Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến chính trị của nhật bản t...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến chính trị của nhật bản từ sau cải cách minh trị

.PDF
68
13
115

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ------------ LÊ THỊ THÊU SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Hà Nội - 2019 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN KHOA TRIẾT HỌC ------------ LÊ THỊ THÊU SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X Giảng viên hướng dẫn: GS.TS Trần Thị Hạnh Hà Nội - 2019 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập tại khoa, tại trường. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Trần Thị Hạnh đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô, cùng toàn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2019 Sinh viên Lê Thị Thêu MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu ................................................... 6 6. Ý nghĩa nghiên cứu ....................................................................................... 7 NỘI DUNG....................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ WASHINGTON (1921-1922) ......................................................................... 8 1.1.Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868 ........................................................................................................................... 8 1.1.1. Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội ........................................................... 8 1.1.2. Cải cách về giáo dục, văn hóa ............................................................... 13 1.1.3. Cải cách về ngoại giao .......................................................................... 21 1.2. Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh Thế giới thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922) ............................................ 23 1.2.1. Về kinh tế - chính trị - xã hội ................................................................ 23 1.2.2. Hội nghị Wasington 1921-1922 ............................................................ 30 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU HỘI NGHỊ WASHINGTON ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI .................................................................... 33 2.1. Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” ............................................................................................................ 33 2.1.1. Kijūrō Shidehara 幣原喜重郎 .............................................................. 33 2.1.2. Tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” của Shidehara ......................................................................................................... 36 1 2.2. Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự .............. 46 2.2.1. Nguyên nhân xuất hiện tư tưởng chủ nghĩa quân phiệt ........................ 46 2.2.2.Sự thay đổi của Nhật Bản trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân phiệt ......................................................................................................................... 51 2.2.3.Sự thay đổi của xã hội Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai ......................................................................................................................... 56 Tiểu kết ............................................................................................................ 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 62 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, trong các quốc gia thuộc khu vực châu Á thì Nhật Bản là một trong những con rồng châu Á với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng. Nhật Bản là một đất nước với lãnh thổ được bao quanh bởi biển và nguồn tài nguyên thiên nhiên thấp, hàng năm phải chịu nhiều thiên tai như động đất, sóng thần nhưng vẫn vươn lên là một cường quốc. Trong lịch sử phát triển của Nhật Bản, chúng ta thấy đường lối lãnh đạo sáng suốt của những nhà cầm quyền Nhật Bản. Trong đó đáng nói đến nhất là công cuộc “Cải cách Minh Trị”. Trong khi các nước phương Đông đang phải đứng trước mối nguy hại bị xâm lược từ phương Tây, vì chính sách “Bế quan tỏa cảng” mà các quốc gia đã thực hiện, Nhật Bản đã nhanh chóng đưa ra con đường mới cho đất nước mình bằng cách tiến hành ký các Hiệp ước với phương Tây và tiến hành chính sách cải cách thay đổi đất nước. Sau khi thực hiện công cuộc cải cách thì Nhật đã vươn lên, ngăn chặn sự xâm lược từ bên ngoài và còn trở thành đất nước quân phiệt trong thế chiến thứ hai. Trong quá trình phát triển để đưa Nhật Bản đi lên từ một nước phong kiến trở thành một đế quốc quân phiệt thì những quyết định, chính sách của Chính phủ liên tục thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Những nhân tố nào đã khiến cho tình hình của Nhật Bản có những thay đổi như thế? Liệu rằng nếu sự thay đổi này diễn ra chỉ do một phía từ các nhà lãnh đạo thì có đẫn đên thành công như vậy? Hay cần phải có sự hiệp sức đồng lòng của toàn bộ nhân dân nước Nhật? Vì những lý dó trên, tôi chọn đề tài “Sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến chính trị của Nhật Bản từ sau cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Qua những công trình nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản nói chung và tư tưởng về đường lối ngoại giao nói riêng đặc biệt là giai đoạn từ sau cải cách 3 Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai, có thể khái quát được một số nghiên cứu chủ yếu sau: Thứ nhất là nhóm nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản nói chung Trong số những công trình nghiên cứu này thì đáng chú ý nhất là công trình Lịch sử Nhật Bản (tái bản lần một năm 2012) của tác giả Nguyễn Quốc Hùng chủ biên, NXB Thế giới, Hà Nội. Trong tác phẩm này của Nguyền Quốc Hùng biên dịch thì ông đã liệt kê chi tiết các vấn đề của kinh tế xã hội Nhật Bản xuyên suốt từ thời kỳ cổ đại đến hiện đại trong đó có giai đoạn từ cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai. Cuốn sách diễn tả chi tiết nguyên nhân kinh tế chính trị xã hội dẫn đến cuộc cải cách Minh Trị năm 1868. Xuất phát từ chính nhu cầu trong nước, sau khi kế hoạch “Bế quan tỏa cảng” bị thất bại, để tránh bị các cường quốc phương Tây xâm lược thì Nhật Bản buộc phải đưa ra một sự lựa chọn nhát định là: tiếp tục duy trì thái độ đối nghịch với phương Tây giống các nước kahsc trong khu vực trong một khoảng thời gian tạm thời trước khi bị xâm lược hoặc phải tiến hành cải cách xây dựng lại đất nước tránh thành nước thuộc địa. Trước tình thế đó, Chính quyền Mạc phủ không đủ năng lực phát triển đát nước, đồng thời nhân dân trong cả nước đứng lên ủng hộ Thiên hoàng khiến cho chế độ Mạc phủ Edo tồn tại hơn 200 năm bị sụp đổ. Sau khi lên ngôi, nhận được sự đồng lòng giúp sức từ toàn bộ nhân dân Nhật Bản từ Trung ương đến địa phương nên công cuộc cải cách diễn ra nhanh chóng và thành công. Nhưng cuốn sách tập trung chủ yếu nhất vào vấn đề kinh tế, xuất nhập khảu của Nhật Bản sau cải cách Minh Trị mà chưa chú trọng nhiều đến yếu tố văn hóa tư tưởng của nhân dân Nhật Bản để xây dựng một cơ cấu nhà nước mới. Đồng thời, trong giai đoạn từ những năm 30 của thế kỷ XX đến khi kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai thì tác giả lại chú trọng nhiều đến các cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Nga, sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân phiệt và sự thất bại của Nhật Bản tại chiến tranh Thế giới thứ hai. Vì cuốn sách là Lịch sử Nhật Bản nên vấn đề mà 4 tác giả đưa ra chủ yếu là việc kể lại những mốc lịch sử một cách nối tiếp nhau chứ chwua có sự liên hệ giữa nguyên nhân xã hội đến tư tưởng ngoại giao của Nhật Bnar thười điểm đó. Ngoài ra, công trình nghiên cứu của tác giả Võ Minh Vũ (2005), Cải cách địa tô ở Nhật Bản thời Minh Trị, trong Luận văn Thạc sĩ năm 2005 của mình tại Bộ môn Nhật Bản thì tác giả lại chú trọng hơn đến vấn đề về cải cách địa tô, phân chia ruộng đất. Nhưng công trình chú trọng đến các số liệu mà chưa nêu ra được nguyên nhân sâu xa của cải cách ruộng đất đối với sự thay dổi của xã hội Nhật Bnar tại thời điểm đó. Khi xã hội còn đang phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp thì chính sách về đất đai ảnh hưởng rất nhiều đến cơ cấu xã hội. Thời kỳ Mạc phủ thì ruộng đất thuộc về giai cấp lãnh chúa, người nông dân phải trực tiếp canh tác trên mảnh đát đó và nộp tô thuế lại cho địa chủ, nhưng sau cải cách thì việc nộp tô thuế lại phải do người chủ sở hữu của mảnh đất đó phải nộp, những người nông dân có một chút vốn có thể tự tiến hành trao đổi mua bán ruộng đất với nhau. Điều này giúp cho nông dân có thể yên tâm và chú trọng hơn vào sản xuất và hưởng được thành phẩm thu được trên mảnh đất của mình. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về tư tưởng ngoại giao của Nhật Bản Trong các công trình này thì tiêu biểu nhất là tác phẩm Ngoại giao Nhật Bản của tác giả Ire Akira được Nxb Tri thức xuất bản năm 2013 tại Hà Nội. Tác phẩm là cái nhìn của một người Nhật về con đường ngoại giao của Nhật Bản qua các thời kỳ lịch sử. Do tác phẩm của một người Nhật Bản viết nên có những chi tiết được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan, bảo vệ người Nhật. Đáng chú trọng trong cuốn sách này là nội dung của tác giả về “Triết lý ngoại giao Shidehara”. Ire Akira đã đưa ra những lý luận về đường lối ngoại giao mà Bộ trưởng Shidehara đã đưa ra tại thời điểm sau Hội nghị Washington khi mối quan hệ của Nhật Bản và Hoa Kỳ đang trở nên căng thẳng. Các nội dung trong đường lối ngoại giao hòa bình hợp tác phát triển 5 kinh tế mà Shidehara đã đươc ra được Ire Akira nhận xét và đánh giá cao. Nhưng thiếu xót của công trình này là ông đã không chú trọng đến mối quan hệ rành buộc tác động lẫn nhau của hai đường lối ngoại giao tại thời điểm đó là ngoại giao của phe quân phiệt và ngoại giao của phe hòa bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Phân tích, làm rõ sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội đến việc thay đổi các tư tưởng ngoại giao của chính phủ Nhật Bản từ sau cải cách Minh Trị đến Chiến tranh thế giới lần thứ II Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất: Phân tích sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóatư tưởng của Nhật Bản sau cải cách Minh Trị Thứ hai: Phân tích nội dung tư tưởng ngoại giao mềm mỏng của Nhật Bản sau Hội nghị Washington Thứ ba: Phân tích nội dung tư tưởng quân phiệt phát triển mạnh mẽ và sụp đổ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Sự thay đổi về cơ cấu xã hội dẫn đến sự thay đổi về đường lối lãnh đạo của Chính phủ Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1945. Phạm vi nghiên cứu: Các cuốn sách, bài báo, bài giảng chuyên đề về lịch sử Nhật Bản từ cải cách Minh Trị đến năm 1945. 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện thông qua vận dụng những nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn. Cụ thể là: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển được vận dụng khảo cứu quá trình chuyển biến của kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 6 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã hội thể hiện cụ thể trong sự hình thành và phát triển của tư tưởng ngoại giao của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được quán triệt xuyên suốt khi triển khai khóa luận. Phương pháp: Khóa luận sử dụng một số phương pháp cụ thể của ngành lịch sử, ngành Châu Á học và ngành triết học. 6. Ý nghĩa nghiên cứu Nhằm làm rõ hơn về tác động của bối cảnh xã hội và thế giới đến tư tưởng “Mở rộng sức ảnh hưởng của Nhật Bản trên thế giới” của Chính phủ và người dân Nhật Bản. 7. Bố cục Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận chia làm 2 chương, 4 tiết: Chương 1: Sự thay đổi của kinh tế-chính trị-xã hội từ sau cải cách Minh Trị đến Hội nghị Washington (1921-1922) 1.1. Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868 1.2. Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh Thế giới thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922) Chương 2: Nội dung tư tưởng đối ngoại của Nhật Bản từ sau Hội nghị Washington đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. 2.1. Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” 2.2. Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ WASHINGTON (1921-1922) 1.1. Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868 1.1.1. Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội Cuối thời kỳ Edo, cũng như các nước khác của phương Đông thì chế độ phong kiến ngày càng không còn phù hợp vưới xã hội và ngày một đi xuống. Trong tình hình đó, các quốc gia phương Đông còn phải đối mặt với nguy cơ bị các cường quốc phương Tây xâm lược và biến thành thuộc địa. Từ chính sự thay đổi của tình hình thế giới và tình hình nội bộ Nhật Bản, đồng thời để tránh nguy cơ trở thành một nước nô lệ, Nhật Bản đã đưa ra quyết định “mở cửa” với các nước phương Tây sau khi kế hoạch “Bế quan tỏa cảng thất bại”. Chính trị Nhật Bản chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ lập hiến, quyền lực chuyển từ tay dòng họ Tokugawa sang Thiên hoàng. Đây được coi là bước chuyển quan trọng làm thay đổi hoàn toàn Nhật Bản trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX. Việc đầu tiên sau khi chính quyền của Thiên hoàng tiếp nhận đất nước đã tiến hành sự kiện Vương chính phục cổ (Osei fukko): ngày 3 tháng 1 năm 1868, Tướng quan Tokugawa Yoshinobu chính thức bị tước đất đai, chức vụ để trao lại cho Thiên hoàng. Ngày 11 tháng 4 năm 1868, Mạc phủ đã ra lệnh mở cửa thành Edo để đầu hàng quân đội triều đình. Sự kiện này đã dánh dấu mốc cho việc kết thúc chế độ nắm quyền của dòng họ Tokugawa dựng lên từ đầu thế kỷ XVII. Chính quyền mới đặt ra mục tiêu cho đất nước là Phú quốc cường binh (Fukoku Kyohei) với đường lối chiến lược là: độc lập quốc gia và phấn đấu từng bước tiến lên bình đẳng với các nước phương Tây. Ban lãnh đạo mới cho rằng thời điểm này Nhật Bản còn chưa đủ mạnh, vì vậy phải tiến hành nâng cao sức mạnh quân sự trên có sở của sức mạnh 8 kinh tế. Tư tưởng đó đã được thể hiện trong Năm lời thề (Gokazo no goseimon: ngũ điều ngự thệ văn) được công bố trong ngày 14 tháng 3 năm 1868 gồm: 1. Hội nghị phải được mở rộng và những vấn đề quốc gia phải do công luận quyết định. 2. Trên dưới một lòng ra sức chăm lo cho công việc đại sự quốc gia. 3. Từ bách quan văn võ đến thường dân, mọi người phải được tự do theo đuổi chí nguyện của mình để trong nước không còn sự bất mãn. 4. Phải từ bỏ những tập quán xấu và mọi việc phải dựa và công đạo (công pháp quốc tế). 5. Phải tiếp thu kiến thức từ khắp nơi trên thế giới để chấn hưng đất nước[8, tr.249]. a. Những cải cách về chính trị - xã hội Sau khi Thiên hoàng nắm giữ quyền hành thì việc đầu tiên trong việc thay đổi cơ cấu xã hội đó là việc xóa bỏ mâu thuẫn giữa các giai cấp và sự cách biệt giữa các tầng lớp trong xã hội. Năm 1869, hình thành 4 tầng lớp mới cho xã hội đó là: Hoa tộc (Kazoku gồm các Daimyo và các quý tộc cao cấp), Sĩ tộc (shizoku gồm các võ sĩ của các Daimyo và các Bakufu), Tốt tộc (Sostuzoku gồm các giai cấp công, nông, thương), Bình dân (Heimin gồm các võ sĩ cấp dưới sau khi Mạc phủ sụp đổ không có công việc cụ thể). Trong quá trình bình đẳng tứ dân thì tầng lớp Sĩ tộc phải hy sinh nhiều nhất. Khi các võ sĩ bị tước bỏ quyền đeo kiếm thì họ còn bị dẫn cắt bỏ lương bổng để phát triển kinh tế đất nước. Theo đó, mọi người đều có quyền tự do chuyển đổi chỗ ở và nghề nghiệp của mình; tự do kinh doanh; xác lập quyền sở hữu ruộng đất. 9 Sơ đồ cơ cấu tổ chức chính quyền Trung ương Mô hình nhà nước Thái chính quan về cơ bản tồn tại đến khi chế độ nội các được ấp dụng từ tháng 12 năm 1885. Tuy vậy trong quá trình hoạt động vẫn có sự thay đổi như vào tháng 7 năm 1869 thì chính phủ lại được chia thành 2 quan 6 bộ trong đó Thần chỉ quan tách ra nằm độc lập chỉ phụ trách các vấn đề về tôn giáo còn Thái chính quan trực tiếp quản lý các cơ quan còn lại. Tháng 7 năm 1868, các han bị phế bỏ và thay đổi cơ cấu thành chế độ 3 phủ và 302 huyện. Đến tháng 11 năm 1868 hợp nhất thành 3 phủ và 72 huyện. Đến ngày 14 tháng 7 năm 1871, chính phủ đã công bố chiếu thư “Phế phiên trí huyện”. năm 1888 được cấu tạo thành 1 đạo, 3 phủ và 43 huyện và cơ cấu tổ chức này được áp dụng cho đến tận ngày nay. Về quân đội, chính phủ thành lập 2 bộ: Bộ lục quân và Bộ hải quân thay thế cho Bộ binh. Trong đó, hải quân được tổ chức theo mô hình hải quân của Anh còn lục quân được tổ chức theo mô hình của Phổ. Cải cách về địa tô, mọi người tiến hành nộp tô thuế theo giá trị của mảnh đất, có thể nộp bằng tiền mặt hoặc vật phẩm. Mức thuế là 30% giá trị 10 đất và người phải nộp thuế là người chủ của mảnh đất chứ không phải là người lao động làm thuê trên mảnh đất đó. b. Những cải cách về kinh tế Chính quyền tiến hành cải cách kinh tế theo cách xóa bỏ chế độ mang tính chất phong kiến và thiết lập một nền kinh tế hiện đại, khuyến khích mọi người phát triển kinh tế phát triển đất nước và lấy kinh tế để đầu tư cho quân đội, xây dựng nền quân sự lớn mạnh. Chính phủ đề ra các chính sách phát triển kinh tế “Minh Trị sơ kỳ”, lấy xuất phát điểm từ một nước công nghiệp với 72,6% là nông dân. Mục tiêu được đề ra là: phát triển công nghiệp hiện đại hóa; mở rộng sản xuất nông nghiệp, giảm mức thuế từ 3% xuống 2,5% giá đất [44, tr.235]. Những biện pháp cụ thể được đề ra: du nhập chuyển giao kỹ thuật sản xuất hiện đại, thuê chuyên gia nước ngoài trong thời kỳ đầu nhưng đến cuối thời Minh Trị thì các chuyên gia được thay đổi dần bằng chuyên gia người Nhật Bản; cử người đi đào tạo ở nước ngoài; mở các trường trung cấp nghề để đào tạo lực lượng lao động; hợp tác kỹ thuật, chuyển giao công nghệ. Năm 1870, chính phủ tiến hành thành lập bộ Công nghiệp, năm 1874 bộ Nội vụ và bộ Tài chính được thành lập. Đồng thời, chính phủ tiến hành nhượng lại một số công ty quốc doanh cho những nhà tư bản lớn quản lý nếu có khả năng hay chuyển nhượng cho các công ty độc quyền có thế lực lớn như Mitsui, Mitsubishi. Ngoài ra, nhà nước sẽ quản lý các công xưởng quân sự và các mỏ khai khoáng. Về hệ thống vận tải: đường xe lửa đầu tiên nối Tokyo với Yokohama khánh thành vào năm 1872 do sự giúp đỡ của các chuyên gia Anh. Vào năm 1874, tuyến xe lửa thứ hai từ Osaka đến Kobe được hoàn thành và nhiều tuyến đường khác được xây dựng và đi vào hoạt động. Đường biển, công ty Mitsubishi do Iwasaki Yataro (1834 – 1885) thành lập năm 1875 là công ty đầu tiên chuyên vận tải đường biển. Công ty này nhận được sự giúp đỡ của chính phủ sau khi hoàn thành việc chuyên chở quân nhu giúp quân chính phủ 11 chiến thắng trong cuộc chiến tranh Tây Nam. Đến năm 1893, Nhật Bản đã có hơn 2.000 dặm đường xe lửa, 100.000 tấn trọng tải tàu biển chạy bằng hơi nước. Hệ thống điện tín, điện thoại và bưu chính được đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động rộng rãi. Hệ thống tài cính tiền tệ được cải cách, áp dụng chế độ “Bản vị vàng” để cố định tỷ giá Yên là 1 Đôla Mỹ bằng 2 Yên Nhật. Việc áp dụng cố định tỷ giá Yên để tạo điều kiện cho việc xuất khẩu. Từ đây, nền kinh tế Nhật Bản dần phát triển từ một nước nhập khẩu chuyển dần sang xuất khẩu các mặt hàng như dệt, đóng tàu (xuất khẩu sang Trung Quốc). Với các chính sách phát triển kinh tế được chính quyền Minh Trị đề ra, mặc dù chưa thể hoàn thành đầy đủ và hoàn thiện so với mục tiêu nhưng kinh tế của Nhật Bản cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Đến giữa thời kỳ Minh Trị thì nền kinh tế Nhật Bản đã thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ, vượt xa các nước phương Đông thời bấy giờ và thoát khỏi nguy cơ bị xâm lược từ các nước phương Tây. Hơn nữa, cùng với những điều kiện mà Nhật Bản đã đạt được thì chính quyền Minh Trị đã giành lại quyền sửa đổi ở các bản hiệp ước trước đó với phương Tây, bình đẳng hơn với các nước phương Tây không cần lệ thuộc và giành lợi ích về cho đất nước. Việc xóa bỏ bất bình đẳng giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội và mọi người được phép tự do lựa chọn nghề nghiệp đã giải phóng một lực lượng lớn các võ sỹ để tham gia vào quá trình lao động kiến thiết đất nước. Những người nông dân trẻ có thể từ bỏ việc làm ruộng để lên thành phố học nghề và tham gia vào các công việc công nghiệp, làm công nhân. Nhờ vào cải cách địa tô, Nhật Bản vẫn chú trọng phát triển nông nghiệp nhưng phát triển theo cách mới, nguồn lực về nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng. Việc đầu tư và phát triển cho công nghiệp nhẹ: tơ lụa, bông sợi (kéo sợi bằng máy thay cho kéo sợi bằng tay khiến cho năng suất lao động tăng mạnh); 12 các ngành công nghiệp nặng: cơ khí sản xuất máy móc, đóng tàu, cơ điện, hóa chất,… hàng hóa của công nghiệp trước hết phục vụ cho đất nước nhưng sau này đã có sự dư thừa và xuất khẩu ra nước ngoài. Từ năm 1899 đến năm 1903, Nhật Bản là nước xuất khẩu tơ sống nhiều nhất thế giới, đạt mức 15 triệu pound (tương đương 6.806 tấn) mỗi năm [6, tr.109]. Bảng chỉ số sản xuất công nghiệp từ năm 1880 đến năm 1925 Năm Tính chung Dệt Máy móc và công cụ Hóa chất Hơi đốt và điện Kim loại 1880 1,51 1,10 2,38 _ 0,21 1,30 1885 1,51 1,60 2,36 _ 0,19 0,79 1890 3,74 5,85 4,67 1,24 0,34 1,29 1900 11,30 20,40 12,53 7,72 1,81 1,34 1905 21,79 27,75 27,78 17,03 4,10 15,22 1910 31,88 36,95 32,46 26,81 14,52 31,48 1915 48,64 57,90 39,93 18,34 38,18 59,55 1920 80,52 77,58 91,33 76,87 68,86 80,55 1925 115,77 111,70 99,21 10,72 131, 00 124,38 Nguồn: M.Yoshino “Hệ thống quản lý Nhật Bản – truyền thống và đổi mới”, tập 1, Viện Kinh tế Thế giới, Hn, 1986, tr 50. Các ngành công nghiệp phát triển mạnh tại Nhật Bản thời kỳ này cho thấy thành công của con đường cải cách của chính quyền Minh Trị. Các trung tâm công nghiệp lớn đã được hình thành như: Tokyo, Osaka, Yokohama, Kobe. 1.1.2. Cải cách về giáo dục, văn hóa Để đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia phát triển hiện đại như phương Tây thì chính quyền Minh Trị (Meiji) đã chú trọng xây dựng nền giáo dục theo mô hình của các nước phương Tây. Trong thời kỳ Edo, việc quản lý 13 về giáo dục đã tạo ra một tỷ lệ dân số biết chữ cao. Vì vậy, việc giáo dục thời kỳ này trở nên dễ dàng hơn. Sau khi tiếp nhận chính quyền từ Mạc phủ, ban lãnh đạo chính quyền Minh Trị (Meiji) đã tiến hành một loạt cải cách nhằm theo đuổi khẩu hiệu mang tính chiến lược: “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt phương Tây”. Để triển khai khẩu hiệu này, một trong ba chính sách lớn của chính quyền Minh Trị (Meiji) được thực thi đó là “Văn minh khai hóa”. Do đó, một cao trào học tập các nước phương Tây đã diễn ra ở Nhật Bản trong khoảng hai thập kỉ đầu thời Minh Trị (Meiji). Và việc tiếp thu văn minh văn hóa phương Tây được bắt đầu ngay từ giáo dục. Mặt khác, việc thống nhất lại đất nước cũng là điều kiện quyết định trong công cuộc cải cách giáo dục này của Nhật Bản để vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa đảm bảo an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Công cuộc cải cách giáo dục chính thức bắt đầu với việc Bộ giáo dục công bố “Học chế” ngày 3 tháng 8 năm 1872. Học chế gồm 213 điều với một số tư tưởng chủ đạo như sau: - Nhà trường dành cho tất cả mọi người và dựa vào kiến thức Âu – - Đào tạo con người làm giàu cho Tổ quốc và bảo vệ đất nước - Xây dựng nhiều trường học, mở rộng các trường cao đẳng và Mỹ chuyên nghiệp Học chế đã phủ nhận lối suy nghĩ coi học vấn chỉ phục vụ cho lợi ích quốc gia mà “học vấn chính là vốn liếng để lập thân”, chủ trương tư tưởng thực học và khuyến khích mọi người tới trường. Học chế đã vạch ra một hệ thống trường học thống nhất thay cho hệ thống trường học có hai chế độ: một cho võ sĩ, một cho bình dân dưới thời Edo. Sự thay đổi này chính là đặc điểm quan trọng nhất của giáo dục thời Minh Trị (Meiji). Bên cạnh đó, học chế còn chia toàn quốc thành 8 khu Đại học. Theo đó, ở mỗi khu có một trường Đại học. Mỗi khu đại học lại quản lý 14 32 khu trung học, mỗi khu trung học quản lý 210 khu tiểu học. Nghĩa là, theo kế hoạch, Nhật Bản sẽ phải xây dựng trên toàn quốc 53.760 trường học, tức trung bình có khoảng 600 dân 1 trường tiểu học. Để phù hợp với tình hình đất nước, phương châm giáo dục Nhật Bản hướng đến thời bấy giờ mang tính chất toàn diện, toàn dân, hướng đến một nước Nhật Bản trong tương lai không những dồi dào nguồn nhân tài mà còn phục vục công cuộc phát triển toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực. Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, chính quyền Minh Trị (Meiji) đã lần lượt cho thực hiện cải cách bằng những nội dung và phương pháp khác nhau: Về nội dung, cải cách đã tập trung xây dựng một nền giáo dục thực dụng theo kiểu phương Tây, chú trọng tính hiệu quả trong công việc học tập mang lại bởi sở dĩ, nền giáo dục Nho học trước đây quá thiên về hư học, tức chỉ sử dụng Nho học trong việc cung cấp tri thức, giáo dục và đào tạo nhân tài mang tính hàn lâm cao mà bỏ bê việc trang bị kiến thức khoa học kĩ thuật và thực nghiệm. Hơn nữa, trong thời kì chủ nghĩa tư bản đang lên lúc bấy giờ thì việc bức thiết đối với Nhật Bản chính là thực hiện một bước đi mới theo kiểu phương Tây. Giáo dục là cái nguồn cội của mọi sự phát triển đất nước. Do đó, chính sách của Thiên hoàng Minh Trị (Meiji) đã tập trung ngay vào việc coi trọng giáo dục từ cấp bậc tiểu học và đào tạo đội ngũ giáo viên có chuyên môn chuyên nghiệp. Việc giáo dục đối với trẻ em được thực hiện từ rất sớm để hướng đến hình thành nhân cách trẻ Nhật Bản là người có tính tự lập, tự chủ cao, có tinh thần học hỏi cầu tiến, biết khiêm nhường, kính trên nhường dưới và luôn tôn trọng mọi người. Trong những năm đầu cải cách, để đẩy mạnh chiến lược giáo dục toàn diện, chính phủ đã phải tiến hành song song hai biện pháp: Một là, cưỡng chế người dân cho trẻ em đến trường bằng sắc lệnh; hai là, hỗ trợ người dân về mặt tài chính, chẳng hạn cấp phát những đồ dùng thiết yếu cho học tập của trẻ em như sách giáo khoa, phấn, bút chì,…Một hệ thống trường tiểu học được thiết lập theo Luật trường Tiểu học và được coi là cơ sở 15 của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Học chế năm 1872 thì thời gian giáo dục bắt buộc là 8 năm, nghĩa là tất cả trẻ em từ 6 đến 13 tuổi phải được đến trường. Môn học chính được chú trọng đối với trẻ em là bậc tiểu học là môn Tu thân. Bởi lẽ, quan niệm của người Nhật Bản là rèn luyện phẩm chất đạo đức không tách rời việc học tập tri thức văn hóa. Đây chính là khía cạnh tạo cho nền giáo dục Nhật Bản khác hẳn với nền giáo dục phổ thông ở các nước phương Tây. Đối với giáo viên, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng được chính phủ đặc biệt chú ý. Nhiều chính sách ưu tiên cho những người theo học ngành sư phạm. Nhân việc nhận được tiền bồi thường chiến tranh của nhà Thanh sau cuộc chiến tranh Trung – Nhật năm 1894-1895, chính quyền Minh Trị (Meiji) đã dành một phần đáng kể để nâng lương cho giáo viên. Nhưng bên cạnh những ưu tiên đó, chính phủ cũng buộc họ không được đổi nghề, kèm với đó là việc đặt ra những tiêu chuẩn rất chặt chẽ, yêu cầu về trình độ giáo viên ngày càng cao. Đó là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của các trường học ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị (Meiji). Về mục đích, giáo dục Nhật Bản hướng đến một nền giáo dục tiên tiến phương Tây trong mối quan hệ bình đẳng giữa tất cả các tầng lớp trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,... ai ai cũng được học tập. Việc tiếp thu văn minh phương Tây là một chủ trương lớn của chính quyền Minh Trị được khẳng định trong Năm lời thề (14-3-1868) khẩu hiệu mang tính chiến lược: “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt phương Tây”. Vốn là một dân tộc nhạy cảm với những biến đổi bên ngoài và có khả năng thích nghi cao, Nhật Bản tiếp thu những thành tựu và văn hóa phương Tây một cách khá nhanh chóng. Sau đó, Nhật Bản lần lượt từng bước biến nó thành tài sản của mình, nghĩ là, luôn giữ thái độ tiếp thu một cách chủ động mà vẫn đảm bảo việc duy trì và phát huy tốt bản sắc dân tộc. Do đó, việc du nhập văn minh phương Tây dưới thời Minh Trị cũng được thực hiện với phương châm như vậy. 16 • Một số thành tựu trong công cuộc cải cách giáo dục Trong công tác giáo dục và đổi mới giáo dục, “Tính đến năm 1890 đã có khoảng 3.000 chuyên gia giáo dục ngoại quốc sang làm việc ở ngành giáo dục Nhật Bản” [9, tr.129] . Với quyết tâm nâng cao trình độ dân trí, chính quyền đã áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc và bình đẳng cho tất cả mọi thành phần xã hội. Nhờ đó, “năm 1873, mới chỉ có 28% tổng số cư dân đến tuổi đi học thì năm 1882 con số này đã tăng lên 50%, năm 1895 là 67%, 1904 là 98%” [9, tr.129]. Thành tựu mà Nhật Bản đã đạt được trong giáo dục đúng như theo nhận xét của Edwin O. Reischauer: “Một nền giáo dục phổ cập đã khiến cho Nhật Bản trở thành nước đầu tiên ở châu Á có một quần chúng biết đọc biết viết. Một trình độ giáo dục phổ thông cao, cũng như sức mạnh quân sự và khả năng kĩ nghệ là lý do cắt nghĩa tại sao Nhật Bản đã chiếm được ưu thế tại vùng Đông Á vào nửa đầu thế kỉ XX” [31, tr151] Trong sự nghiệp duy tân đất nước, giáo dục là ngành đặc biệt được coi trọng bởi vai trò đặc thù tạo nên nguồn lực trí thức cho sự phát triển căn bản và bền vững của tất cả các ngành sản xuất, kĩ thuật, quản lý của Nhật Bản. Trong công cuộc đổi mới giáo dục đó phải kể đến công lao của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Ông được tôn vinh là “người thầy của dân tộc”, “người cha của nước Nhật cận đại” và “Voltaire của Nhật Bản”. Tư tưởng cải cách của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình thiết lập và sự phát triển của một nhà nước mới và có ý nghĩa vạch đường đi cho dân tộc. Để đẩy mạnh việc tiếp thu văn minh phương Tây, yêu cầu đất nước phải có một nền tảng học, am hiểu những lĩnh vực chuyên môn của người nước ngoài. Do đó, buộc phải có một đội ngũ học giả có quan hệ mật thiết với nhau, cùng đóng góp công sức cho công cuộc đổi mới trong giáo dục, để vừa có thể trao đổi học vấn, vừa có thể học hỏi lẫn nhau, Mori Arinori (Sâm Hữulễ; 森有礼 ; 1847-1889) đã đề nghị “thiết lập một học hội vừa để chấn hưng học thuật vừa để làm gương mẫu đạo đức” [48]. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan