đó, sự tồn tại của luật tục với những hình thức khác nhau, mức độ khác nhau trong các tộc người là một thực tế khách quan; tuy vậy, sự tồn tại của luật tục trong bối cảnh hiện nay luôn thể hiện hai mặt, mặt tích cực là góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội và đó là mặt cơ bản, mặt không tích cực là không phù hợp, thậm chí kìm hãm sự tiến bộ xã hội hiện nay... [112]. Tiếp đến, năm 2001, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia phối hợp với UBND tỉnh Gia Lai tổ chức thành công Hội thảo: "Luật tục - Hương ước và những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên" [113] có hơn 100 đại biểu tham dự, là các nhà khoa học và các nhà quản lý của các cơ quan Trung ương, các tỉnh khu vực Tây Nguyên và Trung bộ. Có 30 báo cáo khoa học được trình bày, tập trung vào ba chủ đề chính: Tổ chức buôn làng và vai trò của buôn làng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và an ninh quốc phòng hiện nay ở Tây Nguyên; Luật tục - hương ước và vai trò của nó trong quản lý cộng đồng buôn làng; Một số cơ chế, chính sách trong phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên. Hội thảo cũng cho rằng cần củng cố và phát triển toàn diện buôn làng, coi đó như là tổ chức xã hội cơ sở để phát triển kinh tế, tổ chức và quản lý xã hội, bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị ở nông thôn các dân tộc Tây Nguyên [113].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan