Luận văn tốt nghiệp: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt Nam
Luận văn tốt nghiệp "Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt Nam" gồm các nội dung chính là: Lý luận chung về BHXH và công tác thu BHXH, thực trạng của công tác thu BHXH ở Việt Nam, một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt Nam.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác thu BHXH ở Việt Nam”.
Trang 1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC THU BHXH.......6
I. Tổng quan về BHXH...................................................................................................6
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH...................................................6
2. Bản chất và chức năng của BHXH.....................................................................10
3. Quan điểm về BHXH..........................................................................................13
4. Đối tượng và đối tượng tham gia BHXH............................................................14
5. Các chế độ BHXH...............................................................................................15
6. Quỹ BHXH..........................................................................................................16
II. Công tác thu BHXH...................................................................................................19
1. Vai trò của công tác thu BHXH...........................................................................19
2. Quy trình thu BHXH...........................................................................................20
3. Quản lý thu BHXH..............................................................................................21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM.. .23
I. Khái quát về chính sách BHXH ở Việt Nam..............................................................23
1. Giai đoạn trước năm 1995...................................................................................23
2. Giai đoạn sau năm 1995......................................................................................25
II. Nguồn hình thành quỹ BHXH ở Việt Nam...............................................................29
1. Trước năm 1995...................................................................................................29
2. Từ năm 1995 trở lại đây.......................................................................................29
III. Thực trạng của công tác thu BHXH ở Việt Nam.....................................................33
1. Phân cấp thu BHXH, BHYT...............................................................................33
2. Các phương pháp thu BHXH..............................................................................35
3. Kết quả thu BHXH ở Việt Nam..........................................................................37
4. Đánh giá thực trạng công tác thu BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua........44
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THU BHXH Ở VIỆT NAM............................................54
I. Mục tiêu, phương hướng hoạt động của ngành BHXH Việt Nam trong thời gian tới.
.........................................................................................................................................54
1. Mục tiêu của ngành BHXH Việt Nam nói chung...............................................54
Trang 2
2. Mục tiêu của Ban thu ngành BHXH nói riêng....................................................55
II. Một số kiến Nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu quỹ BHXH ở Việt
Nam.................................................................................................................................56
1. Một số kiến nghị đối với chính sách Nhà nước về BHXH.................................57
2. Một số kiến nghị đối với BHXH Việt Nam........................................................61
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt Nam
trong thời gian tới...........................................................................................................64
1. Về cán bộ chuyên quản, chuyên thu của ngành BHXH Việt Nam.....................64
2. Thực hiện tốt công tác thu đúng, thu đủ từ đối tượng tham gia BHXH.............65
3. Giải pháp nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng quỹ bảo hiểm............................68
4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với công tác thu quỹ BHXH........70
KẾT LUẬN................................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................72
Trang 3
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động BHXH luôn nằm trong chương trình bảo vệ xã hội của mỗi quốc gia,
bảo đảm an toàn cho xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế. Chương trình bảo vệ xã hội
có các hệ thống bảo đảm xã hội (phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hôi…), hệ thống Bảo
hiểm tư nhân. Mỗi hệ thống có một phương thức tổ chức thực hiện khác nhau thể hiện
qua việc hình thành nguồn tài trợ cho hoạt động và cách phân phối cho người thụ
hưởng của hệ thống.
Hệ thống BHXH bảo vệ lợi ích cho mọi người lao động khi bị ốm đau thai sản,
tai nạn lao động, khi về già hoặc khi gặp phải những rủi ro biến cố trong cuộc sống.
Thông qua việc hình thành một quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và
sự hỗ trợ của Nhà nước. Đây là hoạt động không kinh doanh, hoạt động không vì mục
đích lợi nhuận. Ở nước ta, chính sách BHXH được Đảng và Nhà nước đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm và thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập nước và
thường xuyên được bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất
nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Với những
quan hệ lao động phong phú đa dạng và phức tạp đã gây không ít khó khăn cho việc
thực hiện chính sách BHXH nói chung và công tác thu chi của quỹ BHXH nói riêng.
Chính vì thế mà chính sách BHXH luôn cần được nghiên cứu, tìm hiểu nhằm đổi mới
chính sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng.
Quỹ BHXH là một nội dung quan trọng trong chính sách BHXH. Nó vừa mang
tính kinh tế xã hội vừa mang tính chính trị nhằm ổn định cho một đất nước phát triển.
Hơn nữa, chính sách BHXH ở nước ta được phát triển toàn diện, có đủ tài chính để chi
trả các chế độ ngắn hạn và dài hạn cho người tham gia BHXH trong và ngoài thời gian
lao động để từ đó chính sách BHXH thực sự đi vào đời sống của người dân Việt nam
thì nâng cao vai trò của công tác thu tạo quỹ BHXH từ người lao động và người sử
dụng lao động là một trong những vấn đề hết sức cần thiết trong thời gian hiện nay. Từ
những lý do trên trong quá trình thực tập em đã chọn đề tài: “Kiến nghị và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu BHXH ở Việt Nam” để làm Luận văn tốt
nghiệp của mình.
Trang 4
Mục đích của Luận văn là xem xét đánh giá kết quả của công tác thu BHXH ở
Việt Nam trong thời gian qua và từ đó đưa ra kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác thu BHXH.
Kết cấu của Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 chương:
Chương I
: Lý luận chung về BHXH và công tác thu BHXH.
Chương II
: Thực trạng của công tác thu BHXH ở Việt Nam.
Chương III
: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công
tác thu BHXH ở Việt Nam.
Trang 5
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC THU BHXH
I. TỔNG QUAN VỀ BHXH
1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH
1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH
Thời tiết có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân cây cối tươi tốt, đâm chồi
nảy lộc. Qua hạ sang thu, đông lại về. Sống trong trời đất con người, ai cũng luôn
mong muốn được tồn tại, phát triển, trường tồn mãi mãi. Nhưng cũng như quy luật của
tự nhiên, thực tại luôn có sự thay đổi, biến hóa bởi ai cũng phải trải qua các giai đoạn
phát triển của đời người đó là sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Đó là vòng: sinh,
lão, bệnh, tử và ước muốn của con người là có được cuộc sống an sinh, hạnh phúc.
Nhưng quy luật của tạo hóa là sinh ra lớn lên và già yếu mà ai cũng phải trải qua. Đi
theo cùng quy luật đó là những rủi ro, ốm đau, bệnh tật, hoạn nạn có thể đến bất cứ lúc
nào trong cuộc sống. Hơn nữa, con người từ thời sơ khai là xã hội nguyên thuỷ cho
đến nay không ai có thể tồn tại độc lập, sống bên ngoài sự giúp đỡ, chia sẻ của cộng
đồng, bè bạn và người thân của mình. Bởi trong thực tế không phải lúc nào con người
cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập ổn định và mọi điều kiện sinh sống đều
diễn ra bình thường như mình mong muốn mà trái lại có rất nhiều khó khăn bất lợi, ít
nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập như: bệnh tật,
tuổi già, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khi rơi vào những hoàn cảnh, trường
hợp này thì các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không chỉ mất đi mà trái lại còn phát
sinh thêm những làm cho người lao động khó có thể đảm đương được. Chính xuất phát
từ bản chất mong muốn tồn tại và vượt qua những khó khăn trở ngại của cuộc sống khi
rủi ro xảy ra đã đòi hỏi những người lao động (NLĐ) và xã hội loài người phải tìm ra
được biện pháp nào đó để giải quyết những vấn đề trên và thực tế là họ đã tìm ra nhiều
cách giải quyết khác nhau như: san sẻ rủi ro, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng
đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Nhưng những cách này
chỉ mang tính tạm thời, thụ động và không chắc chắn.
Lịch sử cũng đã chứng minh từ khi nền kinh tế hàng hóa phát triển và việc thuê
mướn lao động cũng đã trở lên phổ biến thì đồng thời cũng là mẫu thuẫn chủ thợ trong
xã hộ cũng phát sinh. Nguyên nhân sâu sa và cũng là nguyên nhân chủ yếu của mâu
Trang 6
thuẫn trên là những thuê mướn lao động - chủ sử dụng lao động (NSDLĐ) không
mong muốn bị buộc phải đảm bảo thu nhập cho nhập cho người lao động mà mình
thuê mướn (NLĐ) trong trường hợp họ gặp phải những rủi ro. Không cam chịu với
thái độ của các chủ sử dụng lao động, những người lao động đã liên kết lại đấu tranh
buộc người chủ sử dụng lao động phải thực hiện cam kết trả công lao động và đảm bảo
cho họ có một thu nhập nhất định để họ có thể trang trải cho những nhu cầu thiết yếu
khi gặp những biến cố làm mất hoặc giảm thu nhập do mất hoặc giảm khả năng lao
động, mất việc làm. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động lớn
đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp
và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt đã làm tăng được vai trò của Nhà
nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định
hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm
thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ Ngân sách Nhà nước khi cần thiết
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi
trong cuộc sống. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của
người lao động được dàn trải đều và chia nhỏ rủi ro của một người cho nhiều người
làm cho cuộc sống của NLĐ và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định, đồng
thời giới chủ cũng thấy mình có lợi trong nhiều mặt và đảm bảo được tiến độ sản xuất
nâng cao năng xuất lao động.
Xuất phát từ thực tế khách quan trên người ta hiểu ràng toàn bộ những hoạt
động với những mối quan hệ chặt chẽ đó được quan niệm là Bảo hiểm xã hội (BHXH)
đối với người lao động. Đây là một trong những phương thức đối phó hữu hiệu nhất
trong hệ thống An sinh xã hội của quốc gia, là một trong những phát kiến văn minh
nhân loại về khoa học xã hội kết hợp với khoa học tự nhiên để giữ gìn, bảo vệ cuộc
sống, sức khoẻ cho con người.
Đối với Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước năm 1945 Chính phủ đã trú trọng
đến vấn đề phát triển chính sách BHXH và bảo trợ xã hội. Đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sớm quan tâm ban hành và thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập
nước và thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp yêu cầu phát triển thực
tiễn của đất nước. Hệ thống BHXH ngày càng được mở rộng đã góp phần to lớn vào
Trang 7
việc ổn định cuộc sống cho người lao động, góp phần ổn định kinh tế chính trị xã hội
của đất nước.
Tất nhiên, BHXH vẫn chưa hoàn toàn khắc phục được những yếu điểm của nó
mặc dù là cho đến nay nó đã trải qua một thời gian dài. Song không thể phủ nhận sự
tồn tại của hệ thống BHXH là một sự cần thiết tất yếu khách quan cho mọi Quốc gia,
cho toàn nhân loại.
1.2. Vai trò của BHXH.
Có thể nói từ khi khái niệm BHXH được biết đến ở mọi Quốc gia thì chính sách
BHXH đều do Nhà nước quản lý một cách thống nhất. Trong mọi chế độ xã hội
BHXH luôn đóng vai trò quan trọng và thể hiện được những vai trò to lớn.
Đối với người lao động (NLĐ):
Có thể nói BHXH có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần đảm bảo cuộc
sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi mà họ gặp những rủi ro bất ngờ
như: tai nạn lao động, ốm đau, thai sản…làm giảm hoặc mất sức lao động gây ảnh
hưởng đến thu nhập của NLĐ. Bởi lẽ, khi NLĐ gặp những rủi ro ảnh hưởng đến thu
nhập BHXH sẽ thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình họ với
mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo đúng quy định của Nhà nước. Do vậy,
mặc dù có những tổn thất về thu nhập nhưng với sự bù đắp của BHXH đã phần nào
giúp NLĐ có được những khoản tiền nhất định để trang trải cho các nhu cầu thiết yếu
của bản thân và gia đình họ. Chính do có sự thay thế và bù đắp thu nhập này, BHXH
làm cho NLĐ ngày càng yêu nghề hơn, gắn bó với công việc, sống có trách nhiệm hơn
với bản thân, gia đình bè bạn và cộng đồng hơn; là sợi dây ràng buộc, kích thích họ
hăng hái tham gia sản xuất hơn, gắn kết NSDLĐ với NLĐ lại gần nhau hơn, từ đó
nâng cao được năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội góp phần nâng cao chính
cuộc sống của những người tham gia BHXH.
Ngoài ra BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho NLĐ góp phần tái sản
xuất sức lao động cho NLĐ nhanh chóng trở lại làm việc tạo ra sản phẩm mới cho
doanh nghiệp nói riêng và cho xã hộ nói chung, đồng thời góp phần đảm bảo thu nhập
của bản thân họ.
Đối với người sử dụng lao động (NSDLĐ):
Thực tế trong lao động, sản xuất NLĐ và NSDLĐ vốn có những mâu thuẫn
nhất định về tiền lương, tiền công, thời hạn lao động… Và khi rủi ro sự cố xảy ra, nếu
Trang 8
không có sự giúp đỡ của BHXH thì dễ dẫn đến khả năng tranh chấp giữa NLĐ và
NSDLĐ. Vì vậy BHXH góp phần điều hoà, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và
giới thợ, tạo ra môi trường làm việc ổn định cho người lao động, tạo sự ổn định cho
người sử dụng lao động trong công tác quản lý. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả
năng suất lao động của doanh nghiệp lên.
Hơn nữa, NSDLĐ muốn ổn định và phát triển sản xuất thì ngoài việc đầu tư vào
máy móc, thiết bị, công nghệ… còn phải chăm lo đến đời sống cho người lao động mà
mình thuê mướn, sử dụng. Bởi NSDLĐ khi đã tính đến việc thuê mướn lao động cũng
có nghĩa là lúc đó họ rất cần có NLĐ làm việc cho mình liên tục trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Nhưng mong muốn của NSDLĐ đó không phải lúc nào cũng thực
hiện được, bởi trong quá trình sản xuất cũng như trong đời sống NLĐ có thể gặp rủi ro
vào bất kì lúc nào. Và lúc đó, NSDLĐ sẽ không có người làm thuê cho mình dẫn đến
gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh làm giảm năng xuất lao động rồi dẫn đến
giảm thu nhập cho NSDLĐ. Nhưng khi có sự trợ giúp của BHXH, NLĐ không may
gặp rủi ro đó phần nào được khắc phục về mặt tài chính, từ đó NLĐ có điều kiện phục
hồi nhanh những thiệt hại xảy ra. Làm cho người lao động nhanh chóng trở lại làm
việc giúp NSDLĐ, yên tâm, tích cực lao động sản xuất làm tăng năng xuất lao động,
góp phần tăng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với Nhà nước:
- BHXH là một trong những bộ phận quan trọng giúp cho Ngân sách Nhà nước
giảm chi đến mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho NLĐ
và gia đình họ được phát triển an toàn hơn. Khi NLĐ hoặc NSDLĐ gặp tai nạn rủi ro
sẽ làm quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, năng suất lao động giảm xuống
(cung hàng hoá nhỏ hơn cầu) làm tăng giá cả thị trường và rất có thể dẫn đến tình
trạng lạm phát, khi đó buộc Chính phủ phải can thiệp điều tiết giá cả để ổn định đời
sống của người dân.
- BHXH góp phần giữ vững an ninh, chính trị trong nước ổn định trật tự an toàn
cho xã hội: BHXH điều hoà, hạn chế các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ đồng
thời tạo ra môi trường làm việc thuận lợi, ổn định cho người lao động. Bởi khi mâu
thuẫn giữa NLĐ và NSDLĐ chưa được giải quyết sẽ có thể dẫn đến những cuộc đình
công, thậm chí là gây ra những cuộc bãi công lan rộng trên cả nước của những người
công nhân (NLĐ) đến lúc đó sản phẩm lao động xã không được sản xuất ra, mà nhu
Trang 9
cầu tiêu dùng của xã hội vẫn cứ tiếp tục tăng lên khi đó buộc Chính phủ phải nhập
khẩu hàng hoá. Như vậy, Chính phủ sẽ phải đối mặt với rất nhiều vấn đề như: giữ
vững trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nhu cầu tối thiểu của người dân…
- BHXH có vai trò quan trong trọng việc tăng thu, giảm chi cho Ngân sách Nhà
nước:
+ BHXH làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước: BHXH đã làm giảm bớt mâu
thuẫ giữa giới chủ và giới thợ đồng thời gắn kết giữa NSDLĐ và NLĐ, góp phần kích
thích NLĐ hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động cá nhân nói riên
đồng thời góp phần làm tăng năng xuất lao động xã hội nói chung từ đó sản phẩm xã
hội tạo ra ngày một tăng lên có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu ra nước ngoài. Do vậy, ngân sách Nhà nước tăng lên do có một khoản thu được
thông qua việc thu thuế từ các doanh nghiệp sản xuất nói trên.
+ Khi người lao động tham gia BHXH mà không may gặp rủi ro bất ngờ hoặc
khi thiên tai hạn hán, lũ lụt xảy ra… làm giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến
giảm hoặc mất thu nhập thì sẽ được bù đắp một phần thu nhập từ quỹ BHXH. Lúc này,
nếu không có sự bù đắp của BHXH thì buộc Nhà nước cũng phải đứng ra để cứu trợ
hoặc giúp đỡ cho NLĐ để NLĐ và gia đình họ vượt qua được khó khăn đó. Từ đó góp
phần làm giảm chi cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời giảm bớt được các tệ nạn xã
hội phát sinh, giữ vững ổn định chính trị xã hội.
- Ngoài ra BHXH giúp cho Nhà nước thực hiện được các công trình xây dựng
trọng điểm của quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế, xã hội quốc gia bởi
BHXH tập trung được nguồn quỹ lớn. Nguồn quỹ này thường dùng để chi trả cho các
sự kiện BHXH xảy ra về sau. Chính vì vậy mà quỹ nhàn rỗi này có một thời gian nhàn
rỗi nhất định đặc biệt là quỹ dành cho chế độ dài hạn. Trong khoảng thời gian nhàn rỗi
ấy quỹ BHXH tạo thành một nguồn vốn lớn đầu tư cho các chương trình phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia.
2. Bản chất và chức năng của BHXH
2.1. Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là thu nhập khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong
xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn
lao động phát triển đến mức nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa
Trang 10
dạng và hoàn thiện, càng chứng tỏ được những mặt ưu điểm hơn. Vì vậy có thể nói
kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi
nước. Đóng vai trò như một vị cứu tinh cho NLĐ khi họ gặp phải những rủi ro làm
giảm thu nhập trong cuộc sống. Có thể nói nhu cầu về BHXH thuộc về nhu cầu tự
nhiên của con người. Xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các tiêu chuẩn
hay giá trị cho cuộc sống tối thiểu.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động
và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên
tham gia BHXH có thể chỉ là NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. Bên BHXH (bên nhận
nhiệm vụ BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
BHXH được xem như là một hệ thống các hoạt động mang tính xã hội nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định
trật tự xã hội nói chung.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể nói là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng
thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những
biến cố rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn
tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu. Ngoài ra còn
được hỗ trợ của Nhà nước khi có sự thâm hụt quỹ (thu không đủ chi), chính vì vậy mà
chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của chính sách về kinh tế xã hội và là
một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của Quốc
gia.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được
tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ.
Trang 11
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều khiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và nhu cầu đặc
biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
2.2. Chức năng của BHXH
BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự
xã hội nói chung do vậy BHXH có chức năng:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ tham gia BHXH khi họ bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
này chắc chắn xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động xẽ dẫn đến với tất cả
mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo quy định của BHXH. Còn mất việc làm
và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, NLĐ cũng sẽ được
hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo đúng quy
định của Nhà nước. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm
vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Bởi cũng giống như nhiều loại hình Bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên
nguyên tắc lấy số đông bù số ít, do vậy mọi người lao động khi tham gia BHXH đều
bình đẳng trong việc đóng góp vào quỹ cũng như được bình đẳng trong quyền lợi nhận
được từ các chế độ BHXH. Người tham gia để tạo lập quỹ BHXH là tập hợp tất cả
những người đóng BHXH từ mọi ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế xã hội, các lĩnh vực này bao gồm tất cả các loại công việc từ đơn
giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến công việc nặng nhọc độc hại. Do vậy, BHXH xã
hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể hiện tính công bằng
xã hội cao.
- BHXH là đòn bẩy, khuyến khích NLĐ hăng hái tham gia lao động sản xuất và
từ đó nâng cao năng suất lao động: BHXH góp phần kích thích người lao động hăng
hái lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động cá nhân và tăng năng suất lao động
xã hội góp phần tăng mối quan hệ tốt đẹp và gắn bó lợi ích giữa NLĐ, NSDLĐ và nhà
nước.
Trang 12
- BHXH thực hiện chức năng điều hoà lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ, Nhà
nước đồng thời làm giảm bớt mâu thuẫn xã hội, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã
hội.
- BHXH còn thực hiện chức năng giám đốc bởi BHXH tiến hành kiểm tra, giám
sát việc tham gia thực hiện chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy định của
pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xã hội.
3. Quan điểm về BHXH.
BHXH ra đời và phát triển lúc đầu còn mang tính tự phát về sau được nhà nước
luật pháp hóa các chế độ BHXH. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 140 quốc gia
thực hiện BHXH tuy nhiên việc thực hiện BHXH ở mỗi nước là khác nhau. Tuỳ vào
mỗi mỗi quốc gia trên thế giới mà chính sách BHXH được lựa chọn với hình thức, cơ
chế và mức độ thoả mãn nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và
định hướng phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia đó. Nhưng có một số quan điểm về
BHXH được hầu hết các nước trên thế giới đã thừa nhận.
- Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong hệ thống các chính sách xã hội. Quan điểm này chứng tỏ rằng các nước đều
thừa nhận tính xã hội cao của BHXH. Ở Việt Nam, BHXH được xếp trong hệ thống
các chính sách đảm bảo xã hội của Đảng và Nhà nước. Bởi mục đích chủ yếu của
chính sách này là nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia đình họ khi mà có sự kiện
rủi ro bất ngờ đến với họ.
- NSDLĐ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho NLĐ. NSDLĐ, họ phải
có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp quỹ BHXH đồng thời thực hiện đầy đủ các chế
độ BHXH đối với NLĐ mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Bởi NSDLĐ
muốn ổn định kinh doanh sản xuất thì ngoài sự hoạt động của máy móc ra cũng cần
phải có đội ngũ công nhân đảm bảo cho máy móc được vận hành và vận chuyển. Do
vậy, NSDLĐ cần phải đảm bảo cho người công nhân được ổn định cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần. Chỉ có như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh mới không bị gián đoạn
góp phần nâng cao năng xuất lao động.
- Tất cả mọi NLĐ đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với BHXH mà
không phân biệt nam nữ hay dân tộc tôn giáo, nghề nghiệp… Điều này có nghĩa là mọi
NLĐ trong xã hội đều được hưởng quyền lợi BHXH như tuyên ngôn độc lập nhân
quyền đã nêu đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền trợ cấp BHXH.
Trang 13
- Nhà nước thống nhất quản lý BHXH từ việc hoạch định các chế độ chính
sách, tổ chức bộ máy thực hiện đến việc kiểm tra kiểm soát. Quan điểm này xuất phát
từ việc BHXH được coi là một chính sách xã hội, là hoạt động phi lợi nhuận vì thế mà
nhà nước cần đứng ra tổ chức và quản lý.
- Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng mất khả năng
lao động, tiền lương lúc đang đi làm, tuổi thọ bình quân của NLĐ, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kì, xác định hợp lý mức tối thiểu của các chế độ
BHXH. Ngoài ra còn quan tâm đến vấn đề công bằng trong xã hội, mức trợ cấp này
phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm nhưng mức thấp nhất cũng phải đảm bảo
mức sống tối thiểu cho người hưởng chế độ BHXH.
- BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời
gian thực hiện, bảo đảm quyền lợi của NLĐ, đảm bảo công bằng xã hội.
4. Đối tượng và đối tượng tham gia BHXH.
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19 khi mà nền công nghiệp và kinh tế
hàng hóa bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu âu. Từ năm 1883 ở nước phổ
(CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật Bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và Bắc
mĩ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH mặc dù ra đời từ rất lâu như vậy
nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm khác nhau gây ra nhiều tranh cãi.
Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
4.1. Đối tượng của BHXH
BHXH là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất do giảm, mất
khả năng lao động, mất việc làm vì có các nguyên nhân như ốm đau tai nạn, tuổi già.
Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là phần thu nhập của NLĐ bị biến động hoặc
giảm, mất đi do gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ xảy ra.
Đối tượng của BHXH không chỉ là các khoản thu nhập theo lương mà bao gồm
các khoản thu nhập khác ngoài lương như: thưởng, phụ cấp… cho NLĐ có nhu cầu
đóng góp thêm để được hưởng mức trợ cấp BHXH.
4.2. Đối tượng tham gia BHXH
Đối tượng tham của BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Họ là những người trực tiếp
tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất định so với tiền lương
của NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Trang 14
của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào đó
trong xã hội.
Trong thời kì đầu khi triển khai BHXH ở hầu hết các nước chỉ áp dụng đối với
những người làm công ăn lương để đảm bảo mức đóng góp ổn định, đảm bảo an toàn
quỹ BHXH.
Hiện nay, khi nền kinh tế phát triển nhu cầu sử dụng NLĐ trong và ngoài doanh
nghiệp nhà nước tăng lên rất nhiều thì đối tượng tham gia BHXH và đối tượng của
BHXH cũng được mở rộng ra. Vì vậy đối tượng tham gia của BHXH bao gồm:
- Đối tượng bắt buộc tham gia BHXH: là NLĐ và NSDLĐ phải tham gia
BHXH một cách bắt buộc với mức đóng và mức hưởng BHXH theo quy định của luật
BHXH.
- Đối tượng tự nguyện tham gia BHXH: áp dụng cả với người làm công ăn
lương và NLĐ không làm công ăn lương. Thường là do sự đóng góp của NLĐ cùng
với sự giúp đỡ của ngân sách Nhà nước.
5. Các chế độ BHXH.
BHXH đã xuất hiện vào thế kỷ XIII ở Nam Âu. Tuy nhiên, lúc đầu BHXH chỉ
là mang tính sơ khai và tự phát được áp dụng trong phạm vi nhỏ.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai BHXH được nhiều nước biết đến trên thế
giới với những thay đổi, bổ sung phong phú và đa dạng hơn. BHXH là một trong
những chính sách xã hội cơ bản nhất đối với hầu hết các quôc gia trên thế giới. Theo
công ước 102 kí kết tại Giơnevơ tháng 6 năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc tế với
sự tham gia của rất nhiều quốc gia đã xác định rõ, BHXH bao gồm các chế độ sau:
1.
Chế độ chăm sóc y tế.
2.
Chế độ trợ cấp ốm đau.
3.
Chế độ trợ cấp thất nghiệp.
4.
Chế độ trợ cấp tại nạn lao động & bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN).
5.
Chế độ trợ cấp tuổi già.
6.
Chế độ trợ cấp gia đình.
7.
Chế độ trợ cấp sinh đẻ.
8.
Chế độ trợ cấp khi tàn phế.
9.
Chế độ trợ cấp cho người còn sống.
Trang 15
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện
kinh tế chính trị xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9 chế độ.
Trong đó có ít nhất một trong năm chế độ: 3, 4, 5, 8, 9. Tuy vậy, không phải Quốc gia
nào cũng thực hiện được cả 9 chế độ đã nêu trên.
Ở Việt nam, trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân pháp đã thực hiện BHXH cho
một số người làm việc trong bộ máy của chúng còn đối với công nhân Việt nam làm
việc cho Chính phủ pháp thì hầu như không được tham gia BHXH. Đến năm 1945,
nước Việt nam dân chủ cộng hoà được thành lập Chính phủ đã ban hành điều lệ, sắc
lệnh 54/SL ngày 14/6/1946 của Chính phủ ban hành về việc cấp hưu bổng cho công
chức. Sau khi miền Bắc hoà bình, thực hiện hiến pháp năm 1949 hội đồng Chính phủ
ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước
kèm theo Nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 quy định chế độ BHXH ở Việt
nam gồm 6 loại chế độ trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí, mất sức lao
động, chế độ tử tuất. Khi nền kinh tế phát triển và chuyển đổi theo cơ chế thị trường từ
năm 1986 đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, điều kiện kinh tế đã thay đổi thì
Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 thống nhất bỏ
chế độ trợ cấp mất sức lao động. Như vậy là hiện nay BHXH Việt nam thực hiện 5 chế
độ. Đến năm 2003, do BHYT Việt nam sát nhập với BHXH Việt nam do đó hiện nay ở
Việt nam thực hiện 6 chế độ BHXH. Các chế độ đó là: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN,
hưu trí, chế độ tử tuất, chế độ chăm sóc y tế.
6. Quỹ BHXH.
6.1. Khái niệm về quỹ BHXH
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà
nước. Quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH và chi
phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các nghành.
Có thể hiểu quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia
BHXH: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước bù thiếu nhằm mục đích chi trả cho các chế độ
BHXH và đảm bảo cho hoạt động của hệ thống BHXH.
Như vậy, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với ngân sách
Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Quỹ này được quản lý theo cơ chế cân
bằng thu chi do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở trạng thái tĩnh mà luôn có sự biến
Trang 16
động theo chiều hướng tăng lên hoặc thâm hụt. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động
đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự
trữ ít nhất, do rủi ro được dàn trải cho số đông người tham gia. Đồng thời quỹ này
cũng góp phần giảm chi ngân sách cho Nhà nước; khi có biến cố xã hội xảy ra như
thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, quỹ BHXH cũng là một khoản không nhỏ giúp Nhà nước
thay cho cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội,…
6.2. Nguồn hình thành quỹ
BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, mặc dù tính xã hội được thể hiện
nổi trội hơn. Theo các nhà kinh tế cho rằng, kinh tế là nền tảng của BHXH vì chỉ khi
NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào đó thì việc tham gia BHXH mới thiết thực
và có hiệu quả. Cũng theo các nhà kinh tế, BHXH chỉ có thể phát triển được theo đúng
nghĩa trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tức là người tham gia BHXH phải có trách
nhiệm đóng góp BHXH để bảo hiểm cho mình từ tiền lương/thu nhập cá nhân, người
sử dụng lao động cũng phải đóng góp BHXH cho người lao động mà mình thuê mướn
từ quỹ lương của doanh nghiệp/ đơn vị đồng thời Nhà nước cũng có phần trách nhiệm
bảo hộ quỹ BHXH như đóng góp thêm khi quỹ BHXH bị thâm hụt. Như vậy:
- Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
+ Người sử dụng lao động: sự đóng góp này không những thể hiện trách nhiệm
của NSDLĐ đối với NLĐ đồng thời còn thể hiện lợi ích của NSDLĐ bởi đóng góp
một phần BHXH cho NLĐ, NSDLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của mình đồng thời cũng giảm bớt
được những tranh chấp. Thông thường phần đóng góp này được xác định dựa trên quỹ
lương của đơn vị, doanh nghiệp.
+ Người lao động: hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới chủ yếu vẫn thực
hiện trên nguyên tắc có đóng có hưởng vì vậy người tham gia phải đóng góp cho quỹ
mới được hưởng BHXH. Người lao động tham gia đóng góp cho mình để bảo hiểm
cho chính bản thân mình. Thông qua hoạt động này người lao động đã dàn trải rủi ro
theo thời gian, khoản đóng góp vào quỹ BHXH chính là khoản để dành dụm, tiết kiệm
cho về sau bằng cách là hưởng lương hưu hoặc được hưởng trợ cấp khi gặp rủi ro xảy
ra. Khoản trợ cấp này được xác định một cách khoa học và có cơ sở theo nguyên nhân.
+ Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm: Quỹ BHXH được nhà nước bảo hộ và đóng
góp khi quỹ bị thâm hụt không đủ khả năng để chi trả cho các chế độ xã hội. Nhằm
Trang 17
mục đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra được đều đặn, ổn định. Nguồn thu
từ sự hỗ trợ Ngân sách Nhà nước đôi khi là khá lớn, sự hỗ trợ này là rất cần thiết và
quan trọng. Có thể nói hoạt động của chính sách BHXH mà không có sự hỗ trợ của
Nhà nước thì chẳng khác nào đứa trẻ mới tập đi.
+ Các nguồn khác: như sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước,
lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, khoản tiền thu nộp phạt từ các đơn vị chậm đóng
BHXH... Đây là phần thu nhập tăng thêm đô bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ
BHXH được cơ quan BHXH đưa vào hoạt động sinh lời. Việc đầu tư quỹ nhàn rỗi này
cũng cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản khi cần thiết, an toàn và mang tính xã
hội.
- Phương thức đóng góp.
Phương thức đóng góp BHXH của NLĐ và NSDLĐ hiện vẫn còn hai quan
điểm:
+ Căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
+ Căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của NLĐ được cân đối chung trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
- Mức đóng góp BHXH: ở một số nước quy định người sử dụng lao động phải
chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp
gia đình, các chế độ còn lại cả NGLĐ và NSDLĐ cùng đóng góp mỗi một phần bằng
nhau. Một số nước khác lại quy định quỹ BHXH do NLĐ và NSDLĐ đóng, Chính phủ
sẽ bù thiếu.
Ở Việt nam quy định NLĐ đóng 5% lương tháng cho BHXH, 1% lương tháng
cho BHYT; còn NSDLĐ đóng 15% quỹ lương tháng cho BHXH và 2% quỹ lương
tháng cho BHYT.
6.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH.
Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất của BHXH nhằm đảm bảo ổn định,
duy trì cuộc sống cho NLĐ đồng thời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các
doanh nghiệp
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử
dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản
Trang 18
thân và gia đình họ khi mà đối tượng tham gia gặp rủi ro và các chế độ được BHXH
trợ cấp là 9 chế độ BHXH đã nêu trong công ước 102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ.
Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên trên
phạm vi rộng, hầu hết các nước trên thế giới đều có những khoản chi thường xuyên là
chi lương hưu và trợ cấp tuất.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH: Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng
hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý
như: tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố định,
văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
II. CÔNG TÁC THU BHXH
1. Vai trò của công tác thu BHXH.
Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một công quỹ độc
lập với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho NLĐ. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành khâu quan trọng và quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH.
- Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành
BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất:
Thu đóng góp BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa
phương cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở quy định của
pháp luật về thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc
đóng góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh được tình trạng nợ đọng
BHXH từ các cơ quan đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công
bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa những
người tham gia BHXH nói riêng.
- Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai
trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách
BHXH: Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập
quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia BHXH
thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy công tác thu BHXH là một công việc đòi hỏi độ
chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm và có sự biến
động về mức đóng và số lượng người tham gia.
Trang 19
- Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một
mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia
BHXH biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên
phạm vi toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập trung
thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về
tài chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan
đơn vị cũng như của từng người lao động. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt động
liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa, số thu
BHXH một phần dựa trên số lượng người tham BHXH để tạo lập lên quỹ BHXH, cho
nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan trọng và rất cần
thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là khâu đầu tiên giúp cho chính sách
BHXH thực hiện được các chức năng cũng như bản chất của mình.
- Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công
tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Do BHXH cũng
như các loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng
BHXH đã đặt ra yêu cầu quy định đối với công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu
được BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho
NLĐ. Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình
thực hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH đóng một vai trò
quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cho cuộc sống của NLĐ cũng
như các đơn vị doanh nghiệp được hoạt động bình thường.
2. Quy trình thu BHXH
Đăng kí tham gia BHXH.
NSDLĐ, cơ quan, doanh nghiệp quản lý các đối tượng tham gia có trách nhiệm
đăng kí tham gia BHXH với cơ quan BHXH được phân công quản lý nhằm xác định
số lượng người tham gia BHXH để thông báo với cơ quan chức năng có thẩm quyền
về BHXH. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình thu và quản lý thu quỹ BHXH, tuỳ vào
mỗi nước mà có quy định khác nhau trong việc nộp hồ sơ đăng kí tham gia BHXH cho
người lao động nhưng nhìn chung hồ sơ đăng kí tham gia BHXH thường bao gồm:
-
Các quy định, công ước đăng kí tham gia BHXH.
-
Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH
-
Hồ sơ hợp lệ về đơn vị và NLĐ trong danh sách.
Trang 20
- Xem thêm -