LUẬN VĂN:
Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về phát triển nông nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta, chiến sĩ cộng sản
quốc tế lỗi lạc, danh nhân văn hoá thế giới. Trước khi qua đời, Người đã để lại cho Đảng
và nhân dân ta di sản lý luận vô cùng quý giá, thật sự là nguồn trí tuệ to lớn soi sáng công
cuộc đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu. Sản xuất nông nghiệp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc phát triển kinh tế
và cải thiện đời sống nhân dân. Ngay trong ngày đầu cách mạng Tháng Tám mới thành
công, trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: "Việt Nam là một
nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc
xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một
phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh" [43,
tr.225].
Mặc dù bộn bề với trăm công ngàn việc của cuộc kháng chiến cứu nước, nhưng Hồ
Chí Minh rất quan tâm, đã dành nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu, chỉ đạo phát triển
sản xuất nông nghiệp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp là một bộ phận
trong hệ thống tư tưởng kinh tế của Người. Những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về
phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện
công nghiệp hoá; phát triển kinh tế tập thể, xã hội hoá nông nghiệp, xây dựng quan hệ sản
xuất trong nông nghiệp là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam, không những có ý nghĩa thực tiễn to lớn, mà còn là cơ sở lý luận vô cùng
quan trọng đã và đang được các cấp bộ Đảng và chính quyền vận dụng để xây dựng phát
triển nền kinh tế nông nghiệp nước ta đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền nông nghiệp nước ta cơ bản đã chuyển
sang sản xuất hàng hoá, tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong nhiều năm. Tuy
nhiên, sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn nhiều mặt bất cập, thiếu tính bền vững, quy
mô sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nhỏ, phân tán, trình độ khoa học công nghệ thấp,
sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản nước ta trên thị trường thế giới yếu, thị trường tiêu
thụ hạn hẹp, thu nhập của nông dân thấp.
Quảng Ngãi, một tỉnh duyên hải miền Trung, nông nghiệp là ngành sản xuất chính,
người dân chủ yếu sống bằng nghề nông. Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của
tỉnh tăng trưởng tương đối ổn định, tự đảm bảo được lương thực và bước đầu hình thành
được một số vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Cơ sở vật chất, kết cấu hạ
tầng trong nông nghiệp, nông thôn từng bước được tăng cường. Song, cơ cấu kinh tế nông
nghiệp của tỉnh còn lạc hậu và chuyển dịch chậm, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn,
quy mô sản xuất quá nhỏ bé, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp. Việc ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn nhiều hạn
chế. Việc quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên chưa tốt. Phần lớn các hợp tác
xã sau chuyển đổi hoạt động cầm chừng kém hiệu quả, kinh tế cá thể nhỏ bé, manh mún.
Đời sống của người dân ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao, nhất
là ở vùng sâu, vùng xa, vùng kháng chiến cũ.
Những hạn chế của sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung, Quảng Ngãi nói riêng
có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhưng trước hết là do chưa
nhận thức sâu sắc và vận dụng tốt những tư tưởng chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
hoạt động thực tiễn.
Tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng rút ra 5 bài học lớn,
trong đó bài học đầu tiên là: Trong quá trình đổi mới cần phải kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: Cùng
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho nhận thức và hành động của Đảng. Đặc biệt là tháng 12 năm 2003 Trung ương Đảng
và Chính phủ quyết định đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thành một môn học chính thức vào
giảng dạy trong các trường cao đẳng và đại học của cả nước.
Như vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận, nâng cao trình độ nhận
thức phục vụ cho công tác giảng dạy và góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển
trong tình hình hiện nay là cần thiết.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ sau Đại hội VII của Đảng, đề tài về tư tưởng Hồ Chí Minh đã thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của các cơ quan, ban ngành và các nhà khoa học trong và ngoài
nước. Liên quan đến nội dung luận văn nghiên cứu hiện nay đã có một số công trình chủ
yếu được công bố như :
- “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế” của TS Phạm Ngọc Anh, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2003.
- “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt
Nam hiện nay” của TS Nguyễn Huy Oánh, Nxb CTQG, Hà Nội năm 2004.
- "Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá
ở Việt Nam" Nguyễn Văn Bích - Chu Tiến Quang, Nxb Nông nghiệp năm 1999.
- "Nông nghiệp các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ trong những năm đổi mới" của
TS Trương Minh Dục, Nxb Đà Nẵng năm 2006.
- “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước
ta” của Hà Lệ Hằng - Lê Thị Anh Đào đã đăng trên Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 5 năm
2003.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp” của Hà Lệ
Hằng đăng trên Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 2 năm 2004.
Hiện nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về việc vận dụng tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào phát triển nông nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi.
Những công trình trên đây có giá trị to lớn về lý luận, song cũng chỉ là sự mở đầu, có
tính chất khai phá, nêu lên vấn đề để luận văn của tác giả tiếp tục kế thừa, phân tích sâu
hơn và đưa ra giải pháp vận dụng thúc đẩy thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở địa phương
Quảng Ngãi.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Một là: Nắm vững những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sản xuất
nông nghiệp và tình hình vận dụng những tư tưởng đó vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp
ở nước ta thời gian qua nói chung, tỉnh Quảng Ngãi trong nói riêng để từ đó nâng cao
nhận thức phục vụ cho công tác giảng dạy hiện nay của bản thân.
Hai là: Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu tiếp tục vận dụng có hiệu
quả tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy phát triển, chuyển dịch mạnh mẽ sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao đời
sống nhân dân trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày, luận giải làm sáng tỏ những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về phát triển
sản xuất nông nghiệp toàn diện, về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện công nghiệp
hoá nông nghiệp, về phát triển kinh tế tập thể, xã hội hoá nông nghiệp, xây dựng quan hệ sản
xuất mới trong nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá quá trình vận dụng những tư tưởng đạo của Hồ Chí Minh về
phát triển sản xuất nông nghiệp vào trong thực tiễn đổi mới ở nước ta nói chung, nhất là
trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, khẳng định những thành tựu đã đạt
được, chỉ rõ hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại yếu kém trong việc vận dụng
những tư tưởng đó ở tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục quán triệt sâu sắc và
vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh vào thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng
Ngãi phát triển, chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn chuyên ngành kinh tế chính trị, luận văn tập trung
nghiên cứu những tư tưởng chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nông nghiệp và tình
hình vận dụng những tư tưởng đó vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Quảng Ngãi
trong thời gian từ 1995 - 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa vào phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, chủ yếu là sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp lôgic kết hợp
với lịch sử, đối chiếu thực tế và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác của khoa
kinh tế chính trị học.
Nguồn tài liệu chủ yếu được sử dụng trong luận văn là các tác phẩm kinh điển Mác,
Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh, văn kiện của Đảng, các tác phẩm tiêu biểu các đồng chí
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các tác phẩm và tài liệu có liên quan của các cơ quan, ban
ngành.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần luận giải làm sáng tỏ, sâu sắc những tư tưởng chủ đạo của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về phát triển sản xuất nông nghiệp.
Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá quá trình hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước ta đối với thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp, mà đặc biệt là hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi.
Luận văn đã đề xuất được những giải pháp chủ yếu để tiếp tục vận dụng có hiệu quả
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp của Quảng
Ngãi chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ổn định và nâng cao đời sống
nhân dân.
Luận văn góp phần đổi mới, hoàn thiện các chính sách về phát triển kinh tế nông
nghiệp và kinh tế nông thôn ở trên địa bàn của tỉnh nói riêng, cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương1
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ SỰ VẬN DỤNG NHỮNG
TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ
Chí Minh và khẳng định Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận trong hệ
thống tư tưởng kinh tế của Người. Những tư tưởng kinh tế nói chung, về phát triển nông
nghiệp nói riêng của Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng về phát triển nông nghiệp của Hồ Chí Minh đã
và đang là những cơ sở lý luận cho đường lối phát triển kinh tế nói chung, đường lối phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng của Đảng ta.
1.1. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện
Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện là một trong những tư tưởng cơ bản của Hồ
Chí Minh về phát triển nông nghiệp. Vấn đề này được Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi
nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nông dân.
Sản xuất nông nghiệp toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, có ngành trồng trọt phát triển toàn diện, bao gồm cả trồng cây lương thực,
cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ.
Về trồng cây lương thực, tập trung phát triển cây lương thực, vì nó giải quyết nhu cầu
cấp thiết về "cái ăn" cho đồng bào. Trong các cây lương thực, Người nói nhiều đến việc
trồng lúa, coi cây lúa là chính; song Người cũng rất chú trọng các loại cây hoa màu khác
để tạo điều kiện phát triển chăn nuôi. Bởi vì hoa màu không những là cây lương thực quý
của người, mà còn dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm; thiếu hoa màu chăn nuôi sẽ kém
phát triển. Người coi trọng cây hoa màu đến mức dành hẳn một số bài báo đăng trên Báo
Nhân Dân để cổ động, khuyến khích bà con nông dân trồng cây hoa màu.
Về trồng cây công nghiệp, khi đi thăm và chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp ở
các tỉnh Tuyên Quang, Hưng Yên, Hà Đông, Nghệ An, Thanh Hoá,...Người yêu cầu cần
phải chú ý phát triển cây công nghiệp, bởi vì cây công nghiệp không đạt được kế hoạch thì
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Trong các cây công nghiệp, Người rất
quan tâm đến cây bông, cây dâu tằm, vì đây là những cây nguyên liệu làm sợi cho ngành
dệt vải, giải quyết "cái mặc" cho đồng bào. Sau cây bông, cây dâu tằm Người còn nói
nhiều đến cây cà phê, cây lạc, cây vừng, cây mía, cây chè,...vì nước ta có điều kiện tự
nhiên tương đối thuận lợi cho các loại cây nầy phát triển, đồng thời đó là những cây vừa
cho hiệu quả kinh tế cao, vừa là nguồn hàng xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ và máy móc.
Về trồng cây ăn quả, Người rất chú ý đến đời sống nông dân, khi đến những nơi có
điều kiện, Người đều nhắc nhở trồng cây ăn quả. Người quan tâm đến từng chi tiết đối với
người lao động, Người còn nhắc đến cả việc trồng ớt để ăn.
Về trồng cây lấy gỗ, đối với nông dân ở đồng bằng Người động viên phải ra sức trồng
cây, vì sau nầy không những sẽ có đủ gỗ làm nhà, đóng giường, bàn ghế, làm nông cụ, mà
còn góp phần làm cho nước ta phong cảnh ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hoà hơn. Đối
với thanh niên Người chỉ rõ trồng cây đó là nguồn lợi kinh tế lớn. Theo tính toán của
Người, mỗi thanh niên trồng 3 cây, mỗi cây 3 đồng, trong 5 năm 8 triệu thanh niên miền
Bắc sẽ thu hoạch được một số tiền rất lớn là 360 triệu đồng, có thể xây dựng được tám nhà
máy cơ khí loại khá. Chính vì lợi ích to lớn, nhiều mặt của việc trồng cây mà Người đã
phát động phong trào Tết trồng cây và viết nhiều bài báo để cổ động nhân dân tạo nên một
phong tục "Tết trồng cây" tốt đẹp ở nước ta.
Thứ hai, có ngành chăn nuôi phát triển. Tại hội nghị tổng kết phong trào sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Người yêu cầu phải phát triển mạnh chăn nuôi để có
thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón. Chăn nuôi không những là nguồn thực phẩm
quan trọng mà còn cung cấp phân bón cho trồng trọt. Chăn nuôi và trồng trọt có mối quan
hệ mật thiết, tương hỗ với nhau. Trong chăn nuôi, Người chú trọng chăn nuôi trâu, bò, lợn vì
trâu, bò, lợn là nguồn lợi lớn, lại là một nguồn phân bón tốt cho ruộng nương. Đi liền với việc
khuyến khích phát triển chăn nuôi, nhiều lần Người nhắc nhở không được lạm sát trâu bò, vì
vừa làm giảm sức kéo, vừa gây ra tệ nạn ăn uống lãng phí.
Thứ ba, có ngành lâm nghiệp phát triển. Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến việc trồng
cây lấy gỗ ở đồng bằng, mà còn luôn nhắc nhở bà con các dân tộc miền núi trồng rừng và bảo
vệ rừng, bởi vì cây và rừng là nguồn lợi lớn. Nhiều lần Người nhắc lại câu tục ngữ "Rừng
vàng biển bạc" và căn dặn "Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng ta"
[49, tr.321]. Người còn chỉ rõ nguy cơ tác hại nhiều mặt của nạn phá rừng. Phá rừng sẽ dẫn
đến lụt lội, trôi đất, mất nước, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống. Phá rừng thì dễ,
nhưng gây lại rừng thì khó phải mất nhiều công của và thời gian. Đi liền với việc trồng
rừng, bảo vệ rừng là việc khai thác nguồn lợi từ rừng. Việc khai thác lâm thổ sản từ rừng là
hết sức cần thiết vì lợi ích kinh tế to lớn của nó. Nhưng việc khai thác không hợp lý sẽ để
lại hậu quả nặng nề, vì vậy việc khai thác rừng phải có kế hoạch thật hết sức chu đáo, phải
chấm dứt tình trạng khai thác rừng bừa bãi.
Thứ tư, có ngành thuỷ, hải sản phát triển. Nước ta có tiềm năng thế mạnh về biển, do
đó Người động viên nhân dân cần phải ra sức đẩy mạnh nghề đánh cá, nghề làm muối,
nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển mạnh các nguồn lợi hải sản. Nước ta người nông dân vốn
sống chủ yếu bằng nghề trồng cây lúa nước. Sự kết hợp giữa trồng lúa nước với nuôi các
loại thuỷ, hải sản trong vườn, ao, hồ, ruộng, sông suối, biển là rất phù hợp, vừa phát triển
sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa tạo điều kiện để cải thiện đời sống nhân dân rất
tốt. Khi đến những nơi có điều kiện thuận lợi, Người đều nhắc cùng với việc trồng lúa, hoa
màu, chăn nuôi thì phải đẩy mạnh việc nuôi trồng thuỷ, hải sản, đặc biệt là phải thả cá.
Thứ năm, đặc biệt quan tâm đến việc phát triển nghề phụ gia đình. Theo Người,
miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập,
do đó Người yêu cầu cần phải phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình của xã viên. Khai
thác mảnh vườn, mở mang nghề phụ là rất phù hợp và cần thiết để giải quyết công ăn việc
làm nâng cao đời sống cho bà con nông dân ở nông thôn, và đây cũng là một yêu cầu
khách quan bức thiết hiện nay để từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn đi
trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ sáu, phát triển nền nông nghiệp theo mô hình sản xuất hàng hoá, mạnh mẽ và
vững chắc. Hồ Chí Minh quan niệm nền nông nghiệp toàn diện không phải là nền sản xuất
nhỏ, manh mún, tự sản tự tiêu, mà đó là một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển,
có quy mô lớn, có quy hoạch, kế hoạch phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá
nền kinh tế quốc dân. Khi thăm và nói chuyện với đồng bào xã Đại Nghĩa (Hà Đông),
Người chỉ rõ: "Trong kế hoạch 5 năm còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông nghiệp.
Như nơi nào sản xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa là chính, nơi
nào sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất chè là chính,v.v...Làm như
vậy thì sẽ sử dụng một cách hợp lý và có lợi nhất của cải giàu có của đất nước ta và sức lao
động dồi dào của nhân dân ta. Làm như vậy thì sau nầy dùng máy cũng dễ và tiện" [49,
tr.407]. Người coi đây là điều kiện tiền đề, là bước chuẩn bị đầu tiên để xây dựng, phát
triển một nền sản xuất hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn.
Vì sao Hồ Chí Minh coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện? Sở dĩ Người
coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, là vì phát triển nông nghiệp toàn diện không
những đáp ứng được nhu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ ở, ổn định và cải thiện được đời sống
cho nhân dân, mà còn vì phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát
triển nông nghiệp mạnh mẽ và bền vững. Như chúng ta đã biết, trong trồng trọt bao gồm
nhiều loại cây khác nhau, nếu biết trồng xen canh, gối vụ thì vừa tận dụng được đất đai mà
còn làm cho năng suất từng loại cây trồng tăng lên. Trong nông nghiệp còn có chăn nuôi,
sự phát triển trồng trọt đa dạng sẽ đẩy mạnh được chăn nuôi. Chăn nuôi phát triển thì lại có
nhiều phân bón để đẩy mạnh trồng trọt. Sự phát triển cả trồng trọt và chăn nuôi sẽ làm cho
bản thân ngành nông nghiệp phát triển. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm, ngư
nghiệp. Nếu phát triển cả lâm, ngư nghiệp thì sản xuất nông nghiệp sẽ phát triển mạnh, bền
vững và có đóng góp to lớn cho việc tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế. Nông nghiệp toàn
diện còn bao gồm các ngành nghề phụ, ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Việc phát
triển ngành nghề bổ sung cho nông nghiệp sẽ làm cho nền nông nghiệp phát triển theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống nông dân.
Phát triển ngành nghề sẽ đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng tăng dần công nghiệp, dịch vụ, giảm dần nông nghiệp. Phát triển ngành nghề sẽ
hình thành yêu cầu và điều kiện thúc đẩy việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông
thôn, tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp trên địa bàn nông thôn và xây dựng nông
thôn mới.
Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh nền nông nghiệp toàn diện là nền nông
nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, có cơ cấu kinh tế nội bộ
ngành hợp lý, cân đối, hài hoà, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ theo hướng
sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, cải tiến nông cụ,
ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá để phát triển lực
lượng sản xuất trong nông nghiệp
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Với tư tưởng ''quan trọng nhất là nông nghiệp", ''coi nông nghiệp làm gốc, làm chính",
trong quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế của đất nước, Hồ Chí Minh rất chú ý đến công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Điều này xuất phát từ đặc điểm thực tiễn
của nền kinh tế nước ta, từ mối quan hệ biện chứng giữa sản xuất nông nghiệp và sản xuất
công nghiệp, từ yêu cầu của việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ đòi hỏi
của việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ của dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn, trước hết phải ra sức
làm tốt công tác thuỷ lợi, phòng chống thiên tai hạn hán, lụt bão. Người đặc biệt quan tâm
đến thuỷ lợi là vì, đối với nền nông nghiệp lúa nước, dân ta đã có câu: "Nhất nước, nhì
phân, tam cần, tứ giống". Hồ Chí Minh hiểu rõ nước là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân ở
nông thôn. Người khẳng định, nói đến kinh tế nông thôn trước hết là nói đến vấn đề nước.
Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền, nước sông lên nhiều thì
thuyền đi lại dễ dàng. Cho nên, phải làm sao đẩy mạnh công tác thuỷ lợi cho đều, cho tốt
và chắc chắn. Hồ Chí Minh hiểu làm thuỷ lợi trước mắt tuy rất nhiều khó khăn nhưng lợi
ích của nó vô cùng to lớn và lâu dài, vì vậy Người đã động viên nông dân phải gắng làm
thuỷ lợi, gắng chịu khó nhọc trong vài năm để được sung sướng lâu dài.
Người đã chỉ ra cách làm thuỷ lợi là cần phải kết hợp công trình lớn với công trình
vừa và công trình nhỏ; cần phải kết hợp việc giữ nước với việc dẫn nước và việc tháo
nước. Trong điều kiện kinh phí Nhà nước còn hạn chế, Người chỉ ra phương châm, cơ chế
về nguồn lực làm thuỷ lợi: Các công trình thuỷ lợi có quy mô lớn thì Nhà nước xuất tiền,
nhân dân xuất sức. Các công trình thuỷ lợi có quy mô vừa thì Nhà nước với nhân dân cùng
làm. Các công trình thuỷ lợi nhỏ thì nhân dân tự làm.
Trong việc phòng chống thiên tai hạn hán, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đồng
bào phải thấm nhuần tinh thần "nhân định thắng thiên", tư tưởng phải thông suốt, phải tin
vào chính bản thân mình. Khi có hạn chúng ta phải quyết tâm khơi thêm mương, đào thêm
giếng, gánh nước, tát nước. Phải quyết tâm làm đủ mọi cách để có đủ nước tưới ruộng.
Chúng ta phải thực hiện "vắt đất ra nước, thay trời làm mưa". Phải kiên quyết động viên và
dựa vào lực lượng vô cùng vô tận của quần chúng để làm cho có nước.
Cùng với chống hạn, công tác phòng chống lũ lụt cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm. Người cho rằng giặc lụt là đồng minh của giặc đói. Muốn chống đói thì phải
chống lụt. Muốn chống lụt thì phải kịp thời đắp đê, giữ đê. Người coi việc phòng chống lũ
lụt như một chiến dịch lớn, trên một mặt trận dài, trong một thời gian khá lâu và Người
kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ phải có quyết tâm vượt mọi khó khăn, làm tròn nhiệm
vụ đắp đê và giữ đê, phòng lụt và chống lụt.
Muốn làm tốt công tác thuỷ lợi, theo Người phải dựa vào lực lượng to lớn của quần
chúng nhân dân, phải có kế hoạch chu đáo, phải ra sức tuyên truyền giải thích, phải khéo
động viên nhân dân, phải cố gắng gây thành một phong trào sôi nổi. Những tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thuỷ lợi cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn.
Thứ hai, là khâu giống. Chọn được giống tốt là khâu quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp. Có giống tốt mới có điều kiện để nâng cao được sản lượng, chất lượng và năng
suất lao động trong nông nghiệp. Trên cơ sở đó mới có thể phát triển được một nền nông
nghiệp bền vững. Trong Bài nói chuyện với cán bộ Hưng Yên về những việc cần làm để vụ
mùa thắng lợi, ngày 03.7.1958, Hồ Chí Minh khẳng định: "Giống tốt thì lúa tốt, lúa tốt thì
được mùa. Điều đó rất dễ hiểu. "Lúa tốt vì giống, lúa sống vì phân" [48, tr.194]. Trong điều
kiện của những năm 1950 nền kinh tế ở nước ta còn hết sức khó khăn, mà Hồ Chí Minh đã
đặt vấn đề chọn giống tốt, là một trong những việc quan trọng cấp bách cần phải làm để
phát triển kinh tế nông nghiệp. Quan điểm ấy thật quý báu và càng đúng hơn trong điều
kiện tiến bộ kỹ thuật hiện nay.
Thứ ba, phải đẩy mạnh cải tiến nông cụ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, thực hiện công
nghiệp hoá nông nghiệp. Hồ Chí Minh cho rằng cải tiến nông cụ là một công việc rất quan
trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp. Nói về ích lợi của việc cải tiến nông cụ, Người
đã chỉ rõ nếu làm tốt phong trào cải tiến nông cụ, thì sức lao động sẽ lợi gấp đôi, gấp ba,
mà lúa và hoa màu sẽ tốt gấp bội, tức là năng suất lao động sẽ tăng lên nhiều. Chúng ta đều
biết rằng, năng suất lao động chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nhưng trong đó nhân tố
giữ vai trò quyết định năng suất cao hay thấp là do công cụ lao động hiện đại hay thô sơ.
Chính do nông cụ của chúng ta thô sơ, lạc hậu mà người nông dân làm việc tốn nhiều công
sức, vất vả nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế lại kém. Theo tư tưởng của
Người, việc cải tiến nông cụ cần phải thực hiện mạnh hơn nữa, toàn diện hơn nữa; phải
chú ý cải tiến từ cái cày, cái bừa, chiếc xe vận tải cho đến các dụng cụ làm cỏ, tuốt lúa, thái
rau,...Đồng thời với việc gây dựng phong trào cải tiến nông cụ rộng khắp, Người yêu cầu
phải đẩy mạnh công nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất
lớn. Trong Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) bàn về phát
triển công nghiệp, Người nói: "Công nghiệp phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá
học, thuốc trừ sâu...để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các
hợp tác xã nông nghiệp" [49, tr.544-545].
Cùng với việc gây dựng phong trào cải tiến nông cụ, đưa máy móc vào sản xuất,
Người đề nghị cán bộ và nhân dân phải ra sức học tập và ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Hồ Chí Minh rất coi trọng khoa học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì Người đã nhìn
thấy trước được xu hướng phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới và vai trò cực kỳ
quan trọng của nó trong việc nâng cao năng suất lao động. Người khẳng định khoa học
công nghệ từ sản xuất mà ra và yêu cầu khoa học công nghệ phải quay lại phục vụ sản
xuất, đời sống, phải luôn cố gắng giải quyết tốt các yêu cầu thực tiễn cách mạng đất nước
đặt ra.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn coi "trí thức là vốn liếng quý báu
của dân tộc". Bản thân Người rất trân trọng các trí thức, tin tưởng giao trọng trách cho họ,
có chính đãi ngộ và tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm việc, cống hiến tài năng; đồng thời
luôn nhắc nhở trí thức cần phải có quan điểm phục vụ quần chúng. Nhờ đó, trí thức nước ta đã
có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước.
Để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất có hiệu quả,
Người hết sức quan tâm đến việc phổ biến tri thức khoa học rộng rãi vào quần chúng nhân
dân và kịp thời khai thác đúc kết những kinh nghiệm hay của quần chúng để đẩy mạnh sản
xuất; vì theo Người nhân dân ta rất cần cù, thông minh, khéo léo và có rất nhiều kinh
nghiệm quý báu. Quan điểm quần chúng của Người trong việc triển khai ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt càng có ý nghĩa hơn trong
tình hình khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác hoá, xã hội hoá sản xuất, xây dựng quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nông thôn
Từng bước đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, hình thành và phát triển các
hợp tác xã trong nông nghiệp là tư tưởng lớn, có từ rất sớm trong Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, xuất bản năm 1927, Người đã dành hẳn một chương
để nói khá kỹ về hợp tác xã, từ căn cứ lý luận, lịch sử phát triển cho đến các loại hình và
cách thức tổ chức hợp tác xã. Sở dĩ, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến hợp tác hoá, xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nông thôn là vì theo Người,
đây không chỉ là một biện pháp quan trọng để đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm,
nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống nông dân, phát triển nền sản xuất nông
nghiệp một cách vững chắc, mà còn là một tất yếu khách quan trên con đường đấu tranh
cách mạng, xoá bỏ áp bức bóc lột, xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đưa nông dân từng bước vào con đường làm ăn tập thể đã được Ăng ghen nêu
ra từ năm 1894. Trong tác phẩm "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức" Ăng ghen đã dạy rằng
khi nắm được chính quyền, chúng ta không được suy nghĩ về việc cưỡng bức những người
tiểu nông như chúng ta cần phải làm với bọn địa chủ lớn, mà nhiệm vụ chính là ở chỗ phải
chỉ rõ cho nông dân thấy, chúng ta có thể cứu và giữ gìn đất đai, vườn tược cho họ chỉ khi
chuyển chúng thành sở hữu tập thể và sản xuất tập thể.
Sau này V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng đó trong tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác
xã" chỉ rõ tầm quan trọng của hợp tác xã trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin khẳng định: "Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì
chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa" [33, tr.248] và đưa ra
những chỉ dẫn có tính nguyên tắc về hợp tác hoá trong thực tiễn, đó là: tự nguyện; nhà nước
phải giúp đỡ về vật chất; thực hiện từng bước đi dần từ thấp đến cao. Đồng thời V.I.Lênin lưu
ý cần phải quan tâm đến việc giáo dục thuyết phục, nâng cao trình độ văn hoá cho nông dân
và phải nêu gương bằng thực tiễn, tạo ra lợi ích thiết thân cho họ.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân và muốn phát triển nông nghiệp, làm cho nông dân
thật sự ấm no, giàu có, hạnh phúc thì phải đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể,
bắt đầu từ chỗ hình thành và phát triển các tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến
chỗ xã hội hoá nông nghiệp.
+ Nói về sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc đưa nông dân đi vào con
đường làm ăn tập thể, hình thành và phát triển các hợp tác xã trong nông nghiệp, Người đã
giải thích: "Trong lời Tuyên ngôn của hợp tác xã Anh đã nói: Cốt làm cho những người vô
sản giai cấp hoá ra anh em...làm giùm lẫn nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh. Làm
sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây. Tục ngữ An
nam có câu: "Nhóm lại thì giàu chia nhau thành khó" và "Một cây làm chẳng nên non,
nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao". Lý luận hợp tác xã đều ở trong những điều ấy" [41,
tr.313-314]. Vì vậy, muốn giàu có thì phải vào hợp tác xã, bởi nhiều người hợp lại thì sẽ
làm được nhiều hơn, tốt hơn, nông dân có thêm sức để cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất
và sẽ đi đến chỗ ấm no, sung sướng. Thật vậy, hợp tác tạo nên sức mạnh tập thể, giúp các
hộ nông dân làm được những công việc mà từng hộ gia đình riêng lẻ không có khả năng
thực hiện, hoặc thực hiện kém hiệu quả hơn như: phòng chống thiên tai, xây dựng các
công trình thuỷ lợi, phòng trừ dịch hại, sâu bệnh,...Ngoài lợi ích to lớn về kinh tế, hợp tác
còn là cơ sở để xây dựng tình đoàn kết, phát huy tinh thần tương thân tương ái để xây dựng
cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn.
+ Mục đích cuối cùng của việc làm ăn tập thể, xây dựng và phát triển hợp tác xã như
Hồ Chí Minh đã chĩ rõ là để cải thiện đời sống nông dân, làm cho nông dân được no ấm,
mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh. "Dân có giàu thì nước mới mạnh.
Đó là mục đích riêng và mục đích chung của việc xây dựng hợp tác xã" [48, tr.537].
+ Về bước đi và hình thức hợp tác hoá nông nghiệp: Rút kinh nghiệm từ thực tiễn, Hồ
Chí Minh nhiều lần khẳng định hợp tác hoá nông nghiệp ở nước ta, cần phải trải qua hình
thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Nhưng trước hết phải bắt đầu từ chỗ
xây dựng và phát triển rộng khắp tổ đổi công, với các hình thức như tổ đổi công từng vụ,
từng việc, tổ đổi công thường xuyên. Sau này tổ đổi công thường xuyên đã rộng khắp và
có nền nếp rồi, mới tiến lên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến cao. Chớ vội tổ
chức hợp tác xã ngay. Chúng ta phát triển từng bước vững chắc tổ đổi công và hợp tác xã
thì hợp tác hoá nông nghiệp nhất định sẽ thành công.
+ Về nguyên tắc xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn dặn là không
được cưỡng ép ai hết. Phải tuyên truyền, giải thích cho nông dân thấy được lợi ích của tổ
đổi công và hợp tác xã. Phải làm sao cho những gia đình trong tổ đổi công và hợp tác xã
đều có lợi. Có lợi thì người ta mói vui lòng vào. Quản trị phải dân chủ. Việc làm phải bàn
bạc với nhau, mọi người đều hiểu mới vui lòng làm.
+ Về phương châm tiến hành: chắc chắn, thiết thực, từ nhỏ đến lớn. Chớ ham làm
mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc chắn hơn làm nhiều, làm rầm rộ mà không chắc chắn. Đi
bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần. Đã tổ chức là phải làm việc
thiết thực, chứ không phải tổ chức cho có tên mà không có thực tế, có số lượng mà không
có chất lượng. Phải làm từ nhỏ đến lớn, không nên tổ chức quá to, vì quá to thì khó quản
lý, dễ thất bại.
+ Về củng cố và phát triển hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn dặn cần phải chú ý các điều
kiện cần thiết sau:
- Đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục, vận động thuyết phục nông dân cần phải tổ
chức tốt các hợp tác xã kiểu mẫu.
- Cán bộ đảng viên phải chí công vô tư, phải làm tròn nhiệm vụ của người cộng sản;
đoàn viên thanh niên lao động phải làm gương mẫu, làm đầu tàu.
- Lãnh đạo phải dân chủ. Quản lý phải chặt chẽ và toàn diện. Phân phối phải công bằng.
Các hợp tác xã phải trao đổi sáng kiến và kinh nghiệm cho nhau.
- Phải chú ý lợi ích kinh tế, phải làm cho xã viên trong hợp tác xã thu nhập nhiều hơn
trong tổ đổi công và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập nhiều hơn nông dân còn làm ăn
riêng lẻ.
- Từ trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp phải ra sức giúp đỡ phong trào
hợp tác xã, phải cố gắng phục vụ lợi ích hợp tác xã.
- Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của chi bộ đảng cơ sở đối với hợp tác xã.
Cùng với việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể, hình thành và phát triển tổ đổi công,
hợp tác xã trong nông nghiệp, Người còn nhắc nhở đưa những người làm nghề thủ công
vào các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất
của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp
tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Về xã hội hoá sản xuất nông nghiệp: Theo Hồ Chí Minh quá trình vận động, phát
triển nền sản xuất xã hội từ thấp đến cao, từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, việc xã
hội hoá sản xuất nông nghiệp là một tất yếu khách quan, có tính quy luật. Quá trình xây
xây dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng tuân
theo quy luật chung đó của lịch sử.
Khi nói về vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản, VI. Lênin viết: "Vai trò tiến bộ của
chủ nghĩa tư bản về mặt lịch sử có thể tóm tắt bằng hai luận điểm: tăng lực lượng sản xuất
của lao động xã hội và xã hội hoá lao động. Nhưng hai sự kiện ấy biểu hiện dưới những
hình thức rất khác nhau trong những ngành khác nhau của nền kinh tế quốc dân" [27,
tr.753-754]. VI.Lênin đã chỉ rõ quá trình xã hội hoá biểu hiện ra ở chỗ:
Một là, chấm dứt tình trạng phân tán của những đơn vị kinh tế nhỏ riêng lẻ vốn có
trong nền kinh tế tự nhiên, làm hình thành một thị trường rộng lớn thống nhất trong toàn
quốc và sau đó trên toàn thế giới. Sản xuất cho mình biến thành sản xuất cho toàn xã hội.
Hai là, thay vào tình trạng phân tán trước kia là sự tập trung sản xuất chưa từng thấy,
cả trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp.
Ba là, đẩy lùi những hình thức lệ thuộc cá nhân, là những hình thức vốn có trong các
chế độ kinh tế cũ...So với lao động của người nông dân bị lệ thuộc hay bị nô dịch, thì lao
động của người công nhân làm thuê tự do trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân là một
hiện tượng tiến bộ.
Bốn là, tạo ra tình trạng lưu động của dân cư mà các chế độ kinh tế xã hội cũ không
cần có, và ở vào thời kỳ ấy tình trạng lưu động đó cũng không thể tồn tại một cách khá
rộng rãi được.
Năm là, thường xuyên làm giảm bớt tỉ lệ của số dân cư làm nghề nông và làm tăng
thêm số trung tâm công nghiệp lớn.
Sáu là, làm cho dân cư ngày càng thấy cần phải lập hội, kết đoàn và làm cho các tổ
chức liên hiệp ấy có một tính chất riêng biệt, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt hình thành những
tập đoàn lớn trong sản xuất và thúc đẩy mạnh mẽ nội bộ mỗi tập đoàn ấy đi đến chỗ liên
hiệp nhau lại.
Bảy là, sự chuyển biến mau chóng của các phương thức sản xuất và sự tập trung rất
lớn của sản xuất, tiêu diệt hết thảy mọi hình thức lệ thuộc cá nhân và những quan hệ gia
trưởng, sự lưu động của dân cư, sự ảnh hưởng của các trung tâm công nghiệp lớn v.v… tất
cả những điều ấy không thể không dẫn đến một sự thay đổi sâu sắc trong chính ngay tính
chất của những người sản xuất.
Từ các biểu hiện ở trên, chúng ta có thể khái quát: Xã hội hoá sản xuất là sự liên kết
nhiều quá trình kinh tế riêng lẻ thành quá trình kinh tế xã hội dựa trên cơ sở phân công lao
động xã hội và hợp tác sản xuất phát triển.
Trong lịch sử đã từng có hai loại hình xã hội hoá sản xuất, đó là xã hội hoá sản xuất
tư bản chủ nghĩa và xã hội hoá sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo chúng tôi quan điểm xã hội hoá sản xuất nông nghiệp của Hồ Chí
Minh là gắn trực tiếp với nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và nội dung của nó phải được
thể hiện trên cả ba mặt của quá trình kinh tế - xã hội, kinh tế - kỹ thuật và kinh tế - tổ chức,
quản lý sản xuất. Ba mặt nói trên của xã hội hoá sản xuất có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
vì vậy trong quá trình xây dựng phát triển nền sản xuất nông nghiệp chúng ta phải thực
hiện đồng thời cả 3 nội dung:
Xã hội hoá mặt kinh tế - xã hội: xác lập quan hệ sở hữu đa dạng về hình thức, đi dần
từ thấp đến cao, xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Xã hội hoá mặt kinh tế - kỹ thuật: thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Xã hội hoá mặt kinh tế - tổ chức, quản lý sản xuất: phân công và hiệp tác sản xuất
phát triển rộng khắp, quản lý nền kinh tế thống nhất, kiểm soát và phân phối thu nhập hợp
lý các vùng, các ngành và trong toàn bộ nền kinh tế.
Chỉ khi nào tiến hành đồng bộ và hoàn thành cơ bản không những về mặt quan hệ sở
hữu, mà cả về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để có năng suất lao động cao,
kiểm soát được việc sản xuất và phân phối thì chúng ta mới có thể đưa đến cho nông dân
một cuộc sống thật sự ấm no, sung sướng như mong ước của Người.
1.2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT
TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
1.2.1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh qua đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển nền sản xuất nông nghiệp toàn diện
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả nước thống nhất quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12.1976) chủ trương phát
triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, chú trọng cả trồng trọt lẫn chăn nuôi, đẩy mạnh lâm
nghiệp, ngư nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Về lương thực, đẩy mạnh thâm canh đi đôi với mở rộng diện tích trồng lúa bằng tăng
vụ và khai hoang, xây dựng những vùng lúa trọng điểm tạo ra nguồn lương thực hàng hoá.
Đối với hoa màu phải phát triển mạnh, hình thành những vùng tập trung, sản xuất đi đôi
với chế biến, cơ khí hoá đồng bộ. Đối với cây thực phẩm, phát triển sản xuất tập trung
- Xem thêm -