Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thàn...

Tài liệu Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
92
101
145

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ ANH THẮNG LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ ANH THẮNG LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2018 Tác giả luận văn Đỗ Anh Thắng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ......................................... 8 1.1. Lý luận về Luật sư trong giai đoạn Truy tố ............................................... 8 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số nước về vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố ....................................................... 14 1.3. Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự một số nước . 26 Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 32 2.1. Khái quát tình hình truy tố các vụ án hình sự ở Hà Nội .......................... 32 2.2. Thực tiễn tham gia của Luật sư trong giai đoạn Truy tố tại thành phố Hà Nội ............................................................................................................. 35 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ............................................. 63 3.1. Hoàn thiện các qui định của pháp luật về sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự ........................................................................ 63 3.2. Quán triệt, triển khai và tăng cường hướng dẫn thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ............................................................................................ 66 3.3. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tổ chức Luật sư ............................. 68 3.4. Nâng cao trình độ, năng lực Luật sư ........................................................ 68 3.5. Các giải pháp liên quan đến Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự..... 72 3.6. Các giải pháp khác ................................................................................... 73 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT Bộ Chính trị BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BMNN Bộ máy Nhà nước BTP Bộ Tư pháp KSV Kiểm sát viên LS Luật sư TP Thẩm phán ĐTV Điều tra viên LHP Luật hiến pháp LLS Luật luật sư PLTCLS Pháp lệnh tổ chức luật sư NN và PL Nhà nước và Pháp Luật NN Nhà nước PL Pháp luật TAND Tòa án nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Như chúng ta đã biết Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định trình tự, thủ tục giải quyết một vụ án hình sự, trong đó giai đoạn truy tố có vai trò rất quan trọng trong việc buộc tội và đưa bị can ra trước Tòa án để xét xử. Trong giai đoạn đó, cùng với việc buộc tội của Viện kiểm sát, hoạt động bào chữa cũng được thực hiện, trong đó có hoạt động bào chữa của Luật sư. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng đã chủ trương thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: cải cách tư pháp, cải cách pháp luật, cải cách hành chính. Trong đó cải cách tư pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng ngay từ những năm đầu của thế kỷ XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của Luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của Luật sư trong tố tụng, Nghị quyết đã chỉ rõ: “… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: “… Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp … Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế để luật sư thực hiện tốt tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của luật sư đối với các tổ chức thành viên của mình”. Trên tinh thần Cải cách tư pháp đó, trong những năm vừa qua các Cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Hà Nội đã chủ động, tích cực phối hợp với Luật sư trong công tác giải quyết các vụ án hình sự thông qua việc tạo điều 1 kiện để Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra; thậm chí từ giai đoạn Thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị nghị khởi tố. Hoạt động của Luật sư giúp cho người bị tạm giữ, người bị tình nghi (nghi phạm), bị can, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự được bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo qui định của pháp luật. Với sự tham gia tích cực của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự không chỉ giúp Luật sư thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ thân chủ (bị can, bị hại …) bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Điều đó giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm góp phần giữ vững An ninh chính trị - Trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế; xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự thì vị trí, vai trò và chức năng của Luật sư không phải lúc nào, giai đoạn nào Luật sư cũng được tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện công việc của Người bào chữa trong tố tụng hình sự. Vì trên thực tế có những vụ án hình sự vai trò của Luật sư là rất quan trọng, đóng góp rất lớn vào quá trình tố tụng của vụ án nhưng cũng có những vụ án sự tham gia của Luật sư rất mờ nhạt, thậm chí gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án của các Cơ quan và của Người tiến hành tố tụng. Do vậy việc nghiên cứu để tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm, những tồn tại, hạn chế những nguyên nhân và những vướng mắc, khó khăn của Luật sư khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự nói chung và giai đoạn Truy tố vụ án hình sự nói riêng ở địa bàn thành phố Hà Nội rất cần thiết. Với tất cả những ý nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước năm 1988, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự gần như chưa được quan tâm, nghiên cứu. Phải đến khi Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 và Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 có hiệu lực thi hành thì mới có một số rất ít những công trình khoa học hay các bài viết, chuyên đề nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này. Sau khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Luật sư năm 2006 có hiệu lực thi hành, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi hỏi cần phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, vai trò, hoạt động của Luật sư - Người bào chữa trong tố tụng hình sự mới được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Trong số các công trình nghiên cứu về vị trí, chức năng, hoạt động, địa vị pháp lý, vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự nói chung và trong cụ thể từng giai đoạn tố tụng hình sự nói riêng có thể kể đến: - Đề tài tại nhánh 05 thuộc Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã số KX 04 giai đoạn 2001-2005: “Cải cách tổ chức và hoạt động Bổ trợ tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, do tiến sỹ Nguyên Văn Tuân - Tổng biên tập Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài. - Đề tài cấp Bộ năm 2005: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” do đồng chí Nguyễn Văn Thảo - Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm đề tài. - Luận án tiến sỹ luật học: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hoài năm 2003. - Luận án tiến sỹ luật học: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của tác giả Hoàng Thị Sơn, trường Đại học Luật Hà Nội năm 2003. 3 - Luận văn thạc sỹ luật học: “Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Thị Việt Hà, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Người bào chữa, Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thu Phương, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Vai trò của luật sư - người bào chữa trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phương, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014. - Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Phạm Thế Hùng “Hoạt động của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội năm 2017. Và một số đề tài được đề cập dưới dạng bài viết, chuyên đề, ý kiến trong một số công trình nghiên cứu khoa học về TTHS; trong các Bình luận khoa học về TTHS; trong một số Luận văn của một số tác giả nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung: Các qui định pháp lý và thực tế hoạt động của Luật sư trong TTHS ở Việt Nam nói chung và hoạt động của Luật sư trong giai đoạn khởi tố điều tra hoặc giai đoạn xét xử vụ án. Nhưng lại chưa có đề tài hay chuyên đề nào nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng, hoạt động và đại vị pháp lý của “Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Vì vậy, bằng Luận văn này, tác giả với mong muốn được đề cập đến việc nghiên cứu chi tiết nội dung qui định của Pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng của Luật sư trong TTHS ở Việt Nam; khái quát đánh giá những bất cập, khó khăn phát sinh trong quá trình tác nghiệp của Luật sư trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội Để nghiên cứu và thực hiện Luận văn “Luật sư trong giai đoạn truy tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”, tác giả đã 4 tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pân tích quy định của pháp luật và đánh giá thực tiễn sự tham gia của Luật sư vào tố tụng hình sự nói chung và giai đoạn truy tố vụ án hình sự nói riêng trên địa bàn thành phố Hà Nội (trong thời gian 05 năm từ năm 2012 đến năm 2017) đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự tham giacủa Luật sư trong giai đoạn truy tố vụ án hình sự như: Khái niệm giai đoạn Truy tố vụ án hình sự; khái niệm Luật sư; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự; khái quát về địa vị pháp lý, vai trò và hoạt động của Luật sư trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự; - Nghiên cứu những quy định về bào chữa trong luật nhân quyền quốc tế; - Nghiên cứu về nghề Luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam; - Đánh giá đúng thực tiễn hoạt động bào chữa của Luật sư trong TTHS ở giai đoạn Truy tố vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian 5 năm (từ 2012 - 2017); - Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS. Đồng thời, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quảhoạt động của Luật sư trong giai đoạn truy tố. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các qui định của Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Luật sư, nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Luật sư trong tố 5 tụng hình sự Việt Nam nói chung và giai đoạn Truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng. Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò luật sư vớitư cách người bào chữa cho bị can trong giai đoạn truy tố. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Luật sư với vai trò là người bào chữa trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam gắn với địa bàn thành phố Hà Nội. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động của Luật sư trong trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong 05 năm (2012-2017) và những văn bản quy phạm pháp luật về Luật sư và giai đoạn Truy tố theo tố tụng hình sự trong khoảng thời gian từ năm 1987 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lê nin,Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước và Pháp luật; về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp logic, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế, phương pháp nghiên cứu tài liệu, bản án, hồ sơ vụ án, phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, phương pháp vụ việc điển hình ... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 6 6.1. Về ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận về sự tham gia của Luật sư trong tố tụng hình sự nóichung, trong giai đoạn truy tố nói riêng. 6.2. Về ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của Luận văn có tác dụng đóng góp một phần việc bổ sung, hoàn thiện các qui định của Pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng và địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS nói chung và Luật sư trong giai đoạn Truy tố vụ án hình sự nói riêng; đồng thời giúp cho cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự cũng như Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, cá nhân các Luật sư phát huy các kết quả đã đạt được, khắc phục các hạn chế thiếu sót trong TTHS, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của mình trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về luật sư trong giai đoạn truy tố Chương 2: Thực tiễn hoạt động của Luật sư trong giai đoạn truy tố tại thành phố Hà Nội Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ 1.1. Lý luận về Luật sư trong giai đoạn Truy tố 1.1.1. Khái niệm giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là toàn bộ những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan nhằm tham gia vào việc giải quyết đúng đắn, đảm bảo sự thật khách quan, không bỏ lọt tội phạm. Giai đoạn tố tụng là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một nhiệm vụ tố tụng. Để giải quyết một vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan, đầy đủ và toàn diện thì yêu cầu một vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng. Mỗi giai đoạn tố tụng đều phải có mối liên hệ mật thiết với nhau và truy tố là một trong năm giai đoạn của tố tụng hình sự bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và giai đoạn thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án/quyết định có hiệu lực pháp luật. Truy tố là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó VKS tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Giai đoạn truy tố được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự. Về mặt bản chất, truy tố là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố về hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các 8 quyết định của Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Hay nói cách khác thì giai đoạn truy tố được thực hiện trên cơ sở kết thúc điều tra và đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, trên cơ sở đó Viện Kiểm sát – cơ quan thực hiện truy tố vụ án hình sự sẽ tiến hành các hoạt động chứng minh tiếp theo nhằm làm rõ sự thực khách quan của vụ án, sau đó quyết định vụ án bằng một trong các trường hợp sau: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. 1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự Giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự với tính chất là một bước của qúa trình tiến hành tố tụng nên nhất thiết phải có những đặc điểm chung cơ bản và bắt buộc như sau: Thứ nhất, về thời gian của giai đoạn truy tố: Như đã nêu ở phần 1.1.1, giai đoạn truy tố trong tố tụng hình sự được tính từ khi Viện Kiểm sát nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố của cơ quan điều tra cho đến khi Viện Kiểm sát ra quyết định tố tụng thuộc một trong bốn trường hợp: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. Thời hạn quyết định việc truy tố được quy định tại Điều 240 BLTTHS, cụ thể là thời hạn truy tố được tính : “Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra”. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 9 Thứ hai, chủ thể tiến hành tố tụng duy nhất trong giai đoạn truy tố là Viện kiểm sát, khác với các giai đoạn tố tụng khác có nhiều chủ thể tiến hành tố tụng. Tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Trong đó “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” – Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Như vậy, thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến định Viện kiểm sát nhân dân. Thẩm quyền truy tố của Viện Kiểm sát được quy định cụ thể tại Điều 239 BLTTHS 2015. So với các giai đoạn khác thì ở giai đoạn truy tố Viện Kiểm sát là cơ quan duy nhất tiến hành tố tụng còn trong các giai đoạn khác, chủ thể tiến hành tố tụng có thể là một hoặc nhiều cơ quan, ví dụ: Trong giai đoạn khởi tố thì chủ thể tiến hành tố tụng có thể là cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Hội đồng xét xử (Điều 153 BLTTHS 2015). Ngoài ra có người tham gia tố tụng như bị can, đương sự có quyền và lợi ích liên quan, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự; Thứ ba, về hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng: Trong giai đoạn truy tố, hồ sơ vụ án đã hoàn chỉnh mà Cơ quan điều tra thấy rằng đủ để truy tố bị can ra trước Tòa án. Tuy nhiên, để có đủ cơ sở và đảm bảo việc truy tố, trong giia đoạn này VKS cần nghiên cứu xem xét tất cả những vấn đề mang tính thủ tục tố tụng cũng như những vấn đề thuộc về nội dung vụ án thể hiện qua hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án 10 có tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự không, có còn những hạn chế và thiếu sót nào cần khắc phục hay không để kịp thời ra các quyết định tố tụng cần thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ sơ, khắc phục những vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra, đảm bảo quyết định truy tố bị can đúng đắn, chính xác, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tòa án xét xử, đảm bảo lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Viện Kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần phải xác định các vấn đề như: Vụ án mà cơ quan điều tra đề nghị truy tố có thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát cáp minh hay không? Nếu không thuộc thẩm quyền truy tố của cấp mình thì phải đề nghị viện trưởng VKS chuyển cho VKS có thẩm quyền; Có cần phải cáp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không? Việc điều tra đã đầy đủ, đã hoàn toàn tuân thủ pháp luật cũng như các nguyên tắc của tố tụng chưa? Có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung không? Có căn cứ để ra các quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án hay không? Đã có đủ căn cứ để làm quyết định truy tố bị can chưa?... Việc xác định cụ thể những vấn đề nêu trên để đảm bảo khi ra bất cứ quyết định tố tụng nào trong giai đoạn truy tố thì các quyết định đó phải có căn cứ và hợp pháp, tránh tình trạng quá chú trọng đến việc xác định những vấn đề cần thiết để làm quyết định truy tố mà bỏ qua không xem xét đến các vấn để khác của vụ án dẫn đến việc không đảm bảo được các điều kiện cho tòa án xét xử cũng như ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của bị can, đồng thời cũng hạn chế được tình trạng sau khi đã chuyển cáo trạng cùng hồ sơ vụ án sang cho tòa án lại bị trả lại vì không đủ căn cứ để quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác định các vấn đề quan trọng nêu trên, VKS nếu xét thấy cần thiết thì căn cứ theo Điều 236 BLTTHS có những hoạt động như :Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế khác; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan 11 đến vụ án trong trường hợp cần thiết; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra; Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra; Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung; Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Quyết định truy tố; Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; quyết định phục hồi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can. Thứ tư, về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng: Trong giai đoạn truy tố, chủ thể tham gia tố tụng không chỉ là cơ quan tiến hành tố tụng mà còn có những người tham gia tố tụng, bao gồm bị can, người bào chữa, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trong giai đoạn này, người tham gia tố tụng có các quyền và nghĩa vụ cụ thể như sau: Quyền thu thập chứng cứ của bị can, của người bào chữa; Quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ; Quyền khiếu nại đối với hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên; Quyền đưa ra những đề nghị, yêu cầu. Sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là một bước phát triển quan trọng của ngành luật tố tụng hình sự ở nước ta, đã khắc phục được những thiếu sót quan trọng của BLTTHS 2003 đối với việc bảo đảm quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và đặc biệt bổ sung những quy định mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội góp phần cùng Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn 12 vụ án. Với những sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ, việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, đã thể hiện sự dân chủ hơn trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, vừa tạo điều kiện tốt hơn để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nhất là người bào chữa thực hiện đầy đủ hơn, thực chất hơn và có hiệu quả hơn các quy định pháp luật tố tụng. Rất nhiều điều luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng chi tiết hơn liên quan đến thu thập chứng cứ, như: Quyền thu thập và đưa ra chứng cứ của người bào chữa; phương thức thu thập chứng cứ của người bào chữa; nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu kịp thời cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, quyền của người bào chữa được tham dự trong các buổi hỏi cung bị can và quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện một số hoạt động để làm sáng tỏ thêm chứng cứ vụ án như yêu cầu đối chất, nhận dạng, xem xét các dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định… Với các quy định trên, nhà làm luật hy vọng rằng quá trình giải quyết các vụ án hình sự được tiến hành nhanh chóng, khách quan, dân chủ và đúng pháp luật, không làm oan người không phạm tội, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, một số quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, như sau: Được thu thập, đưa ra chứng cứ (Điểm h khoản 1 Điều 73); Có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (khoản 2 Điều 88). Việc quy định về quyền cho người bào chữa được gặp gỡ, trao đổi với bị can, thu thập chứng cứ, có mặt trong các buổi hỏi cung bị can, khiếu nại, đưa ra yêu cầu đối với các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn truy tố có ý nghĩa vô cùng quan trong trọng, góp phần để việc truy tố được khách quan, toàn diện và đầy đủ. 13 Thứ năm, đặc điểm trong các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát trong bối cảnh trong giai đoạn điều tra đã có Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Hoạt động kiểm sát điều tra do Kiểm sát viên VKS thực hiện trong suốt quá trình tiến hành tố tụng. Trong quá trình điều tra vụ án, Kiểm sát viên thực hiện kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên trong giai đoạn truy tố, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu nhận thấy vụ án còn nhiều điểm mâu thuẫn, chưa được làm rõ hoặc phát hiện vi phạm thì Kiểm sát viên có quyền trả hồ sơ, yêu cầu cơ quan điều tra điều tra lại Mặc dù Kiểm sát viên thực hiện việc giám sát nhưng đối với nhiều vụ phức tạp, nhiều tình tiết có sự thay đổi thì các quyết định tố tụng của Viện Kiểm sát phải có những quyết định tố tụng mang tính độc lập, không được bao che cho cơ quan điều tra. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số nước về vai trò của luật sư trong giai đoạn truy tố 1.2.1. Vai trò của Luật sư trong giai đoạn truy tố Trong tố tụng hình sự, chức năng gỡ tội luôn tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng buộc tội như một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong giai đoạn truy tố - giai đoạn mà viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội rõ ràng nhất thông qua các quyết định tố tụng. Với bản chất dân chủ, pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta ghi nhận quyền được bào chữa (gỡ tội) của người bị buộc tội như một nguyên tắc cơ bản. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Luật sư có vai trò là người gỡ tội cho người bị buộc tội. Người bị buộc tội theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 4 BLTTHS bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Điều 16 Bộ luật TTHS quy định: “Người bị 14 tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Theo quy định của Điều 15 Bộ luật TTHS thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền, nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là mình vô tội. Khi người bị buộc tội nhờ đến luật sư, tức là ở họ đang xuất hiện nhu cầu gỡ tội mà tự họ không thể thực hiện được. Trước tiên, ta cần khẳng định rằng luật sư là người có kiến thức khoa học trong lĩnh vực pháp lý, có sự hiểu biết sâu sắc và chính xác về pháp lý đồng thời là người có kinh nghiệm trong giải quyết tranh chấp. Luật sư là người chuyên hoạt động trong lĩnh vực pháp lý, là nghề được pháp luật thừa nhận. Trong giai đoạn truy tố, với vai trò là người gỡ tội, hoạt động của luật sư vừa mang tính đối trọng lại với hoạt động buộc tội của Kiểm sát viên đồng thời cũng mang tính bổ sung để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tránh sự oan sai và buộc tội không đúng với tội trạng người phạm tội gây ra. Chủ thể tham gia trong giai đoạn truy tố không chỉ có người bị buộc tội mà còn có đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Cũng giống như người bị buộc tội được tự mình hoặc nhờ người bào chữa thì theo quy định tại Điều 63, 64, 65 BLTTHS thì nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng