Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn vấn đề nữ quyền trong sáng tác của y ban...

Tài liệu Luận văn vấn đề nữ quyền trong sáng tác của y ban

.PDF
138
128
114

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  TRẦN THU HÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên - Năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  TRẦN THU HÀ VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60. 22. 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp Thái nguyên, Năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, khoa sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Tác giả xin chân thành cảm ơn nhà văn Y Ban đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp, thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K17 chuyên ngành Ngữ văn trường ĐHSP Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này. Tác giả Trần Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Mục lục ............................................................................................................... i PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2 2.1. Đánh giá chung về sáng tác của Y Ban ...................................................... 2 2.2. Về vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban .......................................... 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn .............................................. 8 3.1. Mục đích ..................................................................................................... 8 3.2. Nhiệm vụ .................................................................................................... 8 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu ..................................................... 9 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban ......... 9 4.2. Phạm vi tư liệu ........................................................................................... 9 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9 5.1. Phương pháp thống kê - phân loại ........................................................... 9 5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu ........................................................... 10 5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp .......................................................... 10 6. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 10 7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 10 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 11 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỮ QUYỀN VÀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC ....................................................................... 11 1.1. Những vấn đề chung về nữ quyền............................................................ 11 1.1.1. Một cách hiểu về khái niệm “nữ quyền”............................................... 11 1.1.2. Chủ nghĩa nữ quyền ra đời như một tất yếu của lịch sử loài người ...... 11 1.1.3. Các bình diện khác nhau của vấn đề nữ quyền ..................................... 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii 1.2. Nữ quyền trong văn học ........................................................................... 17 1.2.1. Văn học nữ quyền thế giới trong sự hình thành và phát triển ............... 17 1.2.2. Cảm hứng nữ quyền trong văn học Việt Nam ....................................... 23 CHƢƠNG 2: NỮ QUYỀN - VẤN ĐỀ TRUNG TÂM TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN ......................................................................................... 37 2.1. Sự hình thành cảm hứng nữ quyền trong sáng tác của Y Ban ................. 37 2.1.1. Quan điểm của Y Ban về vấn đề nữ quyền ........................................... 37 2.1.2. Cảm hứng nữ quyền trong mạch nguồn sáng tạo của Y Ban................ 41 2.2. Những phương diện thể hiện nữ quyền trong sáng tác của Y Ban .......... 45 2.2.1. Người phụ nữ luôn được đặt ở vị trí trung tâm và được soi chiếu ở mọi góc cạnh trong chiều sâu bản chất nữ ...................................................... 45 2.2.2. Tư tưởng chống lại thế giới nam quyền và xác lập quyền lực của phái nữ ............................................................................................................. 72 2.2.3. Tình dục như một phương diện để giải phóng bản ngã ....................... 89 CHƢƠNG 3: HÌNH THỨC BIỂU HIỆN VẤN ĐỀ NỮ QUYỀN TRONG SÁNG TÁC CỦA Y BAN ............................................................. 96 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ ............................................................ 96 3.1.1. Hình tượng nhân vật đàn bà mang tính khái quát cao .......................... 96 3.1.2. Nhân vật tự nhận thức ......................................................................... 100 3.1.3. Nhân vật nữ trong mối tương quan với nhân vật nam ........................ 108 3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................ 111 3.2.1. Ngôn ngữ thông tục, đời thường, mang âm hưởng dân gian .............. 111 3.2.2. Ngôn ngữ quyết liệt, mạnh, bạo .......................................................... 115 3.3. Giọng điệu .............................................................................................. 119 3.3.1. Giọng trữ tình, mượt mà ..................................................................... 119 3.3.3. Giọng chiêm nghiệm, triết lí. .............................................................. 121 3.3.4. Giọng suồng sã, bốp chát .................................................................... 123 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 126 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 128 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Khi loài người bước sang nền văn minh tiên tiến thì cũng là lúc tiếng nói và quyền sống của người phụ nữ được chú trọng và đề cao. Phong trào nữ quyền vì thế đã không ngừng phát triển, vừa lan rộng trên toàn thế giới, vừa thấm sâu vào mọi lĩnh vực xã hội. Văn học cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng to lớn ấy, và trong gần một thế kỷ qua, văn học nữ quyền đã xuất hiện như tiếng nói đòi bình đẳng của phụ nữ toàn nhân loại. Ở Việt Nam, sóng gió lịch sử cùng bão táp cách mạng suốt thế kỷ XX từ lâu đã gieo mầm cho văn học nữ tính. Nhưng phải đến khi chiến tranh kết thúc, đất nước bước vào hoà bình, đổi mới, văn học nữ quyền mới thực sự trỗi dậy mạnh mẽ và mang dấu ấn riêng biệt. Chủ nhân của nó là những gương mặt nữ sắc sảo, bản lĩnh và đầy cá tính như Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh và gần đây nhất là Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Hoàng Diệu… Tất cả họ, với sức sống và nội lực sáng tạo mạnh mẽ, đã làm nên những đột phá mới chưa từng thấy trong nền văn học Việt Nam. 1.2. Sớm xuất hiện và thành danh trên văn đàn từ những năm 90 của thế kỷ trước, Y Ban được đánh giá là một trong những văn sĩ tiên phong của văn học nữ tính nước nhà. Bắt đầu từ truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (1990) đến tập truyện mới xuất bản là Hành trình của tờ tiền giả (2010), nhà văn được nhắc đến không chỉ bởi những giải thưởng: giải nhất cuộc thi truyện ngắn - tạp chí Văn nghệ quân đội, giải nhì cuộc thi sáng tác về Hà Nội, mà còn bởi sự dũng cảm và táo bạo trong những “bứt phá” khi viết về phái nữ. Phụ nữ trong văn Y Ban không dừng lại ở nỗi đau thân phận, ở sự “bé mọn” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 quanh quẩn với chồng con, cơm cà mắm muối, mà trên hết, đó là những người đàn bà mạnh mẽ, luôn luôn ước mơ và khát khao đi đến tận cùng bản thể. Tác giả của nó, con người luôn “đốt lửa trong văn” suốt hơn 20 năm sáng tác, đã không ngừng tạo cho mình độ “chín” và độ “mạnh” trong cuộc tấn công vào thành trì vững trãi của chế độ nam quyền để bênh vực và giải phóng cho phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam. 1.3. Mang đậm tư tưởng nhân văn như thế, nhiều tác phẩm của Y Ban đã được chú ý nghiên cứu ở nhiều cấp độ. Âm hưởng nữ quyền trong văn chị cũng được nhắc tới (một cách không chính thống) trên tạp chí, báo mạng và ít nhiều ở một số luận văn thạc sĩ. Thiết nghĩ đã đến lúc phải có một công trình nghiên cứu tập trung, hệ thống về vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban. Để thông qua đó, ta không chỉ thấy rõ chân dung một nhà văn với diện mạo, phong cách riêng trong dòng văn học nữ tính, mà còn coi đó là dấu hiệu để nhận diện sâu sắc hơn bộ mặt văn học nữ quyền Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2.1. Đánh giá chung về sáng tác của Y Ban Hơn hai mươi năm cầm bút với những thăng trầm trong nghề viết, Y Ban đã để lại dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc. Đến nay, chị đã là tác giả của gần 20 cuốn sách, 200 tác phẩm thuộc các thể loại truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết, tất cả đang được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau. Chúng tôi xin trích ra đây một số ý kiến tiêu biểu: Đánh giá chung về sáng tác của Y Ban, nhiều tác giả đã có những lời phê bình khá sắc sảo. Dương Bình Nguyên nhận xét: “Đàn bà viết văn như Y Ban, cả đời sáng tác từ truyện ngắn đầu tiên Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đến cuốn tiểu thuyết Xuân Từ Chiều, vẫn là chuyện đàn bà, yêu, ghen, giường chiếu, sinh nở, nuôi nấng con cái, chê trách đàn ông, mạnh mẽ như sư tử nhưng cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 lại yếu mềm như rong biển” (Chữ nghĩa đàn bà). [56] Ở bài Một giọng nữ trầm trong văn chương, Bùi Việt Thắng phát biểu: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai thác nhiều tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống tiêu biểu”.[73] Xuân Cang trong Y Ban và những thân phận đàn bà lại tập trung lí giải về cách xây dựng nhân vật nữ của nhà văn: “Y Ban là người phụ nữ viết văn đầy nhạy cảm và chị cảm nhận được những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người”. [26] Gần đây nhất là ý kiến của Dạ Ngân trong một cuộc trả lời phỏng vấn. Bà có nhận xét về phong cách Y Ban ở giai đoạn sau: “Truyện của Y Ban thường thiên về thứ hiện thực gai góc, thô ráp, chát chúa, dễ khiến người ta nhăn mặt”, “Y Ban ngày xưa đã đáo để lắm rồi với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ. Nhưng bây giờ Y Ban bạo liệt hơn, có những đoạn văn băm bổ. Âu cũng là cái tạng viết, tạng người. Hãy đọc kỹ hơn nữa Y Ban để thấy sâu xa đây vẫn là cây bút tìm tòi, bứt phá không yên với chính mình”. [55] Bên cạnh báo chí, một số luận văn thạc sĩ cũng đã bảo vệ thành công về đề tài Y Ban: Đặc điểm văn xuôi Y Ban (Vũ Phương Thảo), Người đàn bà trong sáng tác của Y Ban (Mai Thị Thu) v.v… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã phát hiện khá đầy đủ phong cách, sở trường của Y Ban cũng như cách xây dựng nhân vật và những mảng đề tài quen thuộc của nhà văn. Trên tinh thần như thế, nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của chị cũng được thẩm bình khá sâu sát: I am đàn bà có lẽ là tác phẩm gây được chú ý nhiều nhất với hàng trăm những bài phát biểu, phê bình trên tạp chí, báo mạng trong và ngoài nước: Nhà văn Dạ Ngân khi trả lời báo Thể thao & Văn hoá đã nhận xét: “Đọc I am đàn bà cảm động đến ứa nước mắt, một thân phận phụ nữ nông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 dân điển hình trong thời đại chúng ta. Qua truyện ngắn ấy, Y Ban đã vượt lên trên chính mình, đã thoát khỏi chuyện tình cảm đàn ông, đàn bà để hướng vào thân phận đàn bà chung hơn, lớn lao hơn”.[55] Tác giả Phạm Hồ Thu trong bài Đọc sách I am đàn bà lại có cái nhìn toàn diện hơn cho cả tập sách: “Mỗi truyện là một câu chuyện thú vị hoặc là nói về vẻ đẹp đàn bà, hoặc là nói về nỗi đau đớn đàn bà … Đó là bài ca bi luỵ và ngạo nghễ về thế giới đàn bà trong nỗi khát vọng đi tìm một xã hội hoàn hảo hơn để mỗi người đàn bà đều xứng đáng là một người của phái đẹp”.[81] Trong khi đó, với bài Tình dục và văn chương nữ giới trong nước, Nguyễn Mạnh Trinh bên cạnh cái nhìn khá mới mẻ về vấn đề tình dục trong văn chương thì lại coi “truyện của Y Ban cũng đậm đặc dâm tính và chân dung của một người đàn bà được phác hoạ để mô tả bằng những nét đen tràn ứ cảm giác”. [86] Những nhận xét khác nhau đó chứng tỏ tác phẩm này của Y Ban đã thu hút được đông đảo bạn đọc từ khắp nơi, ở mọi thành phần nghề nghiệp, lứa tuổi. Mỗi họ với vốn sống, trình độ hiểu biết và đứng trên bình diện khác nhau nên có cách bình giải khá khác nhau về cùng một tác phẩm. Với Xuân Từ Chiều, tiểu thuyết xuất bản năm 2008, thì sự đánh giá có thuận chiều hơn: Hương Thy trong bài Nhà văn Y Ban và cuốn tiểu thuyết không xuống dòng đã giới thiệu: “250 trang sách là câu chuyện của người đàn bà kể về những buồn vui sướng khổ của ba người đàn bà mang ba cái tên: Xuân, Từ, Chiều. Vẫn với lối viết tưng tửng, nhưng với tiểu thuyết mới này, Y Ban còn đẩy lối viết riêng ấy trở nên khác biệt hơn bằng cách kết cấu tiểu thuyết không xuống dòng. Chính xác hơn, cả cuốn sách chỉ một lần xuống dòng vào đoạn cuối khi câu chuyện đã gần kết thúc. Cách viết này đã khiến cho người đọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 cuốn hút theo từng câu chuyện, từng phận người, từng sự kiện bằng nhịp đọc nhanh…”[84] Phỏng vấn nhà văn Y Ban, tác giả Hà Linh có lời mở đầu: “Vẫn viết về phụ nữ, cuốn tiểu thuyết mới của Y Ban là câu chuyện của ba người đàn bà bị tạo hóa trêu ngươi. Tác phẩm mở ra không gian của một cái chợ đời, nơi nhân vật buôn chuyện buồn số phận, những mong mua lấy chút nhân tình”.[50] Hành trình của tờ tiền giả là tập truyện ngắn mới xuất bản năm 2010, và ngay sau đó, nó được đánh giá là “viết theo xu hướng hiện đại” với kiểu “văn chương không dài dòng, không dùng nhiều chữ”, “vẫn khai thác thế mạnh là khả năng nắm bắt những vấn đề thời sự, những câu chuyện nóng hổi”, tác giả của nó cũng được coi là “nhà văn rất giàu chi tiết và rất táo bạo trong việc đưa chi tiết vào truyện. Chị đã nhặt nhạnh chi tiết cho tác phẩm của mình từ trong cuộc sống hằng ngày trong lúc đi làm, lúc đưa con đi học, khi đi chợ …” (Nhà văn Y Ban và Hành trình của tờ tiền giả - Thuỷ Chi). [30] Như vậy có thể nói, Y Ban và những sáng tác của nhà văn từ trước đến nay đã liên tục được tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều góc độ, dưới nhiều hình thức. Tuy những ý kiến phản hồi có khác nhau xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan, cả khoa học lẫn cảm tính nhưng đó đều là những bài viết có giá trị trong việc nhận diện rõ nét gương mặt Y Ban trên văn đàn. 2.2. Về vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban Như đã nói ở trên, vấn đề nữ quyền trong văn Y Ban đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống, có chăng chỉ là những ý kiến nhỏ lẻ trên báo chí về một khía cạnh nhất định. Trên những trang web, nhiều tác giả có “động chạm” đến khởi nguồn vấn đề nữ quyền trong văn Y Ban qua việc khắc họa chân dung một nữ nghệ sĩ đầy cá tính và bản lĩnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Bình Lê trong bài Y Ban, người đàn bà nảy lửa in trên báo An ninh thế giới đã nhận xét: “Người đàn bà rất đỗi đàn bà trong cái quyết liệt, sắc sảo, thông minh, trong cái chao chát, đanh đá và chua ngoa và trong cả cái mong manh yếu mềm trong những lúc vấp váp”.[48] Với bài Lát cắt Y Ban, tác giả Cao Minh lại dựng lên chân dung một nhà văn bộc trực và thẳng thắn: “Y Ban sẵn sàng đốp vỗ mặt chẳng chút kiêng dè. Những chuyện người khác không dám nói hay cố giấu đi thì qua miệng Y Ban, nó thật mạch lạc, đúng bản chất người nghe và thấy thật tự nhiên”.[54] Khi phỏng vấn Y Ban, nhà báo Hoà Bình trong bài Y Ban, bốp chát và nữ tính đã giới thiệu: “Vẻ ngoài hầm hố, càng bị dồn nén đến những tình huống khó khăn, Y Ban lại càng đốp chát sắc sảo. Nhưng bên trong, chị vẫn nguyên hình như tuyên bố: I am (tôi là) Đàn Bà.”[25] Như thế, chúng ta hiểu: tất cả mọi người khi gặp Y Ban đều có cảm nhận chị là một người đàn bà đầy nữ tính: lãng mạn, dễ rung cảm nhưng cũng vô cùng táo bạo, quyết liệt và đầy tinh thần tranh đấu. Điều đó ít nhiều đã đi vào văn chị như là một “mầm mống” ban đầu cho tư tưởng nữ quyền chị đã ấp ủ và thể hiện. Vẫn là vấn đề quyền của phụ nữ trong văn Y Ban, một số độc giả lại tiếp cận nó ở khía cạnh tính dục. Hoà Bình coi “văn Y Ban tràn ngập yếu tố sex. Thẳng thừng và bạo liệt”(Y Ban: Bốp chát và nữ tính). [25] Còn Ngô Diệu Lan qua bài Yếu tố tình dục trong văn Y Ban từ góc nhìn văn hoá (viết chung với một số tác giả khác) đã khẳng định sự mạnh bạo và nhân bản, hướng về quyền sống của người phụ nữ trong cách nói về tình dục của Y Ban, đặc biệt, trong truyện ngắn Tự: “Tự đã tạo được một cái nhìn trực diện vào chủ đề tình dục, đặc biệt hơn là tình dục với phụ nữ… Tình dục ở Tự tuy có phần bản năng nhưng không phản cảm…, không tách rời nhu cầu tình dục của nhân vật với nhu cầu tình yêu… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Riêng ở mảng văn viết về tình dục này, Y Ban sôi nổi, mạnh mẽ theo lối hiện đại, trực tính mang dáng dấp tình dục phương Tây”. [62] Đồng tình với những ý kiến trên, bài viết Tình dục và văn chương nữ giới trong nước đã đề cập: “Người đàn bà - nhân vật của Y Ban, đều có cái ham muốn tự nhiên của con người và lúc nào cũng lửng lơ, phân đôi giữa cái muốn và cái ngăn cấm. Để rồi những chọn lựa chỉ là bất đắc dĩ của một tâm trạng rất đàn bà”.(Nguyễn Mạnh Trinh) [86] Không chỉ là tính dục, tư tưởng nữ quyền trong văn Y Ban thể hiện sâu sắc và tập trung nhất khi viết về quyền sống của người phụ nữ. Đây cũng là ý kiến của đông đảo bạn đọc và những nhà phê bình, nghiên cứu chuyên nghiệp. Vẫn ở bài Một giọng nữ trầm trong văn chương, tác giả Bùi Việt Thắng có viết: “Nhân vật truyện ngắn Y Ban tuyệt đại đa số là nữ, người nữ và những nỗi đau, sự vượt lên làm chủ số phận hoặc chí ít thoát khỏi những chớ chêu ám ảnh của cuộc đời.” [73] Việt Hà trong bài “I am đàn bà” và thế giới “nửa đàn ông là đàn bà” tỏ ra vô cùng thông cảm với những thân phận nữ: “Nhiều nhân vật nữ của Y Ban khắc khoải, vô vọng trên con đường đi tìm một cuộc sống ấm no, một tình yêu hoàn thiện trong một thế giới “nửa đàn ông là đàn bà” còn biết bao bất trắc”.[38] Cũng nằm trong ý tưởng như thế, Đào Đồng Diện khi khảo sát các nhân vật nữ trong văn Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban và Võ Thị Hảo, đã cho rằng: “Thông qua “tai nạn” của những cô gái trẻ, Y Ban không hẳn muốn đả kích hay cảnh giác đàn ông mà chị chỉ muốn gửi đi một thông điệp rất nhẹ nhàng: đàn bà là thế, muôn đời ngây thơ và cả tin. Thất vọng về thế giới đàn ông trong đời thực với nhiều thiếu khuyết, họ muôn đời phải kiếm tìm, phải khao khát một mẫu hình lý tưởng.” (Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi thời kì đổi mới) [34] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Với bài Chữ nghĩa đàn bà, Dương Bình Nguyên chỉ ra sự vươn lên mạnh mẽ của các nhân vật nữ: họ có “ý thức mạnh mẽ về bản năng sống và yêu”, dù có thất vọng về thế giới đàn ông thì cũng “chưa bao giờ ngừng yêu và tỏ ra không cần đàn ông”. [56] Còn Thu Hương ở bài viết Nhà văn Y Ban và những giấc mơ về hạnh phúc lại quan tâm nhiều đến bí ẩn và khát vọng của người phụ nữ: : “Những cô gái lỡ dại, những người đàn bà luôn khao khát sự dịu dàng, mải mê kiếm, tìm mẫu đàn ông lí tưởng. Bề ngoài, họ tỏ ra gai góc, chấp nhận cuộc sống nhưng ẩn sau đó là những tâm hồn thèm muốn được nâng niu, chiều chuộng”. [42] Qua khảo sát những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy vấn đề nữ quyền trong văn Y Ban đã được khám phá trên nhiều bình diện, đặc biệt, luôn được phân tích, lí giải xoay quanh hình tượng nhân vật trung tâm trong mỗi tác phẩm, đó là người phụ nữ Việt Nam. Họ hiện lên với những biểu hiện về nữ quyền như: ý chí, nghị lực vươn đến tự do, khát khao tình yêu, hạnh phúc, bản năng tính dục và quá trình tự nhận thức. Tuy còn sơ lược nhưng những nhận định trên cùng những đánh giá chung nhất về con người và tác phẩm Y Ban (như đã nói) sẽ là định hướng quan trọng giúp chúng tôi xây dựng đề tài Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban một cách hoàn chỉnh, thành công hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Thông qua đề tài, người viết muốn đưa ra một cái nhìn cơ bản, khái quát về lý thuyết văn học nữ quyền, thấy được cách thể hiện vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban nói riêng và trong văn học đương đại Việt Nam nói chung. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Những vấn đề chung về nữ quyền và nữ quyền trong văn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 - Nữ quyền - vấn đề trung tâm trong sáng tác của Y Ban - Hình thức biểu hiện vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban 4.2. Phạm vi tư liệu Luận văn khảo sát toàn bộ tác phẩm của nhà văn Y Ban in trong các tập truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết như sau: 1. Người đàn bà có ma lực (truyện ngắn) 2. Đàn bà sinh ra từ bóng đêm (truyện ngắn) 3. Vùng sáng kí ức (truyện ngắn) 4. Miếu hoang (truyện ngắn) 5. Cẩm cù (truyện ngắn) 6. Cưới chợ (truyện ngắn) 7. Đàn bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết) 8. Thần cây đa và tôi (truyện vừa) 9. I am đàn bà (truyện ngắn) 10. Xuân Từ Chiều (tiểu thuyết) 11. Hành trình của tờ tiền giả (truyện ngắn) 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp thống kê - phân loại Với số lượng tác phẩm khá lớn, phương pháp này sẽ giúp chúng tôi trong quá trình khảo sát, phân loại các đặc điểm về nội dung, các nhân vật và các phương thức biểu hiện vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu Tiến hành so sánh tác phẩm của Y Ban với sáng tác của một số nữ nhà văn khác để thấy được những đặc trưng vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban. 5.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp Phương pháp này sẽ giúp chúng tôi vừa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu những đặc điểm về vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban, vừa hệ thống, tổng hợp kết quả, từ đó chứng minh cho các luận điểm chính của luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn Tìm hiểu vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật, từ đó thấy được vị trí, dấu ấn của Y Ban trong dòng văn học nữ quyền Việt Nam cũng như sự vận động trong cảm hứng và tư duy của văn học Việt Nam đương đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề chung về nữ quyền và nữ quyền trong văn học Chƣơng 2: Nữ quyền - vấn đề trung tâm trong sáng tác của Y Ban Chƣơng 3: Hình thức biểu hiện vấn đề nữ quyền trong sáng tác của Y Ban Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỮ QUYỀN VÀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC 1.1. Những vấn đề chung về nữ quyền 1.1.1. Một cách hiểu về khái niệm “nữ quyền” Những năm gần đây, vấn đề “nữ quyền” (feminisme) được nói đến rất nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, xuất hiện ồ ạt trong văn chương nghệ thuật, đi sâu vào mọi lĩnh vực đời sống và chi phối mạnh mẽ tư tưởng cũng như hoạt động của con người nói chung. Vậy nữ quyền là gì? Theo cách hiểu thông dụng nhất, đó là: “quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội và giáo dục… Khái niện “nữ quyền” ở cấp độ rộng là quyền lợi của người phụ nữ trong thế tương quan với nam giới để đạt đến cái gọi là “nam nữ bình quyền”. Ở cấp độ hẹp thì “nữ quyền” có mối liên quan với các khái niệm như “giới tính”, “phái tính” trong văn học. Nếu như giới tính, phái tính là những công cụ để khu biệt đặc tính giữa hai phái (nam / nữ) thì khái niệm nữ quyền không chỉ dừng lại ở đó mà mục đích của nó hướng tới sự bình quyền của nam nữ, đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn riêng của nữ giới.” [82] Có thể nói, ý thức khẳng định vai trò và quyền lợi của người phụ nữ đã được manh nha từ rất lâu, nhưng nữ quyền với tư cách là một khái niệm chỉ xuất hiện chính thức khi Chủ nghĩa nữ quyền (Nữ quyền luận) ra đời. Với ý nghĩa như thế, nữ quyền là sản phẩm của cả một quá trình hình thành, phát triển lâu dài và luôn luôn được bổ sung những khía cạnh từ nội hàm giá trị của nó. 1.1.2. Chủ nghĩa nữ quyền ra đời như một tất yếu của lịch sử loài người Trên con đường tiến hóa lâu dài để đi đến sự văn minh và phát triển, loài người đã trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn được đánh dấu bởi những chuyển biến trong ý thức về giới. Chúng ta bắt đầu lịch sử của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 mình với chế độ mẫu hệ, nhưng dần dần, sức mạnh cơ bắp, những ưu thế về thu nhập kinh tế cùng khả năng hoạt động hướng ngoại, người đàn ông đã nhanh chóng trở thành “kẻ mạnh” mà vươn lên làm chủ gia đình, xã hội. Đó là nguồn gốc đầu tiên của chế độ nam quyền vốn tồn tại và kéo dài rất lâu trên thế giới. Trong truyền thống tâm linh của người xưa, đàn bà cũng được coi là do đàn ông sinh ra: chiếc xương sườn của Ađam là nơi Eva ra đời, Eva là một phần máu thịt của Ađam nhưng cũng phụ thuộc, phục tùng Ađam như một định mệnh không thể nào chối bỏ. Như vậy, nam quyền không chỉ được củng cố bằng các thiết chế xã hội mà còn in sâu vào tâm lí, quan niệm bao đời của nhân loại. Sự thống trị của nam quyền một mặt đã có tác dụng tích cực trong việc duy trì sự ổn định và phát triển xã hội, nhưng mặt khác, tính chất tàn bạo, hà khắc của nó đã gây không ít khó khăn, thậm chí trở thành những ám ảnh nghiệt ngã cho cuộc sống và số phận của người phụ nữ. Nho giáo xưa từng yêu cầu nữ nhi phải thực hiện “tam tòng” đầy khổ ải: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Phụ nữ thường bị gán cho là những yêu ma, quỷ quái làm mê hoặc đàn ông, nên hết sức bị khinh rẻ trong xã hội. Họ “không có quyền lựa chọn riêng cho mình cách sống, cách ứng xử hay làm chủ thân xác và tâm lí của mình, không có thiết chế hay luật pháp nào bảo vệ cho họ tránh khỏi số phận bị cướp, bị bắt cóc, bị tuyển mộ hay bị dâng nạp, gả bán cho bọn quan lại vua chúa hay những kẻ lắm tiền nhiều của. Những người đẹp thời xưa chỉ là công cụ phục vụ cho ham muốn nhục dục và tham vọng về chính trị của giới chức quyền …” [75] Tất cả những điều đó đã trở thành tác nhân mạnh mẽ của một loạt những cuộc “nổi loạn” lúc đầu còn âm ỉ, càng về sau càng bùng phát dữ dội của phụ nữ chống lại chế độ nam quyền độc đoán. Những cuộc đấu tranh đòi quyền lợi của họ đã diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau suốt thời trung đại. Đến cách mạng tư sản Pháp thời cận đại, nó đã bùng nổ mạnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 mẽ, trở thành một phong trào rầm rộ với tên gọi là Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism). Từ thời sơ khai cho đến tận ngày nay, chủ nghĩa này luôn được xây dựng, củng cố cả bằng thực tiễn đời sống và những hệ lý thuyết quan trọng. Ngay từ thế kỷ XIX, nhiều cuộc đấu tranh cho nữ quyền đã xuất hiện với sự góp mặt của nhiều tên tuổi nữ, trong đó có người phụ nữ Pháp mang tên Marguerite Durand. Năm 1897, bà sáng lập và điều khiển tờ báo La Fronde (sự nổi loạn). Trụ sở tờ báo nằm trên đường Saint - Georges và tất cả các việc trong tòa soạn từ quản lí, viết bài, đến in ấn và phát hành đều do phụ nữ đảm nhận. Tờ báo được nhiều phụ nữ có uy tín làm trợ bút. Trong lúc đạo luật năm 1892 cấm phụ nữ làm việc ban đêm thì họ bất chấp cả luật lệ, không kể đếm gì đến các thanh tra lao động và liên hiệp các đoàn thể làm sách. Trong các bài xã thuyết, tờ báo đòi hỏi phụ nữ phải được ghi tên vào danh sách những người được chính phủ Pháp thưởng Bắc đẩu bội tinh, phụ nữ cũng phải được quyền tham dự vào các cuộc tranh cãi tại Quốc hội. Marguerite Durand đã cố gắng tổ chức để đưa phụ nữ ra tranh cử vào Quốc hội Pháp trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1910, và cũng là người phụ nữ đầu tiên tham dự vào nghiệp đoàn chủ nhân các nhật báo. Bà tích cực đòi hỏi các quyền lợi của phụ nữ như: quyền được tự do hành nghề, quyền được hưởng lương bằng các nam nhân, làm cùng một công việc, quyền của người vợ được giữ lương do chính mình làm ra và quyền được bảo vệ trong các công việc trong nhà. Trước làn sóng đấu tranh như thế, nhiều hội nghị bàn về vấn đề nữ quyền đã được triệu tập. Nữ quyền thế kỷ XX vẫn tiếp tục với một loạt những cuộc đấu tranh ở các nước phương Tây mà Đan Mạch là nơi nổ ra sớm nhất. Năm 1905, phụ nữ đã được đi bầu Hội đồng hàng tỉnh và thị xã, năm 1910, Hội phụ nữ Đan Mạch KVINFO cùng Viện Goethe của Đức đã “khai sinh” ngày 8 - 3 bằng Hội nghị Copenhaghen, đòi quyền bình đẳng nam - nữ trong chính trị và việc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 làm. Ở châu Mĩ, người phụ nữ cũng đấu tranh đòi quyền bình đẳng bằng cách dấn thân xuống đường lập nghiệp đoàn, giơ cao khẩu hiệu: “Đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà”. Thực tiễn đời sống sôi động đã trở thành động lực mạnh mẽ cho sự ra đời của nhiều công trình lí thuyết kinh điển về vấn đề nữ quyền. Theo các lý thuyết gia, đến nay, nữ quyền luận đã trải qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn “tiên phong và nữ quyền nguyên sơ” tương ứng với cao trào nữ quyền I, tính từ hậu thế chiến II trở về trước. Với minh chứng về quyền của phụ nữ (1792), Mary Wollstonecraft được coi là “tổ mẫu” của chủ nghĩa nữ quyền thông qua luận điểm về bản chất của giới tính được kiến tạo như một lợi thế: viết và nghĩ không thể vượt khỏi thân xác, và không thể loại phụ nữ ra khỏi vị trí xã hội. Tiếp theo, tác phẩm Một căn phòng cho riêng mình của Virginia Woolf ra đời năm 1929 được coi là “sách vỡ lòng” của phê bình nữ quyền. Từ đây, các tác giả nữ có những khái niệm gợi mở về cách suy nghĩ lùi thông qua người mẹ, về ý kiến của đàn bà, về tinh thần song giới (dung hòa cả hai giới tính). Giai đoạn tiếp theo tương ứng với cao trào nữ quyền II (thập niên 60 và 70 của thế kỷ XX) là giai đoạn lý thuyết hóa các phong trào đấu tranh cho nữ quyền với đặc điểm chung là phê phán nền văn hóa phụ hệ, nền văn hóa đàn ông đã đẩy người phụ nữ vào giới tính thứ hai. Tác giả tiêu biểu là nữ văn sĩ Pháp Simon de Beauvoir (1908 - 1986) với cuốn sách Giới tính thứ hai (The secondsex) xuất bản năm 1949, đây có thể coi là công trình đánh dấu sự hiện diện thực sự của chủ nghĩa nữ quyền với tư cách là một phong trào có tuyên ngôn, mục đích và phương châm hoạt động riêng biệt. Bản “tuyên ngôn nữ quyền” này đưa ra những lý luận triết học về phụ nữ, xuất phát từ quan điểm nam nữ bình quyền, luận giải về những đặc tính của nữ giới như: tuổi dậy thì, đặc tính tự yêu mình, tình dục, thủ dâm, tiến đến giải phóng phụ nữ…Sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau, Beauvoir khẳng định: không ngành khoa học nào đủ khả năng để giải thích định nghĩa phụ nữ là giới thứ hai đối với nam giới. Bà quả quyết: phụ nữ có khả năng lựa chọn như nam giới, phụ nữ cần phải giải phóng mình và phục hồi cái tôi của mình bằng cách hướng đi tự do, tự hào về bản thân mình trong suy nghĩ, trong sáng tạo, trong hành động giống như nam giới. Giai đoạn thứ ba là cao trào III (thập niên 80 và 90), đây là giai đoạn quan trọng, hình thành và phát triển những vấn đề chủ yếu của chủ nghĩa nữ quyền. Lý thuyết nữ quyền luận đi xa hơn: cho rằng giới tính (gender) là khái niệm thuộc về văn hóa, là hệ thống biểu trưng - sản phẩm của chủ nghĩa duy dương vật, đề cập tới đồng tính luận, tiến tới thuyết “lệch pha”. Trong đó, tác phẩm đoạt giải nobel The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng) của tác giả người Anh Doris Lessing được coi là “tiên phong cho cái nhìn của thế kỷ XX về quan hệ nam - nữ”. Quả thật, Phê bình nữ quyền (Feminist criticism), một trường phái phê bình chính trị, xã hội tuy khá mới mẻ nhưng đã phát triển hết sức mạnh mẽ và chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong đời sống tư tưởng của nhân loại. 1.1.3. Các bình diện khác nhau của vấn đề nữ quyền Cách hiểu chung về nữ quyền như trên cho thấy nội dung của khái niệm này gồm rất nhiều phương diện cần tìm hiểu. Trên bình diện lý luận, các nhà nữ quyền học đã không ngừng xây dựng một hệ thống lý thuyết khá công phu bắt đầu từ sự đả phá lại quan niệm truyền thống cho rằng: phụ nữ là “những người đàn ông bất toàn”, tức coi: phụ nữ là một phần của đàn ông, lệ thuộc chặt chẽ vào đàn ông trên mọi lĩnh vực. Họ chỉ ra sự khác biệt giữa hai giới tính nam và nữ để qua đó khẳng định mạnh mẽ: phụ nữ là một bộ phận riêng, một thế giới riêng với năng lực, sở trường riêng của mình trước sự phân công của xã hội. Nhờ một số đặc điểm riêng biệt về sinh lý như việc có kinh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan