LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là sản phẩm nghiên cứu khoa học đầu đời của mỗi sinh viên,
cũng là thành quả của quá trình học tập và rèn luyện trong trường đại học. Chính vì thế, việc
hoàn thành khóa luận đòi hỏi rất nhiều công sức, sự chuyên tâm, nhiệt huyết cũng như thời
gian của người viết. Tuy nhiên, một trong những yếu tố không nhỏ tạo nên “sản phẩm trí tuệ”
này là sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, các thầy cô đã giảng dạy cũng như sự
ủng hộ của gia đình và bạn bè.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Lan Anh,
người trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn. Không chỉ gợi ý và hướng dẫn
em trong quá trình tìm hiểu, đọc tài liệu và lựa chọn đề tài, cô còn tận tình chỉ bảo em những
kĩ năng phân tích, khai thác tài liệu để có được những lập luận phù hợp với nội dung của
khóa luận. Hơn nữa, cô còn rất nhiệt tình trong việc đốc thúc quá trình viết khóa luận, đọc và
đưa ra những nhận xét, góp ý để em có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Bên cạnh đó, em cũng xin gửi đến các thầy cô giáo đã và đang công tác, giảng dạy tại
khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao lòng biết ơn sâu sắc về những kiến thức và kĩ năng
mà các thầy cô đã truyền đạt cho em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Học viện.
Em xin cám ơn cô Phạm Lan Dung, trưởng khoa luật quốc tế về những lời khuyên răn, chỉ
bảo của cô trong suốt 4 năm học. Em xin cám ơn cô Lý Vân Anh, người đã truyền cho em
cảm hứng nghiên cứu về tư pháp quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Em
cũng xin gửi lời cảm ơn đến thầy Đoàn Dũng, cùng tất cả những thầy cô giáo khác trong khoa
Luật quốc tế đã giúp đỡ em rất nhiều về mặt tài liệu cũng như đóng góp những ý kiến cho
việc hoàn thành khóa luận của em.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em cũng rất may mắn nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình từ các cán bộ và các anh chị tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Cám ơn các anh chị đã tạo điều kiện cho em có thể tiếp cận với những vụ việc thực tế và
cung cấp cho em những tài liệu quý báu để phục vụ cho việc viết khóa luận.
Cuối cùng, em xin được gửi đến bố mẹ, gia đình và bạn bè lời cảm ơn và lòng biết ơn
sâu sắc vì những sự động viên, ủng hộ và cổ vũ tinh thần trong suốt quá trình gian nan và vất
vả này.
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
....................................................................................................................... i
MỤC LỤC
...................................................................................................................... ii
LỜI MỞ ĐẦU
...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI......................................... 4
1.
Thỏa thuận trọng tài là gì? .......................................................................................... 4
1.1. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài ................................................................................................... 5
1.2. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp quốc về
thương mại quốc tế (UNCITRAL) ................................................................... 7
1.3. Luật quốc gia .................................................................................................. 10
2.
Phân loại thỏa thuận trọng tài .................................................................................. 13
2.1. Điều khoản trọng tài (arbitration clause) ...................................................... 13
2.2. Thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement) ....... 15
3.
Tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài ............................................................... 16
3.1. Trong giai đoạn tiền tố tụng........................................................................... 16
3.2. Trong quá trình tố tụng trọng tài ................................................................... 18
3.3. Trong giai đoạn hậu tố tụng .......................................................................... 19
4.
Luật áp dụng ảnh hưởng thế nào đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài? ........... 21
4.1. Năng lực giao kết của chủ thể ....................................................................... 22
4.2. Hình thức của thỏa thuận trọng tài ............................................................... 23
4.4. Vụ việc có khả năng giải quyết bằng trọng tài .............................................. 24
CHƯƠNG II: LUẬT ĐIỀU CHỈNH THỎA THUẬN TRỌNG TÀI ................................ 26
1.
Phân biệt luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài, luật thủ tục trọng tài và luật nội
dung trọng tài............................................................................................................. 26
1.1. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài ................................................................... 28
1.2. Luật áp dụng để giải quyết nội dung tranh chấp .......................................... 29
ii
1.3. Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài .......................................................... 30
2.
Khi nào cần xem xét luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài .................................. 31
2.1. Khi một bên có yêu cầu phản đối thẩm quyền của trọng tài ........................ 32
2.2. Sau khi phán quyết được đưa ra, một bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
hoặc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài .......................... 33
3.
Các tiêu chí xác định luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ................................. 34
3.1. Luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng ............................................................. 35
3.2. Luật của nơi diễn ra trọng tài hay luật nơi phán quyết được tuyên............ 38
3.3. Luật tại nơi có tòa án đang xem xét tranh chấp liên quan đến luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài ................................................................................. 41
3.4. Luật thủ tục áp dụng cho trọng tài hay bộ quy tắc của trung tâm trọng tài
giải quyết vụ việc ............................................................................................. 43
CHƯƠNG III: VẤN ĐỀ LUẬT ÁP DỤNG CHO THỎA THUẬN TRỌNG TÀI TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................ 46
1.
Giới thiệu sơ lược về trọng tài thương mại và các nguồn luật của trọng tài thương
mại tại Việt Nam ........................................................................................................ 47
1.1. Khái quát về lịch sử và sự phát triển của trọng tài thương mại tại Việt Nam .
.................................................................................................................... 47
1.2. Các nguồn luật cơ bản của trọng tài thương mại tại Việt Nam ................... 50
1.2.1. Luật Trọng tài thương mại Việt Nam năm 2010 ............................ 50
1.2.2. Nghị định 63/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của luật trọng tài thương mại .................................... 51
1.2.3. Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 - Phần thứ sáu: Thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân
sự của Tóa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài –
Chương XXVI và XXIX ................................................................. 51
2.
Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam .................................. 53
2.1. Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật ...
.................................................................................................................... 53
iii
2.1.1. Điều khoản liên quan đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài ........ 53
2.1.2. Điều khoản liên quan đến luật áp dụng cho trọng tài .................... 54
2.1.3. Điều khoản liên quan đến hủy phán quyết của trọng tài ............... 55
2.1.4. Điều khoản liên quan đến công nhận và thi hành phán quyết của
trọng tài nước ngoài ....................................................................... 56
2.2. Thực tiễn việc áp dụng luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam . 58
3.
Một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài tại Việt Nam .................................................................................... 61
KẾT LUẬN
.................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ I
iv
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển ngày càng nhanh và mạnh của kinh tế Việt Nam cũng như các
nước trên thế giới, đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO), số lượng các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và số lượng các vụ tranh chấp thương
mại cũng nhanh chóng tăng lên theo cấp số nhân.
Tuy nhiên, việc giải quyết các tranh chấp thương mại không phải là một vấn đề
đơn giản do có sự tham gia của rất nhiều chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau, thuộc
sự điều chỉnh của những hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì thế, việc lựa chọn được một
phương thức giải quyết tranh chấp hợp lý và hiệu quả là một vấn đề có ý nghĩa quyết định
trong việc đảm bảo và thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế phát triển thuận lợi. Ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đại đa số các tranh chấp thương mại quốc tế thường
được giải quyết bằng các phương thức ngoài tòa án, trong đó trọng tài được đặc biệt ưa
chuộng, song ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy, số lượng các tranh chấp thương mại quốc tế
được các bên lựa chọn giải quyết bằng phương thức trọng tài còn quá ít ỏi, trong điều kiện
Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, đây là một thực trạng cần phải
được cải thiện.
Mặc dù trọng tài thương mại quốc tế với đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và
được giới kinh doanh quốc tế đặc biệt ưa chuộng do những ưu điểm vượt trội của nó so với
các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế khác nhưng phương thức giải
quyết tranh chấp này còn khá mới mẻ ở Việt Nam chưa tạo được lòng tin với các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Sở dĩ như vậy là do pháp luật
nước ta trong lĩnh vực trọng tài chưa thực sự tỏ ra hiệu quả trong việc đáp ứng những yêu cầu
giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế chỉ ra
rằng, không ít quy định của pháp luật nước ta trong lĩnh vực này chưa phù hợp với thực tiễn,
chưa tương thích với pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế. Một trong những vấn đề quan
trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành công của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm cần thiết từ các nhà làm luật, đó là vấn đề luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài. Dù Luật Trọng tài thương mại 2010 đã thực sự nhận thức và
đánh giá đúng vai trò của thỏa thuận trọng tài tuy nhiên vẫn xem nhẹ luật áp dụng cho nó.
Đây thực sự là một thiếu sót cần được sửa đổi và bổ sung trong tương lai nhằm hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về trọng tài, tiến lại gần hơn với các chuẩn mực về trọng tài
trên thế giới để từng bước tạo dựng lòng tin trong giới kinh doanh trong và ngoài nước.
1
Những ưu điểm của biện pháp trọng tài chỉ được tận dụng và phát huy nếu như
giữa các bên tồn tại một thỏa thuận thống nhất giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đồng thời
thỏa thuận đó phải có hiệu lực theo luật áp dụng cho nó. Nhận thức được vai trò của thỏa
thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tầm quan trọng của việc xác
định luật điều chỉnh thỏa thuận đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài: lý luận và thực tiễn”. Mục tiêu nghiên cứu đề tài là nhằm tổng kết,
đánh giá những lý luận và thực tiễn về vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại trên phạm vi thế giới, từ đó rút ra nhận xét và đánh giá cùng
những gợi ý để hoàn thiện hệ thống pháp luật trọng tài Việt Nam trong vấn đề này, giúp việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở Việt Nam trở nên hiệu quả hơn.
Với mục tiêu đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về luật điều chỉnh
thỏa thuận trọng tài trong các văn bản pháp luật quốc tế, nội luật về trọng tài của một số quốc
gia có hệ thống pháp luật phát triển và pháp luật về trọng tài tại Việt Nam và thực tiễn tình
trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài tại một số quốc gia, một số trung tâm trọng tài quốc tế và tại Việt Nam. Đây là một
vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng (cả trong nước và nước ngoài) lại bị giới hạn về nguồn tài
liệu, thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, do đó trong khuôn khổ của một khóa luận tốt
nghiệp đại học, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ xin được giới hạn trong việc phân tích
pháp luật và thực trạng lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài ở hai văn bản pháp luật
về trọng tài phổ biến nhất đó là: Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài và Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế,
cùng thực tiễn và nội luật của một số quốc gia đó là Anh, Mỹ, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan
và Việt Nam. Để nghiên cứu các tài liệu này, tác giả sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu
luật học cơ bản đó là: phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp luận giải và phương pháp so sánh luật học.
Với phạm vi, đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu như trên, nội dung
của luận văn sẽ được trình bày thành 3 chương như sau:
• Chương I - Tổng quan về thỏa thuận trọng tài: khái quát những vấn đề cơ
bản nhất về thỏa thuận trọng tài và tầm quan trọng của luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài đối với hiệu lực của thỏa thuận này.
• Chương II - Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài: tập trung nghiên cứu các
tiêu chí lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài để từ đó rút ra những
2
ưu và nhược điểm của từng tiêu chí, rút ra bài học cho việc lựa chọn luật áp
dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam
• Chương III - Vấn đề luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam:
giới thiệu tổng quan về trọng tài và pháp luật liên quan đến trọng tài tại Việt
Nam, chỉ ra những thiếu sót trong vấn đề liên quan đến luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài và từ đó đưa ra một số gợi ý cho việc sửa đổi và hoàn thiện
pháp luật liên quan đến luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài tại Việt Nam.
Tác giả tin rằng việc thấu hiểu tầm quan trọng của việc xác định luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài và hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này, trọng tài
thương mại sẽ thực sự trở thành một phương pháp giải quyết tranh chấp thân thiện và hiệu
quả tại Việt Nam, nhận được sự công nhận và lòng tin của giới kinh doanh quốc tế đồng thời
thúc đẩy tình hình kinh tế và thương mại tại Việt Nam phát triển ngày một ổn định và mạnh
mẽ hơn.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài dựa trên nền tảng cơ bản là sự đồng ý và tự
nguyện của các bên mà trong đó thỏa thuận trọng tài là căn cứ ghi nhận những yếu tố “vô
hình” này. Chính vì thế, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng quan trọng và không
thể thiếu trong tố tụng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài chính là nền tảng của tố tụng trọng tài
hay nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không thể có tố tụng trọng tài. Để xác
định được luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài thì trước hết phải nắm được những nội
dung cốt lõi, bản chất và những vấn đề cơ bản của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của chương
này sẽ nhằm khái quát những vấn đề cơ bản nhất của thỏa thuận trọng tài, tầm quan trọng của
nó cũng như mối quan hệ giữa hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng cho thỏa
thuận trọng tài.
1. Thỏa thuận trọng tài là gì?
Mặc dù mới phát triển ở Việt Nam trong thời gian gần đây nhưng hình thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xuất hiện trên thế giới từ rất lâu với một quá trình lịch sử
rất dài. Qua thời gian, các thủ tục tố tụng trọng tài có thể thay đổi với những sự phát triển và
cải tiến mới để phù hợp với các thực tiễn tranh chấp quốc tế tuy nhiên yếu tố thỏa thuận trọng
tài luôn tồn tại với thời gian và là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành công
của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Với sự thừa nhận trọng tài thương mại như là
một hình thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng, hiệu quả, tiết kiệm thời gian và tiền bạc
cho các bên, người ta cũng dần thừa nhận vai trò và ngày càng đánh giá cao thỏa thuận trọng
tài cũng như việc soạn thảo thỏa thuận này. Tuy nhiên, để soạn thảo được một thỏa thuận
trọng tài tốt trước hết ta cần phải nắm được khái niệm thỏa thuận trọng tài là gì?
Nhằm thúc đẩy hoạt động trọng tài quốc tế diễn ra một cách hiệu quả nhất, các quốc
gia đã cùng nhau soạn thảo ra những công ước quốc tế điều chỉnh các vấn đề trọng tài thương
mại quốc tế. Các công ước này có vai trò kết nối các hệ thống pháp luật của các quốc gia
khác nhau thành một thể thống nhất “tuy có khác nhau về mặt ngôn từ nhưng có chung một
mục tiêu thi hành các thỏa thuận và quy định của trọng tài quốc tế”1. Khi nhắc đến các công
ước điều chỉnh trọng tài thương mại quốc tế thì có hai nguồn cơ bản mà không thể không bỏ
qua đó là Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước
1
Alan Redfern, Martin Hunter, Nigel Blackaby & Constaintine Partasides (2009), International Arbitration, 5th
ed, Oxford University Press, đoạn 1.213, trang 70.
4
ngoài và Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế được Ủy ban của Liên hợp quốc về
thương mại quốc tế thông qua năm 1985, mặc dù không phải là những điều ước đầu tiên ghi
nhận hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng đây là hai nguồn thường được dẫn
chiếu nhiều nhất trong tất cả các bài viết của các học giả, các bài báo cũng như các giáo trình
về Trọng tài thương mại quốc tế. Chính vì thế, tác giả sẽ ưu tiên tìm hiểu định nghĩa về thỏa
thuận trọng tài trong hai nguồn này trước khi xét đến các điều ước khác về trọng tài cũng như
luật của các quốc gia về vấn đề này.
1.1. Công ước New York 1958 về Công nhận và thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài
Trong quá trình thúc đẩy việc hình thành một hệ thống pháp luật chung điều chỉnh
trọng tài thương mại quốc tế, Phòng thương mại và công nghiệp quốc tế (ICC) đóng một vai
trò vô cùng tích cực và quan trọng. Chính cơ quan này đã xúc tiến thành công việc hình thành
công ước New York năm 1958 điều chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết của Trọng
tài nước ngoài. Đây được coi là một trong những điều ước quan trọng nhất trong lĩnh vực
này, nó đóng một vai trò thiết yếu trong quá trình phát triển của trọng tài thương mại quốc tế.
Bất chấp những khó khăn trong việc thi hành công ước và “tuổi đời” đã khá cao của nó, ngày
nay người ta vẫn viện dẫn nó như một nguồn cơ bản để giải thích một số thuật ngữ liên quan
đến trọng tài.
Liên quan đến vấn đề thỏa thuận trọng tài, trong công ước đã ghi nhận ở Điều II
khoản 1: Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các
bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ
một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối
tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài2. Đây là một sự kế thừa và phát triển quy
định về thỏa thuận trọng tài thừa nhận trong Nghị định thư Geneva 1923 về điều khoản trọng
tài3, ngay tại điều 1 của nghị định thư đã nêu rõ: “Mỗi quốc gia ký kết công nhận tính hợp lệ
của một thỏa thuận dù liên quan đến một mâu thuẫn đang tồn tại hay mâu thuẫn trong tương
2
Nguyên văn bằng tiếng Anh: Each Contracting State shall recognise an agreement in writing under which the
parties undertake to submit to arbitration all or any differences which have arisen or which may arise between
them in respect of a defined legal relationship, whether contractual or not, concerning a subject matter capable
of settlement by arbitration.
3
Nghị định thư Geneva về Điều khoản trọng tài năm 1923, ký tại Geneva ngày 24 tháng 9 năm 1923, có hiệu
lực từ ngày 28 tháng 7 năm 1924, được công bố tại Tuyển tập các điều ước quốc tế của Hội quốc liên số 27
L.N.T. S. 258(1924), no. 678.
5
lai giữa các bên thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo thẩm quyền của các quốc gia
thành viên khác nhau, mà theo đó các bên tham gia hợp đồng đồng ý đưa tranh chấp lên
trọng tài tất cả hoặc bất kì mâu thuẫn nào phát sinh trong mối liên hệ với hợp đồng đó liên
quan đến các vấn đề thương mại hoặc bất kì vấn đề nào khác có khả năng giải quyết bằng
trọng tài cho dù trọng tài có thể diễn ra tại một nước mà không bên nào thuộc thẩm quyền
của nó”4.
Theo đó, cả nghị định thư và công ước đều thừa nhận rằng: để tranh chấp có thể giải
quyết bằng trọng tài thì phải tồn tại một thỏa thuận mà các bên đồng thuận đưa tranh chấp ra
để trọng tài xét xử, tranh chấp có thể đã phát sinh rồi hoặc sẽ phát sinh trong tương lai nhưng
tranh chấp đó phải có khả năng giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy rằng,
công ước New York 1958 có sự hoàn thiện và phát triển hơn trong quy định về thỏa thuận
trọng tài khi chỉ rõ rằng thỏa thuận phải được lập bằng văn bản đồng thời thừa nhận hai bên
có thể có quan hệ hợp đồng hoặc không có quan hệ hợp đồng nhưng giữa các bên tranh chấp
phải có mối quan hệ xác định. Hơn nữa, công ước New York 1958 cũng không quy định rằng
các bên trong tranh chấp phải “thuộc đối tượng điều chỉnh tương ứng theo phạm vi thẩm
quyền của quốc gia thành viên”, đây là một sự tiến bộ nhằm hướng đến việc áp dụng công
ước cho các thỏa thuận trọng tài quốc tế chứ không chỉ riêng các thỏa thuận trọng tài mang
tính nội địa.
Trong định nghĩa của công ước quy định rằng: Thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản”
bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài, được kí bởi
các bên hoặc được ghi nhận trong các trao đổi thư tín5. Có lẽ đây là một thiếu sót lớn trong
định nghĩa thỏa thuận trọng tài của Công ước New York 1958, nó thể hiện sự “lỗi thời” của
công ước trong thời đại hiện nay. Với sự bùng nổ của các cuộc cách mạng thông tin, ngày
nay việc kí kết hợp đồng được diễn ra với rất nhiều hình thức khác nhau, có thể bằng điện tín,
telex, fax hay thậm chí là email. Vậy theo định nghĩa này, chắc chắn các hình thức này không
thể được thừa nhận là văn bản, bởi nó không thể có được chữ ký của các bên và cũng không
4
Nguyên văn bằng tiếng Anh: Each of the Contracting States recognises the validity of an agreement whether
relating to existing or future differences between parties, subject respectively to the jurisdiction of different
Contracting States by which the parties to a contract agree to submit to arbitration all or any differences that
may arise in connection with such contract relating to commercial matters or to any other matter capable of
settlement by arbitration, whether or not the arbitration is to take place in aion is to take place in a country to
whose jurisdiction none of the parties is subject.
5
Nguyên văn bằng tiếng Anh: The term "agreement in writing" shall include an arbitral clause in a contact or
an arbitration agreement, signed by the parties or contained in an exchange of letters or telegrams.
6
được coi là các trao đổi thư tín. Thiếu sót thể hiện “tuổi đời già cỗi” này của công ước là một
điểm sẽ cần phải được sửa đổi trong các văn bản quốc tế ra đời sau này.
Tóm lại, ta có thể tóm gọn tinh thần của công ước về khái niệm thỏa thuận trọng tài
như sau: đó là một văn bản ghi nhận sự thống nhất của các bên đưa các tranh chấp đã xảy ra
hoặc có thể xảy ra trong tương lai ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài.
Trong số các điều ước quốc tế về trọng tài thương mại quốc tế trong thời kỳ hiện đại,
dù chưa thực sự hoàn thiện nhưng Công ước New York 1958 là văn bản đã cải tiến và tiến bộ
hơn rất nhiều, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của luật trọng tài
thương mại quốc tế. Việc ghi nhận định nghĩa của thỏa thuận trọng tài ngay trong những điều
khoản đầu tiên của công ước cũng thể hiện được ý nghĩa thực tiễn của việc áp dụng công ước
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặc dù sau năm 1958 có một số công ước quốc tế khác
(công ước châu Âu năm 19616, công ước Washington năm 19657) trong lĩnh vực này cũng đã
ra đời nhưng không có công ước nào đạt được tầm ảnh hưởng như công ước New York.
1.2. Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Liên hợp
quốc về thương mại quốc tế8 (UNCITRAL)
Sau sự ra đời của công ước New York 1958, Liên hiệp quốc thúc đẩy hơn nữa việc
cho ra đời một văn bản luật thống nhất để chỉ dẫn cho các quốc gia về việc áp dụng các
nguyên tắc của trọng tài thương mại quốc tế. Với nhiều nỗ lực cố gắng sửa đổi và hoàn thiện,
Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế đã được Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại
quốc tế (UNCITRAL) thông qua tại phiên họp của Ủy ban tại Viên (Áo) tháng 6 năm 1985 và
được Đại hội đồng Liên hợp quốc giới thiệu đến các quốc gia thành viên vào tháng 9 cùng
năm9. Luật Mẫu nhanh chóng được các quốc gia trên thế giới đón nhận rất nhiệt tình vì nó
khá đơn giản, cụ thể mà lại dễ hiểu. Đây được coi là “kim chỉ nam” cho việc hình thành các
văn bản pháp luật về trọng tài ở nhiều quốc gia trên thế giới. Để hoàn thiện và thích nghi với
6
Công ước châu Âu về trọng tài thương mại quốc tế, hoàn thành tại Geneva ngày 21 tháng 4 năm 1961. Các quy
định của công ước này được áp dụng cho các trung tâm trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp giữa các
bên đến từ các nước khác nhau kể cả trong hay ngoài châu Âu.
7
Công ước Washington năm 1965 là cơ sở của việc hình thành ICSID (trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư
quốc tế ICSID). Trung tâm này được thành lập theo Công ước Washington năm 1965 về giải quyết tranh chấp
giữa nhà nước và công dân của nhà nước khác, trong đó có các nhà đầu tư.
8
Có thể được gọi tắt là Luật mẫu hoặc Luật mẫu của UNCITRAL .
9
Thông tin từ trang web của Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại quốc tế www.uncitral.org
7
sự thay đổi cũng như phát triển của trọng tài cũng như các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
thương mại quốc tế, năm 2006 Ủy ban Liên hợp quốc về thương mại Quốc tế đã chỉnh sửa lại
toàn bộ Luật mẫu và kèm theo giải thích cụ thể từng điều khoản của luật này.
Về khái niệm thỏa thuận trọng tài, tại Điều 7, Luật mẫu về Trọng tài thương mại
quốc tế của UNCITRAL năm 1985 sửa đổi năm 2006 đã ghi nhận hai lựa chọn cho định
nghĩa và hình thức của thỏa thuận trọng tài:
•
Lựa chọn thứ nhất: “Thoả thuận trọng tài” là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài
mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về
quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp
đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng
hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng10.
•
Lựa chọn thứ hai: “Thỏa thuận trọng tài” là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài
tất cả hoặc một số tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh về quan hệ pháp lý
xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng11.
Hai định nghĩa này về cơ bản là hoàn toàn giống nhau và đều thừa nhận thỏa thuận
trọng tài là văn bản thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa các tranh chấp ra giải quyết bằng
con đường trọng tài dù cho quan hệ giữa hai bên có phải là hợp đồng hay không. Tuy nhiên
trong lựa chọn thứ nhất định nghĩa được mở rộng hơn trong việc phân loại thỏa thuận trọng
tài12. Nhìn chung, Luật mẫu đã một lần nữa nhắc lại định nghĩa về thỏa thuận trọng tài đã
được ghi nhận trong công ước New York 1958 trước đây nhưng tách riêng phần định nghĩa
và yêu cầu về hình thức của thỏa thuận trọng tài. Trong Luật mẫu hình thức của thỏa thuận
trọng tài được tách riêng và giải thích rõ trong các khoản (2),(3),(4),(5) và (6) của Điều 7.
Trong đó, khoản (2) và (3) nêu rõ rằng: “Thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản. Một thỏa
thuận trọng tài là bằng văn bản nếu nội dung của nó được ghi lại bằng bất kỳ hình thức nào,
10
Nguyên văn bằng tiếng Anh: “Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration
all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal
relationship, whether contractual or not. An arbitration agreement may be in the form of an arbitration clause
in a contract or in the form of a separate agreement.
11
Nguyên văn bằng tiếng Anh: “Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration
all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal
relationship, whether contractual or not.
12
Điều này sẽ được phân tích kĩ hơn trong phần 2 của chương này.
8
bất kể thỏa thuận đó được giao kết bằng miệng, bằng hành động hoặc bằng các hình thức
khác13” và các khoản sau đó tiếp tục giải thích thích các hình thức văn bản được thừa nhận:
4. Yêu cầu thỏa thuận trọng tài bằng văn bản có thể được đáp ứng bởi một thông tin liên
lạc điện tử nếu nội dung thông tin chứa trong đó có thể được truy cập để dùng để
tham khảo sau này; “thông tin liên lạc điện tử” có nghĩa là bất cứ thông tin liên lạc
nào mà các bên đã thực hiện thông qua phương tiện thông điệp dữ liệu; “thông điệp
dữ liệu” được hiểu là những thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và được lưu trữ bằng
phương tiện điện tử, đĩa quang hoặc các phương thức tương tự, bao gồm nhưng
không giới hạn: trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, telex hoặc fax.
5. Hơn nữa, một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản nếu nó chứa những trao đổi về yêu
cầu khởi kiện và tự bảo vệ mà trong đó tồn tại thỏa thuận được đưa ra bởi một bên và
không bị bên kia từ chối.
6. Các tài liệu tham khảo trong một hợp đồng có bất cứ một văn bản nào chứa điều
khoản trọng tài có thể tạo nên một thỏa thuận trọng tài và khiến cho tài liệu tham
khảo đó trở thành một phần của hợp đồng14.
Có thể thấy rằng sự giải thích rõ ràng và cặn kẽ trong Luật mẫu này là một sự tiến bộ
vượt bậc và thích ứng với thời đại so với Công ước New York 1958. Theo đó, yêu cầu về chữ
kí của các bên đã không còn tồn tại nữa, thay vào đó là sự liệt kê đầy đủ và rõ ràng các hình
thức văn bản được thừa nhận, trong đó bao gồm email, điện tín, texlex, fax… Một điểm mới
nữa trong định nghĩa này đó là ở khoản (3), kể cả việc giao kết hợp đồng bằng miệng (bằng
13
Nguyên văn bằng tiếng Anh:
(2) The arbitration agreement shall be in writing.
(3) An arbitration agreement is in writing if its content is recorded in any form, whether or not the arbitration
agreement or contract has been concluded orally, by conduct, or by other means.
14
Nguyên văn bằng tiếng Anh:
(4) The requirement that an arbitration agreement be in writing is met by an electronic communication if the
information contained therein is accessible so as to be useable for subsequent reference; “electronic
communication” means any communication that the parties make by means of data messages; “data message”
means information generated, sent, received or stored by electronic, magnetic, optical or similar means,
including, but not limited to, electronic data interchange (EDI), electronic mail, telegram, telex or telecopy.
(5) Furthermore, an arbitration agreement is in writing if it is contained in an exchange of statements of claim
and defence in which the existence of an agreement is alleged by one party and not denied by the other.
(6) The reference in a contract to any document containing an arbitration clause constitutes an arbitration
agreement in writing, provided that the reference is such as to make that clause part of the contract.
9
lời nói) hoặc các hành động khác thể hiện ý chí giao kết của chủ thể miễn là có thể “ghi lại
được” thì cũng được coi là có giá trị pháp lý.
Tóm lại, theo Luật Mẫu, thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận ghi nhận lại ý chí của các
bên đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài mà trong đó hình thức “bằng văn bản”
có thể được thỏa mãn bằng bất cứ hình thức nào miễn là nó “ghi lại được” ý nguyện của các
bên, không phân biệt đó là các hình thức trao đổi thông tin điện tử, lời nói, hành động hay các
hình thức khác. Chính vì thế, theo Sanders trong cuốn Bách khoa toàn thư về Luật so sánh và
quốc tế, quyển XIV thì “Khi một bên tham gia vào một quá trình tố tụng trọng tài mà không
phủ nhận sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, thì một “thỏa thuận trọng tài ngầm” là đủ”15.
Qua đó có thể thấy, tính cho đến thời điểm hiện tại, Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài
thương mại quốc tế là một văn bản mặc dù không có giá trị ràng buộc nhưng lại có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển của trọng tài thương mại quốc tế, đặc biệt là đối với sự hình
thành các bộ luật về Trọng tài thương mại tại các quốc gia trên thế giới. Từ Luật Mẫu, nhiều
quốc gia đã triển khai, sửa đổi, thậm chí sử dụng nguyên văn bản này để thành nội luật, mục
tiếp theo sẽ phân tích định nghĩa về thỏa thuận trọng tài được thừa nhận trong nội luật của
một số quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới.
1.3. Luật quốc gia
Ở các quốc gia có hệ thống luật pháp phát triển như Anh, Pháp, Thụy Sỹ… thì các
quy phạm pháp luật liên quan đến trọng tài thương mại quốc tế đã có từ rất lâu đời và được
cải thiện dần dần để thích ứng với sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế. Nhìn chung, luật
trọng tài của các nước thường có những định nghĩa tương tự như nhau về thỏa thuận trọng tài,
dù hình thức, câu chữ có thể khác nhau nhưng về tinh thần của điều khoản là giống nhau.
Về hình thức, hầu hết các nước thường quy định một thỏa thuận trọng tài phải được
làm thành văn bản. Ví dụ:
15
Sanders, ‘Arbitration’ in Encyclopaedia of International and Comparative Law, Vol XIV, chương 12, đoạn
106.
10
•
Điều 5 luật trọng tài của Anh quy định: Các quy định của phần này chỉ áp được áp
dụng khi thỏa thuận trọng tài bằng văn bản và bất kỳ thỏa thuận nào khác giữa các
bên sẽ có hiệu lực cho mục đích của phần này chỉ khi nó bằng văn bản16.
•
Điều 1443 luật trọng tài của Pháp quy định: Một điều khoản trọng tài không có hiệu
lực trừ khi nó được quy định bằng văn bản trong thỏa thuận chính hoặc trong một tài
liệu mà thỏa thuận đó đề cập tới17. Điều 1449 của luật này cũng thừa nhận điều tương
tự rằng thỏa thuận đưa tranh chấp ra trọng tài phải có thể chứng minh được bằng văn
bản 18.
Tuy nhiên, khái niệm “thỏa thuận bằng văn bản” là một khái niệm được áp dụng và
giải thích khác nhau trong luật pháp của các nước cũng như trong thực tiễn quan hệ thương
mại quốc tế và phán quyết của các tòa án. Chẳng hạn trong vụ Arab African Energy Corp.
Ltd v Olieprodukten Nederland B.V19, hai công ty môi giới ở Paris đã có trao đổi telex với
nhau rằng: “Trọng tài theo luật Anh, nếu có, tại London, theo quy tắc ICC”. Sau khi xảy ra
tranh chấp, tòa án đưa ra phán quyết rằng đây là một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực quy định
rằng tố tụng trọng tài phải diễn ra tại London theo quy tắc tố tụng của ICC và luật áp dụng
cho hợp đồng là luật của Anh. Tất nhiên đây là một hình thức thỏa thuận đầy rủi ro và không
rõ ràng do đó các tòa án và luật pháp các nước không hề khuyến khích hình thức này.
Bên cạnh đó, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” có thể được hiểu là bất cứ hình
thức nào có thể lưu trữ được dữ liệu trong thời gian dài và có thể đem ra để đối chứng, theo
đúng tinh thần của Luật mẫu và trong một số luật thậm chí còn yêu cầu rằng những dữ liệu
này phải có thể in ra thành văn bản được khi cần thiết. Ví dụ, Luật Trọng tài Hà Lan 1986,
Điều 1021 quy định rằng: thỏa thuận trọng tài phải được chứng minh bằng một công cụ dưới
dạng văn bản được các bên chấp nhận một cách rõ ràng hoặc ngụ ý20. Luật Trọng tài Thụy Sỹ
16
Nguyên văn bằng tiếng Anh:The provisions of this Part apply only where the arbitration agreement is in
writing, and any other agreement between the parties as to any matter is effective for the purposes of this Part
only if in writing.
17
Nguyên văn bằng tiếng Anh: An arbitration clause is void unless it is set forth in writing in the main
agreement or in a document to which that agreement refers.
18
Nguyên văn bằng tiếng Anh: A submission agreement shall be evidenced in writing
19
Arab African Energy Corp. Ltd v Olieprodukten Nederland B.V [1993] 2 Lloyd’s Rep.419
20
Sanders & Van de Berg (1987), The Netherlands Arbitration Act 1986, Kluwer. Nguyên văn bằng tiếng Anh
của điều khoản: The arbitration agreement must be proven by an instrument in writing. For this purpose an
instrument in writing which provides for arbitration or which refers to standard conditions providing for
11
cũng quy định rằng thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản hoặc bằng các phương tiện liên lạc
có thể chứng minh thỏa thuận được lập bằng văn bản21. Trong khi đó, luật Trọng tài của Anh
1996 lại công nhận cả một thỏa thuận trọng tài bằng lời nói cũng có thể được coi là “thỏa
thuận bằng văn bản” nếu nó được xác lập bằng cách “dẫn chiếu tới những điều khoản có
trong văn bản”22. Tóm lại, hình thức “thỏa thuận bằng văn bản” được giải thích rất khác nhau
trong các hệ thống pháp luật khác nhau cũng như trong phán quyết của các tòa án thuộc các
quốc gia khác nhau, điều này chứng tỏ rằng luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu lực và việc công nhận sự tồn tại của thỏa thuận này. Điều này cũng
ảnh hưởng đến việc thi hành và công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại các nước.
Về nội dung, luật các nước đều bắt buộc thỏa thuận trọng tài phải thể hiện ý chí
thống nhất của các bên trong việc đồng ý đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài23. Thỏa
thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi tranh chấp phát sinh. Ngoài vấn đề này ra, luật
pháp các nước không có những quy định chi tiết nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài. Nội
dung của thỏa thuận trọng tài đều để mở cho các bên có thể tự thỏa thuận và quyết định tuy
nhiên nó phải phù hợp với luật pháp điều chỉnh thỏa thuận trọng tài đó.
Tóm lại, về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, luật pháp của các nước trên thế giới
có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt về vấn đề thế nào là “thỏa thuận bằng văn bản”
tuy nhiên đều mang một điểm chung là đòi hỏi thỏa thuận buộc phải bằng văn bản và phải
chứa nội dung thể hiện ý chí của các bên đồng ý đưa ra trọng tài tranh chấp đã, đang tồn tại
hoặc sẽ phát sinh trong tương lai.
***
Nhìn chung, mặc dù có thể quy định khác nhau về từ ngữ cũng như một số vấn đề về
nội dung cụ thể của thỏa thuận trọng tài, tuy nhiên, cả các điều ước quốc tế (tiêu biểu là Công
ước New York 1958), Luật mẫu và Luật pháp về trọng tài của một số quốc gia có hệ thống
pháp luật phát triển đều thừa nhận những điểm chung như sau:
arbitration is sufficient, provided that this instrument is expressly or impliedly accepted by or on behalf of the
other party.
21
Điều 178 khoản 1 Bộ luật Tư pháp liên bang Thụy Sỹ 1987 (PIL), nguyên văn bằng tiếng Anh như sau: As to
form, the arbitration agreement shall be valid if it is made in writing, by telegram,telex, telecopier, or any other
means of communication that establishes the terms of the agreement by a text.
22
Điều 5 khoản 3 Luật trọng tài của Anh, nguyên văn bằng tiếng Anh quy định: Where parties agree otherwise
than in writing by reference to terms which are in writing, they make an agreement in writing.
23
Điều 6 Luật Trọng tài Anh 1996; Điều 1442 Luật Trọng tài của Pháp và Điều 1029 Luật Trọng tài của Đức.
12
ü Thỏa thuận trọng tài phải được thiết lập bằng văn bản
ü Thỏa thuận phải thể hiện sự tự nguyện giữa các bên đồng ý đưa tranh chấp ra
giải quyết bằng trọng tài.
ü Mối quan hệ pháp lý ràng buộc các bên
ü Nhằm giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh trong tương
lai.
Trong quá trình nghiên cứu về định nghĩa của thỏa thuận trọng tài, có thể dễ dàng
nhận thấy rằng thỏa thuận trọng tài không phải chỉ có duy nhất một hình thức mà có thể có
những loại khác nhau tùy vào ý định của các bên ký kết thỏa thuận. Phần tiếp theo của mục
này sẽ trả lời câu hỏi: Thỏa thuận trọng tài được chia thành mấy loại? Việc phân loại như vậy
nhằm mục đích gì?
2. Phân loại thỏa thuận trọng tài
Việc phân loại thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định luật áp
dụng cho từng loại thỏa thuận theo mục đích của các bên kí kết. Các công ước quốc tế, Luật
mẫu và luật pháp về trọng tài thương mại quốc tế của các quốc gia đều thừa nhận hai loại
thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý tương đương nhau. Dựa vào thời điểm thỏa thuận trọng
tài được giao kết, người ta có thể chia làm hai loại đó là điều khoản trọng tài (arbitration
clause) và thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission agreement).
2.1. Điều khoản trọng tài (arbitration clause)
Điều khoản trọng tài là điều khoản liên quan đến trọng tài nằm trong một hợp đồng,
trong đó thể hiện ý chí của các bên nhất trí đưa các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai
ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Đây là một loại thỏa thuận trọng tài rất phổ biến, đặc biệt
là trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong thời đại hiện nay. Khi soạn thảo một
hợp đồng, các bên cũng thường lường trước những bất chắc và rủi ro có thể sẽ xảy ra trong
quá trình thực hiện hợp đồng. Chính vì thế lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngay
trong hợp đồng là một giải pháp khôn ngoan để giảm thiểu tối đa rủi ro, tiết kiệm thời gian và
chi phí khi xảy ra tranh chấp.
Về đặc điểm, điều khoản trọng tài thường ngắn gọn, chủ yếu là thống nhất về cơ
quan trọng tài được lựa chọn, luật áp dụng cho tố tụng trọng tài hoặc địa điểm trọng tài và
một số quy định khác tùy thuộc vào ý định của các bên cũng như mối quan hệ pháp lý hay
13
từng loại hợp đồng. Người ta cũng thường gọi điều khoản trọng tài là “điều khoản lúc nửa
đêm” bởi đây thường là điều khoản cuối cùng mà các bên soạn thảo trong hợp đồng, thường
vào lúc nửa đêm hoặc sáng sớm24. Người ta thường ít chú trọng đến việc soạn thảo điều
khoản này bởi việc tưởng tượng một tranh chấp sẽ xảy ra trong tương lai không hề đơn giản
và không ai muốn nghĩ đến điều đó. Và kể cả khi điều khoản đã được soạn thảo thì cũng
không ai mong muốn phải sử dụng đến nó cả. Chính vì thế, các bên thường sử dụng một điều
khoản mẫu ngắn gọn của chính trung tâm trọng tài mà họ lựa chọn để giải quyết tranh chấp.
Thông thường quy trình tố tụng trọng tài được tiến hành nếu trong hợp đồng có điều
khoản trọng tài tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ. Ở một số nước châu Mỹ Latin mà điển
hình là Argentina và Uraguay, một điều khoản trọng tài đưa các tranh chấp sẽ xảy ra trong
tương lai ra giải quyết bằng trọng tài sẽ không được thực hiện cho đến khi có một thỏa thuận
đệ trình tranh chấp lên giải quyết bằng trọng tài (trong tiếng Latin gọi là compromiso) cũng
phải được thiết lập. Một quy định tương tự cũng được thừa nhận ở Brazil với một khác biệt
nhỏ đó là, trong trường hợp điều khoản trọng tài có quy định về cách thức thành lập hội đồng
trọng tài và có dẫn chiếu đến quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài cụ thể. Và trong
nhiều trường hợp, quy tắc tố tụng của ICC vẫn được ưu tiên lựa chọn nhiều nhất bởi nó cung
cấp một điều khoản tương đương với compromiso mà quy tắc của các trung tâm khác thương
không có25.
Không kể đến khó khăn trong việc áp dụng như thực tiễn ở một số quốc gia châu Mỹ
Latin, hình thức thỏa thuận trọng tài này có ưu điểm là dễ dàng thống nhất được ý chí của các
bên. Bởi lẽ, khi tranh chấp chưa thực sự xảy ra, bên nào cũng có tư tưởng rằng có thể tranh
chấp sẽ phát sinh trong tương lai mà mình có thể là người bị thiệt hại, việc lựa chọn một hình
thức giải quyết tranh chấp sẽ bảo vệ được lợi ích của bản thân mình. Chính vì thế, các bên có
thể dễ dàng thống nhất về việc đưa tranh chấp sẽ phát sinh trong tương lai ra giải quyết bằng
trọng tài. Tuy nhiên, điều khoản trọng tài cũng có những nhược điểm riêng. Do nó được đặt
ra để giải quyết một tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai tức là trên thực tế tranh chấp
chưa thực sự phát sinh nên các bên không thể biết được tranh chấp sẽ xảy ra như thế nào, về
lĩnh vực gì, ai sẽ là người bị thiệt hại… việc này khiến cho các bên thường đưa ra một điều
24
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Soạn thảo điều khoản trọng tài: Những điểm cần lưu ý.
25
Blackaby, Lindsey & Spinillo (2002), International Arbitration in Latin America, Kluwer Law International,
trang 12, 31-32 và 73; Naon (2004) “Arbitration and Latin America: Progress and Setbacks”, Freshfield
Lecture, Kluwer Law Arbitration, đoạn 149-152.
14
khoản miễn cưỡng, không chặt chẽ, đầy đủ và trong nhiều trường hợp dẫn đến việc không thể
áp dụng được.
2.2. Thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài (submission
agreement)
Thỏa thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài có thể được coi như một hợp
đồng độc lập trong đó hai bên đồng ý đưa tranh chấp đã xảy ra trong quá khứ và hiện tại ra
giải quyết bằng thủ tục trọng tài. Thỏa thuận này thường dài hơn điều khoản trọng tài rất
nhiều và trong đó quy định chi tiết các thủ tục giải quyết tranh chấp từ việc cơ quan trọng tài
nào được lựa chọn để giải quyết tranh chấp, trọng tài sẽ diễn ra ở đâu, chi phí do bên nào
chịu, luật nào được áp dụng, xác định thẩm quyền của trọng tài thậm chí người ta có thể quy
định chi tiết các quy tắc tố tụng cụ thể mà các bên muốn áp dụng. Điều này hoàn toàn có thể
lí giải được bởi lẽ không như việc soạn thảo một điều khoản trọng tài, dự trù các tranh chấp
có thể phát sinh trong tương lai, việc soạn thảo thỏa thuận đệ trình tranh chấp lên trọng tài
liên quan đến một tranh chấp đã phát sinh trong thực tế do đó các bên hoàn toàn có thể lựa
chọn các phương án giải quyết phù hợp với vụ việc.
Cũng do hoàn cảnh soạn thảo thỏa thuận này nên nó có ưu điểm là dễ dàng lựa chọn
một “khung pháp lý” phù hợp để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do tranh chấp đã thực
sự xảy ra nên các bên có thể biết được sẽ cần phải giải quyết như thế nào, lựa chọn bao nhiêu
trọng tài viên, giải quyết tranh chấp ở đâu… điều này thuận lợi hơn nhiều so với việc dự báo
về một tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, trái ngược với điều khoản trọng
tài, thỏa thuận đệ trình có một nhược điểm là khó đạt được ý chí chung của hai bên bởi lẽ khi
tranh chấp đã thực sự xảy ra, bên vi phạm thường muốn trốn tránh trách nhiệm của mình, trì
hoãn quá trình giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, mỗi loại thỏa thuận có những đặc điểm và mục đích soạn thảo riêng và
từ đó phát sinh những ưu nhược điểm riêng. Sau khi nắm được đặc điểm cơ bản, mục đích
cũng như ưu nhược điểm của các loại thỏa thuận trọng tài có thể rút ra kết luận rằng dù cho
thỏa thuận trọng tài được lập trước hay sau khi tranh chấp thì thỏa thuận này vẫn luôn mang
tính riêng biệt và độc lập với các phần còn lại của hợp đồng26. Chính vì thể nó đòi hỏi một
26
Tính độc lập về hiệu lực hay tính riêng biệt của điều khoản trọng tài có nghĩa là điều khoản trọng tài trong
một hợp đồng được coi là tách biệt với hợp đồng chính có chưa điều khoản này, và theo đó kể cả hợp đồng
chính vô hiệu hoặc chấm dứt hiệu lực thì điều khoản trọng tài sẽ vẫn có hiệu lực. Đặc tính này được ghi nhận
15
quy chuẩn pháp lý riêng để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến nội dung, hình thức và đặc
biệt quan trọng là hiệu lực của thỏa thuận. Điều này cho thấy, việc xác định luật áp dụng cho
thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần được phải lưu tâm đến khi soạn
thảo một điều khoản trọng tài hay một thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
3. Tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài
Như đã từng nhắc đến ở phần trên, thỏa thuận trọng tài đóng một vai trò vô cùng
quan trọng đối với tố tụng trọng tài. Nó là nền tảng, là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Cũng như tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng trải qua ba
giai đoạn: tiền tố tụng, tố tụng trọng tài và hậu tố tụng. Trong cả ba giai đoạn này, hội đồng
trọng tài đều phải xem xét đến thỏa thuận trọng tài để tìm ra các cơ sở pháp lý cho việc xét
xử. Để cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài, phần
sau đây sẽ phân tích vai trò của thỏa thuận trong các giai đoạn tiền tố tụng, tố tụng và hậu tố
tụng của trọng tài.
3.1. Trong giai đoạn tiền tố tụng
Giai đoạn tiền tố tụng là khi hội đồng trọng tài chưa được thành lập mà thông
thường các trung tâm trọng tài (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài quy chế27) hoặc tòa
án (khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc28) cần phải xem xét hiệu lực cũng như
nội dung của thỏa thuận trọng tài để thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp.
Câu hỏi đầu tiên mà trung tâm trọng tài hoặc tòa án cần phải tìm được câu trả lời đó
là giữa các bên có thỏa thuận trọng tài hay không? Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì vụ
việc không thể giải quyết bằng trọng tài trừ khi các bên bổ sung thỏa thuận này. Nếu giữa các
bên có tồn tại một thỏa thuận trọng tài đồng thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài
trong Điều 21.2 Quy tắc mẫu về Tố tụng trọng tài của UNCITRAL và điều 16(1) Luật mẫu về trọng tài thương
mại quốc tế của UNCITRAL.
27
Trọng tài quy chế là các bên lựa chọn cách thức tiến hành tố tụng trọng tài theo quy tắc của một tổ chức trọng
tài quy chế và với sự giúp đỡ của tổ chức đó. (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) & Trung tâm
thương mại quốc tế (ITC) (2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, trang
89).
28
Trọng tài vụ việc là trọng tài không được tiến hành theo quy tắc của tổ chức trọng tài quy chế mà các bên có
thể tự do quy định quy tắc tố tụng riêng, hay nói cách khác trọng tài vụ việc là trọng tài tự tiến hành (do it
yourself arbitration) (Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) & Trung tâm thương mại quốc tế (ITC)
(2003), Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, trang 99).
16
- Xem thêm -