Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn tốt nghiệp dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin – các giáo án ...

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin – các giáo án thực nghiệm dạy học toán 10

.PDF
98
154
126

Mô tả:

Trang 1 LỜI CẢM ƠN @—–? Lần đầu tiên nghiên cứu đề tài, em gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, sự động viên giúp đỡ của thầy cô, người thân, bạn bè đến nay đề tài đã được hoàn thành. Em xin chân thành cảm ơn: Quý thầy cô trong phòng giáo vụ, khoa sư phạm đã tạo điều kiện cho em tiếp cận thực tế giảng dạy. Quý thầy cô trong bộ môn Toán đã trang bị cho em những kiến thức căn bản, cần thiết để có thể hoàn thành tốt đề tài. Và đặc biệt là cô Lại Thị Cẩm, cô đã hướng dẫn nhiệt tình và tạo mọi điều kiện về tài liệu cũng như giúp em sửa chữa, giải đáp những thắc mắc, cô luôn động viên ủng hộ tinh thần để em vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành đề tài này. Quý thầy cô trường trung học phổ thông Nguyễn Thông – thị xã Vĩnh Long. Đặc biệt là cô Nguyễn Thị Hậu đã nhiệt tình đóng góp ý kiến thiết thực, giúp em có được một số kinh nghiệm giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực nghiệm giảng dạy tại trường. Các bạn lớp Toán Khóa 30 đã nhiệt tình góp ý, động viên, khuyến khích em trong quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng em xin chúc quý thầy cô, những người thân và bạn bè lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Trang 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài “Nâng cao chất lượng giáo dục là quốc sách hàng đầu của thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trước yêu cầu đặt ra, giáo viên - một trong những nhân tố quyết định trực tiếp thành bại của giáo dục, là lực lượng tiên phong trong lĩnh vực đổi mới giáo dục. Công nghệ thông tin đã tạo ra các biến đổi xã hội một cách sâu sắc, toàn diện và giáo dục cũng không nằm ngoài sự tác động của nó. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực và ứng dụng của những thành tựu công nghệ thông tin vào việc dạy học đang là yêu cầu bức thiết đặt ra ở tất cả các cấp học, môn học. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc dạy học hiện nay cũng thay đổi theo quan điểm lấy trò làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo, dẫn dắt hoạt động của học sinh. Qua nghiên cứu chương trình sách giáo khoa Toán trung học phổ thông, bản thân nhận thấy có nhiều nội dung khi dạy học rất cần sự hỗ trợ của công nghệ thông tin để tiết kiệm thời gian trên lớp, đảm bảo nội dung cần truyền đạt, làm đơn giản hoá các vấn đề mang tính trừu tượng cao, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học. Chính vì thế em chọn đề tài “Dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin – Các giáo án thực nghiệm dạy học Toán 10” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài nêu lên vai trò của việc sử dụng máy vi tính và ứng dụng phần mềm tin học để hỗ trợ việc dạy học, phân tích những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của việc sử dụng công nghệ thông tin vào việc dạy học so với các phương pháp dạy học truyền thống, nêu lên một số giải pháp. Đồng thời, cũng nghiên cứu một số vấn đề về soạn giáo án điện tử. Tìm hiểu một số phần mềm ứng dụng để thiết kế bài giảng điện tử theo hướng tích cực hoá, tăng khả năng tự học tốt của học sinh. Điều này sẽ giúp ích cho em rất nhiều trong công tác giảng dạy sau này. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Trang 3 Tìm hiểu việc vận dụng các phương pháp dạy học ở một số trường trung học phổ thông trong thị xã Vĩnh Long qua dự giờ, trao đổi với giáo viên phổ thông. Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc soạn, giảng một số tiết Toán lớp 10 (đại số và hình học). Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá và rút ra kinh nghiệm. 4. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh theo phương pháp dạy học tích cực. Các phần mềm chuyên dụng trong dạy học Toán phổ thông. 5. Phương pháp nghiên cứu Lý thuyết: Đọc các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực, tham khảo các bài giảng, giáo án theo phương pháp dạy học này. Thực hành trên máy tính: Nghiên cứu cách sử dụng và những ứng dụng cơ bản của phần mềm Powerpoint trong dạy học Toán phổ thông. Nghiên cứu thực tiễn: Quan sát việc sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên phổ thông, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. 6. Lịch sử vấn đề Trước đây, chị Phạm Thị Thu Vân, sinh viên lớp Toán Tin khóa 27 đã thực hiện đề tài “Phương pháp dạy học tích cực với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong giảng dạy Toán trung học phổ thông”, đề tài này nghiên cứu những nội dung sau: - Hướng dẫn sử dụng phần mềm Powerpoint, Maple để tạo một bài giảng. - Ứng dụng phần mềm Maple giải phương trình lượng giác và vẽ đồ thị hàm số. - Tìm hiểu thực tế về phương pháp dạy học tích cực và dạy học bằng giáo án điện tử. Ngoài ra, đề tài “Ứng dụng phần mềm Powerpoint và Flash vào thiết kế bài giảng môn Toán cho học sinh Tiểu học” là đề tài tốt nghiệp của chị Lã Thị Thanh Thủy, sinh viên Tiểu học khóa 29, nội dung nghiên cứu của đề tài là: - Sơ lược nội dung phần mềm Powerpoint, Flash. - Ứng dụng Tin học vào thiết kế giáo án phục vụ giảng dạy. - Tìm hiểu thực tế về việc dạy - học có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin bằng phiếu thăm dò ý kiến. Trang 4 Ở đây, em thực hiện đề tài “Dạy học với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin – Các giáo án thực nghiệm dạy học Toán 10”. Đề tài của em nghiên cứu những nội dung như sau: 7. Cấu trúc nội dung Nội dung gồm 4 phần: Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông và thiết kế bài giảng theo tinh thần đổi mới Chương 2: Các phương pháp dạy học được sử dụng Chương 3: Sử dụng phần mềm tin học vào giảng dạy Chương 4: Giáo án điện tử phục vụ giảng dạy Chương 5: Kết quả thực nghiệm sư phạm Chương 6: Các giáo án thực nghiệm và giáo án đề nghị Phần kết luận Tài liệu tham khảo. Trang 5 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VÀ THIẾT KẾ BÀI HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI 1.1 Quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn Toán hiện nay ở trường trung học phổ thông là tổ chức cho học sinh được học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông có thể hiểu một cách cụ thể gồm các nội dung cơ bản sau: Ø Đối với học sinh Đổi mới phương pháp dạy học là học tập một cách tích cực, chủ động, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, hình thành và ổn định phương pháp tự học. Ø Đối với giáo viên Thay đổi quan niệm dạy học là truyền thụ một chiều, hướng tới dạy người học phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Phong phú hơn nữa hình thức tổ chức dạy học. Nâng cao hơn việc sử dụng phương tiện dạy học, thành tựu của công nghệ thông tin, tăng cường tri thức Toán gắn với thực tiễn. Trang 6 Giáo viên tự lựa chọn phương pháp theo nội dung, sở trường, đối tượng học sinh, điều kiện trang thiết bị,… trong hoàn cảnh địa phương. 1.2 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông Theo nghĩa thông thường, đổi mới phương pháp dạy học là sự thay thế các phương pháp dạy học cũ bằng những phương pháp dạy học mới. Quan niệm như vậy dễ gây lúng túng trong nhận thức và trong quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay, nhất là khi chỉ nhìn nhận phương pháp dạy học trong phạm vi hẹp, một mặt, đó là mặt bên ngoài. Nhận thức đúng về đổi mới phương pháp dạy học là phải đặt phương pháp dạy học trong sự gắn bó chặt chẽ với nội dung và mục tiêu dạy học, đồng thời phân tích sự tác động ở cả hai mặt bên ngoài và bên trong của phương pháp dạy học. Với cách nhìn nhận như vậy, đổi mới phương pháp là thay đổi cách dạy và cách học từ những phương pháp đáp ứng yêu cầu mục tiêu giáo dục này, sang những phương pháp phục vụ cho mục tiêu đào tạo khác. Như vậy thuật ngữ đổi mới phương pháp dạy học được xác định là sự thay đổi từ các phương pháp dạy học tiêu cực (lối truyền thụ áp đặt một chiều của người dạy đến người học: người học tiếp thu một cách thụ động, theo các phương pháp tái hiện) đến các phương pháp tích cực, sáng tạo: người dạy tổ chức, định hướng nhận thức, phát huy vai trò chủ động, tích cực của học sinh để học sinh chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng. Đổi mới phương pháp dạy học là quá trình áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại, các công nghệ dạy học hiện đại vào nhà trường trên cơ sở phát huy những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống nhằm thay đổi cách thức, phương pháp học tập của học sinh, chuyển từ học tập thụ động, ghi nhớ kiến thức là chính sang học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Để đổi mới phương pháp học tập của học sinh tất nhiên phải đổi mới phương pháp giáo dục của giáo viên và đổi mới môi trường diễn ra các hoạt động giáo dục. Đổi mới phương pháp giáo dục là quá trình: - Chuyển từ giáo dục truyền thụ một chiều, học tập thụ động, chủ yếu là ghi nhớ kiến thức để đối phó với thi cử sang: học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, chú trọng Trang 7 hình thành năng lực tự học dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. “Những gì mà học sinh nghĩ được, nói được, làm được, giáo viên không làm thay, nói thay”. - Đổi mới các hình thức tổ chức giáo dục làm cho việc học tập của học sinh trở nên lí thú, gắn với thực tiễn, gắn với cuộc sống; kết hợp dạy học cá nhân với dạy học theo nhóm nhỏ, tăng cường sự tương tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa học sinh trong quá trình giáo dục. 1.3 Nội dung đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông Trong phương pháp dạy học tích cực, người ta không chỉ quan tâm đến vấn đề thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện các kiến thức theo sách giáo khoa, lặp lại đúng và thành thạo các kỹ năng đã được tiếp thu trong tiết học mà còn đặc biệt chú ý năng lực nhận thức, rèn luyện các kỹ năng và phẩm chất tư duy phù hợp với nội dung bài học (phân tích, tổng hợp, xác lập quan hệ giữa các sự kiện, nêu giả thiết,…) chú ý các kỹ năng học tập, phát triển năng lực tự học. Giáo viên phải luôn luôn có ý thức nêu rõ yêu cầu, mức độ hợp lí giữa kiến thức và kỹ năng, giữa phương pháp suy nghĩ, hành động và tự học. Với mỗi hoạt động giáo viên cần có một số câu hỏi then chốt, nhằm vào những mục đích nhận thức xác định, nhất là ở những phần trọng tâm, trên cơ sở đó khi lên lớp sẽ phát triển thêm những câu hỏi phụ, tùy theo diễn biến của tiết học. Tránh khuynh hướng hình thức (đặt câu hỏi ở chỗ dễ hỏi chứ không phải là ở chỗ cần hỏi), câu hỏi phải có yêu cầu cao về nhận thức. Nội dung kiểm tra, đánh giá phải toàn diện, bao gồm cả kiến thức, kỹ năng và phương pháp, không phải chỉ yêu cầu tái hiện kiến thức và kỹ năng. Trong phương pháp dạy học đổi mới để phát huy vai trò tích cực chủ động của học sinh, giáo viên cần hướng học sinh phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học của mình. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng các hình thức kiểm tra truyền thống, giáo viên cần tìm hiểu, áp dụng thử và phát triển các phương pháp trắc nghiệm khách quan (câu đúng – sai, câu nhiều lựa chọn, câu ghép đôi, câu điền câu trả lời ngắn,…), nhận rõ những ưu điểm, nhược điểm của phương pháp này, sử dụng phối hợp, hợp lí với các phương pháp kiểm tra truyền thống. Trang 8 Đồng thời, trong một tiết học phải biết phối hợp nhiều phương pháp dạy học, lấy ưu điểm của phương pháp này bổ sung, hoàn chỉnh nhược điểm của phương pháp kia, để tiết học đạt hiệu quả hơn. 1.4 Giải pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông Hình thành các tình huống có vấn đề hoặc vấn đề từ nội dung đang học và từ đó xây dựng kế hoạch hướng dẫn cho học sinh tự giải quyết vấn đề. Giúp học sinh sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu khác một cách có ý thức và chủ động theo hướng nghiên cứu để giải quyết vấn đề. Tăng cường các hoạt động tìm tòi, quan sát, đo đạc, thực hành, làm báo cáo, tự điều tra. Thay đổi các hình thức tổ chức học tập trong điều kiện cho phép (thảo luận nhóm, lớp học ngoài trời,…), tạo điều kiện và không khí thích hợp để học sinh có thể tranh luận với nhau, với giáo viên, cũng như tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau về kết quả tìm tòi, phát hiện. Xây dựng các hình thức phiếu học tập, báo cáo kết quả,…một cách thích hợp. Tận dụng tối đa phương tiện, thiết bị dạy học với tư cách là phương tiện nhận thức mà không đơn thuần chỉ là minh họa giản đơn. Tăng cường sử dụng phương pháp quy nạp trong quá trình đi đến các giả thiết có tính khái quát. 1.5 Thiết kế bài giảng theo tinh thần đổi mới Đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở trường trung học phổ thông, quá trình thiết kế bài học cũng thay đổi, bài giảng được thiết kế theo tinh thần đổi mới cần có những thay đổi quan trọng sau: Thay đổi cách xác định mục tiêu bài học theo hướng chỉ rõ mức độ học sinh phải đạt được sau khi học bài về: kiến thức, kỹ năng, tư duy, thái độ đủ để làm căn cứ đánh giá kết quả bài học. Chú ý tới việc xây dựng cho học sinh phương pháp học tập mà đặc biệt là phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Thay đổi cách soạn giáo án, chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của thầy sang thiết kế các hoạt động của trò, tăng cường tổ chức các công tác độc lập hoặc làm việc theo nhóm nhỏ sao cho “Học sinh suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, hợp tác với nhau nhiều hơn, trình bày ý kiến của mình (nói và viết ) nhiều hơn”. Trang 9 Nâng cao chất lượng các câu hỏi, giảm số lượng câu hỏi tái hiện kiến thức, tăng tỉ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy, bám theo các hoạt động dự kiến nhằm làm cho học sinh tích cực, độc lập và sáng tạo trong học tập. Chú trọng nhận xét sửa chữa các câu trả lời của học sinh. Các câu hỏi nên khó một chút so với trình độ hiện tại của học sinh, nhằm kích thích học sinh suy nghĩ, tìm tòi. Liên tục rèn luyện như vậy nhằm đạt tới mục đích là học sinh biết đặt ra và giải quyết các vấn đề liên quan đến những khía cạnh khác nhau của tri thức, biết bổ sung, mở rộng và tìm thêm các hiểu biết mới. Trang 10 Chương 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ĐƯỢC SỬ DỤNG Dạy học là một nghệ thuật, và người giáo viên đứng trên bục giảng cũng giống như một nghệ sĩ đang đứng trên sân khấu. Họ phải tìm cách lôi cuốn, thu hút khán giả để không bị nhàm chán và trở nên tẻ nhạt. Người giáo viên cũng vậy, khi đứng trên bục giảng, phải tìm cách thu hút học sinh, giúp các em có hứng thú trong học tập, hăng say phát biểu ý kiến. Để thực hiện tốt điều này, người giáo viên phải lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp, biết sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học, vì nếu trong một tiết dạy mà chỉ sử dụng một phương pháp dạy học như diễn giảng chẳng hạn thì dễ gây nhàm chán đối với học sinh, còn nếu chỉ sử dụng đàm thoại gợi mở thì có thể không kịp thời gian, không đảm bảo được nội dung. Đặc biệt quan tâm đến các phương pháp dạy học tích cực. Tùy theo trình độ học sinh mà có tốc độ tiến hành dạy học phù hợp hay sử dụng các phương pháp dạy học có khác nhau đối với từng lớp học cụ thể. Sau đây là một số phương pháp dạy học thường được sử dụng : 2.1 Phương pháp diễn giảng Phương pháp này được sử dụng dưới hình thức giảng giải và kể chuyện. Hình thức diễn giảng thường được sử dụng khi trình bày những vấn đề mới, phức tạp hoặc vấn đề đòi hỏi học sinh lĩnh hội một cách trọn vẹn và có hệ thống. Với phương pháp này trong thời gian ngắn giáo viên có thể trình bày được những tài liệu Toán học cơ bản theo yêu cầu của chương trình, chủ động được nhiều thời gian và kế hoạch toàn lớp; bên cạnh đó học sinh cũng học được cách diễn đạt ý tưởng thông qua cách trình bày của giáo viên. Tuy nhiên, phương pháp này dễ làm cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, vì chỉ dùng lời nói nên đơn điệu, dễ gây mệt mỏi cho người học, không có điều kiện kiểm tra khả năng thu nhận kiến thức của học sinh trong giờ học. Do đó, khi dạy học không nên sử dụng nhiều phương pháp này, mà phải biết kết hợp, đan xen với các phương pháp dạy học khác ngay trong một tiết dạy, chẳng hạn như kết hợp dạy học nêu vấn đề hay đặt câu hỏi phát vấn học sinh. Trang 11 2.2 Phương pháp đàm thoại gợi mở Trong tình hình hiện nay, với các lớp trình độ học sinh đa số trung bình và yếu, phương pháp gợi mở vấn đáp thường được sử dụng, phương pháp này chú ý đến vai trò chủ động của học sinh, có tác dụng phát huy tính tích cực của học sinh và các em cảm thấy vừa sức không quá tải. Đồng thời, nó làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, nâng cao được hứng thú học tập, lòng tự tin của học sinh, rèn luyện cho các em năng lực tư duy, năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngôn ngữ. Đây là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để các em tự tìm ra những kiến thức giáo viên cần truyền đạt. Giáo viên vấn đáp học sinh bằng những câu hỏi thích hợp để tiến hành gợi mở. Sự thành công của phương pháp này là xây dựng được hệ thống câu hỏi gợi mở thích hợp kích thích các đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu. Tuy nhiên, nếu sử dụng câu hỏi không khéo dễ trở thành cuộc vấn đáp tay đôi, sử dụng phương pháp này tốn nhiều thời gian,…. Do đó, khi dạy học giáo viên cần sử dụng khéo léo phương pháp dạy học này, đồng thời cần kết hợp với các phương pháp dạy học khác để tiết học đạt hiệu quả hơn. Khi sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở, giáo viên cần lưu ý những điều sau: Hệ thống câu hỏi vừa sức (đảm bảo cho ba đối tượng: Giỏi – khá, trung bình, yếu), câu hỏi không khó quá cũng không nên dễ quá. Tránh những câu hỏi mà học sinh chỉ trả lời đúng, sai hoặc có, không. Hệ thống câu hỏi nêu bật được kiến thức cần truyền đạt cho học sinh. Câu hỏi đặt ra phải rõ ràng, chính xác. Giáo viên nêu câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ, rồi chỉ định một học sinh trả lời và yêu cầu cả lớp theo dõi câu trả lời của bạn, từ đó nhận xét, bổ sung câu trả lời, nhằm chủ động được thời gian của tiết học. 2.3 Dạy học nêu vấn đề Dạy học nêu vấn đề kế thừa và nâng lên các ưu thế của phương pháp dạy học gợi mở vấn đáp. Tuy nhiên gợi mở trong dạy học nêu vấn đề được vận dụng rộng hơn, toàn diện hơn bằng nhiều hình thức phong phú hơn. Hơn nữa, đặc điểm quan trọng nhất của dạy học nêu vấn đề là tạo ra tình huống có vấn đề, việc này có thể tiến hành bằng cách đặt câu hỏi hoặc bằng nhiều hình thức khác. Vai trò của giáo viên là tạo ra Trang 12 những tình huống có vấn đề, làm xuất hiện những mâu thuẫn, rồi dẫn dắt học sinh giải quyết mâu thuẫn một cách chủ động, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, tạo điều kiện cho học sinh tìm tòi và sáng tạo. Đây là con đường tích cực trong nhận thức và học tập, nó biến quá trình nhận thức những chân lý đã có sẵn thành quá trình tìm kiếm, phát hiện những cái mới. Trong quá trình đó đòi hỏi học sinh phải tư duy tích cực sáng tạo, học sinh được đặt vào vị trí của “Người phát minh” chứ không phải người tiếp thu thụ động những tri thức có sẵn. Học sinh hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động tri thức và khả năng của mình để phát hiện và giải quyết vấn đề chứ không phải nghe thầy giảng một cách thụ động. Khi cần thiết hướng dẫn sự suy nghĩ của các em để tránh cho các em sự tìm tòi không có ý nghĩa, không có kết quả, phí phạm thời gian một cách vô ích. Dạy học nêu vấn đề có thể vận dụng trong cả ba giai đoạn của quá trình dạy học: hình thành kiến thức mới; củng cố, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức đã học; vận dụng kiến thức đã học. Phương pháp này không chỉ làm cho học sinh lĩnh hội tri thức qua quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, mà nó còn làm cho họ phát triển khả năng tiến hành những quá trình như vậy. Nói cách khác học sinh được học bản thân việc học. Những điều cần lưu ý khi tiến hành giảng dạy theo phương pháp dạy học nêu vấn đề: Vấn đề đặt ra phải vừa sức học sinh, không đưa ra những vấn đề xa lạ tách rời bài học, vấn đề đặt ra phải tạo tính hứng thú cho học sinh. Sau khi đặt vấn đề, giáo viên cần đưa ra những gợi ý, những hướng dẫn giúp học sinh giải quyết được vấn đề đặt ra. Có thể đặt ra những câu hỏi giúp học sinh phát hiện vấn đề. Những yêu cầu, những câu hỏi đặt ra trong tiết học phải phù hợp, không quá dễ hoặc quá khó làm cho học sinh không thể giải quyết được, gây chán nản. Cần phải chú ý đến khả năng tiếp thu bài của từng nhóm học sinh, từng lớp để đặt ra những yêu cầu, hay hướng giải quyết vấn đề thích hợp. Giáo viên nên tìm thêm những tư liệu mới, lạ có liên quan để đưa vào bài giảng, chú ý những ứng dụng thực tế. 2.4 Phương pháp dạy học khám phá Học tập là quá trình lĩnh hội những tri thức mà loài người đã tích lũy được. Trong học tập học sinh cũng phải được khám phá ra những hiểu biết mới đối với bản thân mình. Những kiến thức do học sinh tự khám phá ra, các em sẽ thông hiểu, ghi nhớ Trang 13 lâu hơn, vận dụng linh hoạt những gì nắm được qua hoạt động chủ động, tự lực khám phá của chính mình. Tới một trình độ nhất định thì sự học tập tích cực, sự khám phá sẽ mang tính nghiên cứu khoa học và người học cũng tạo ra những tri thức mới cho khoa học. Khác với nghiên cứu khoa học và khám phá trong nghiên cứu khoa học, khám phá trong học tập không phải là một quá trình tự phát mà là một quá trình có hướng dẫn của giáo viên, trong đó giáo viên khéo léo đặt học sinh vào địa vị người phát hiện lại, người khám phá lại những tri thức nhân loại. Giáo viên không cung cấp những kiến thức bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải mà bằng cách tổ chức các hoạt động để học sinh tự lực khám phá tri thức mới. Phương pháp dạy học khám phá nếu được sử dụng hợp lý sẽ đạt được những thuận lợi sau: Phương pháp dạy học này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển tư duy của học sinh. Vì trong quá trình khám phá đòi hỏi học sinh phải đánh giá, phải có sự suy xét, phân tích, tổng hợp, học sinh hoạt động trí óc thường xuyên do đó giúp phát triển trí óc được tốt hơn. Phương pháp này phát triển động lực bên trong hơn là tác động bên ngoài, vì khi đạt được một kết quả nào đó trong quá trình học tập, học sinh sẽ cảm thấy thoả mãn với những gì mình đã làm và sẽ có ham muốn hướng tới những công việc khó hơn, đó chính là động lực bên trong. Học sinh học được cách khám phá, vì theo Bruner cách duy nhất mà người học học được các kỹ thuật khám phá đó là họ phải có cơ hội để khám phá. Thông qua khám phá học sinh dần dần học được cách tổ chức và thực hiện các nghiên cứu của mình. Phương pháp này có tác dụng phát triển trí nhớ của người học, bởi trong quá trình khám phá người học phải tự tìm hiểu, tức là phải tự huy động kinh nghiệm bản thân và vốn kiến thức đã có để nắm bắt vấn đề đang học. Kết quả là các em sẽ hiểu được vấn đề, hiểu được mối liên quan giữa vấn đề mới và kiến thức có trước. Do đó, sẽ nhớ bài lâu hơn, thậm chí có thể tái hiện lại kiến thức khi có những thông tin liên quan. Ngoài các ưu điểm trên, phương pháp này còn thể hiện các điểm mạnh sau: Trang 14 Là phương pháp hướng vào các hoạt động của người học; học sinh được khuyến khích coi việc học là công việc của bản thân hơn là công việc của giáo viên, nhờ đó nhu cầu học hỏi của học sinh được tăng lên. Là phương pháp dạy học hỗ trợ việc phát triển năng lực nhận thức riêng cũng như tài năng của học sinh. Phương pháp này cho phép học sinh có thời gian tiếp thu, cập nhật thông tin và đánh giá được năng lực thực sự của bản thân trong quá trình học tập và nghiên cứu. Thông qua việc học bằng phương pháp này, các vấn đề nhỏ vừa sức học sinh được tổ chức thường xuyên trong quá trình học tập, là phương thức để học sinh tiếp cận với kiểu dạy học hình thành giả thiết của các vấn đề có nội dung khái quát hóa rộng lớn. Việc đối thoại giữa thầy và trò, trò và trò đã tạo bầu không khí học tập sôi nổi tích cực và hình thành mối quan hệ giao tiếp trong xã hội. Giải quyết thành công các vấn đề học tập là động cơ trí tuệ kích thích trực tiếp lòng ham mê học tập của học sinh. Đó là động lực của quá trình dạy học, phát huy được nội lực của học sinh tư duy tích cực độc lập sáng tạo trong quá trình dạy học. Tuy có nhiều ưu điểm nhưng phương pháp này cũng có những hạn chế sau: Sử dụng phương pháp này tốn nhiều thời gian do đó không phải mọi chủ đề đều có thể áp dụng được. Phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và năng lực của giáo viên và học sinh. Vì vậy nếu giáo viên không nắm vững năng lực của học sinh và thiếu công phu trong khâu chuẩn bị thì việc dạy học khám phá sẽ kém hiệu quả. Tóm lại, có nhiều phương pháp dạy học, phương pháp nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, không có phương pháp nào là hoàn hảo tuyệt đối cũng như không có phương pháp nào là hoàn toàn dở. Vấn đề là phải biết kết hợp các phương pháp, lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nội dung cụ thể, phù hợp với năng lực và đặc điểm của học sinh để đạt được hiệu quả cao nhất. Trang 15 Chương 3: SỬ DỤNG PHẦN MỀM TIN HỌC VÀO GIẢNG DẠY 3.1 Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông như công cụ dạy học Sự ra đời của máy tính điện tử đã mở ra kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên con người sáng tạo ra những công cụ tự động thay thế cho những hoạt động trí óc của bản thân mình. Đó là một bước ngoặc trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Máy tính điện tử là công cụ của ngành khoa học mới: Tin học, mà đối tượng của nó là những thông tin và những quá trình xử lý thông tin tự động. Ngày nay, sự phát triển có tính chất bùng nổ của tin học làm cho việc đưa giáo dục tin học vào nhà trường phổ thông trở thành trào lưu mạnh mẽ trên một quy mô quốc tế mà trong đó người ta phân biệt hai hướng: - Một mặt người ta giảng dạy một số yếu tố cơ bản của tin học như nội dung của giáo dục phổ thông. - Mặt khác, với tư cách là một tiến bộ khoa học kĩ thuật mũi nhọn của thời đại, máy tính điện tử cũng có thể được sử dụng trong quá trình dạy học để cải tiến phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Chiếc máy vi tính đầu tiên ra đời vào khoảng giữa thập niên 40 của thế kỷ XX. Đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX thì đã bắt đầu trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam và cho đến nay – những năm đầu của thế kỷ XXI – máy tính điện tử nhanh chóng thâm nhập vào hầu hết mọi lĩnh vực của sản xuất, kinh tế và đời sống xã hội, tạo nên sự bùng nổ tin học trong xã hội loài người. Chức năng của máy tính điện tử rất đa dạng: Quản lý, học tập, dạy học, thiết kế, giải trí,…, các chương trình ứng dụng trên máy vi tính liên tục đổi mới, vì thế máy vi tính càng ngày càng được nâng cấp chức năng sử dụng. Máy tính điện tử được đưa vào nhà trường như một công cụ dạy học bởi vì nó tỏa ra có hiệu lực mạnh góp phần đổi Trang 16 mới phương pháp dạy học. Chính vì những ưu điểm trên, ngày nay máy tính đã được sử dụng khá phổ biến ở các trường học. Nếu có môi trường thích hợp và sử dụng tốt máy tính thì việc dạy và học sẽ đạt hiệu quả cao. Nó yêu cầu học sinh luôn vận động, học sinh có nhiều nguồn cung cấp thông tin hỗ trợ cho bài học, học sinh không còn phụ thuộc nghe – nhìn mà trực tiếp tham gia vào quá trình tìm hiểu bài học. Thế nhưng không phải trường học nào cũng có khả năng trang bị phòng máy tính hoặc phòng học chuyên môn có máy tính và thiết bị kỹ thuật hỗ trợ. Hiên nay, cơ sở vật chất còn thiếu chưa trang bị được cho tất cả các trường, do đó chưa thể sử dụng máy tính điện tử một cách tràn lan trong nhà trường. Nhưng nếu đã có thể trang bị máy vi tính để dạy tin học cho học sinh thì cũng có thể thí điểm sử dụng những máy đó làm công cụ dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, cần tránh sự lạm dụng máy tính điện tử. Trường hợp dạy học sử dụng máy tính điện tử không hơn gì chiếc bảng đen hoặc trang sách giáo khoa thì không dùng máy tính điện tử. 3.2 Công nghệ thông tin góp phần đổi mới phương pháp dạy học 3.2.1 Đổi mới phương pháp dạy học theo quan niệm công nghệ thông tin và truyền thông Thế giới bước vào kỷ nguyên mới nhờ tiến bộ nhanh chóng của việc sử dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực. Trong giáo dục - đào tạo, công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa phương tiện, thiết bị dạy học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học. 3.2.1.1 Dạy và học theo quan điểm công nghệ thông tin Theo quan điểm thông tin, học là một quá trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông tin; dạy là phát thông tin và giúp người học thực hiện quá trình trên một cách có hiệu quả. Thông tin được hiểu càng có giá trị nếu có gây ra được sự bất ngờ càng lớn. Trong khoa học người ta đã lượng hóa thông tin theo quan điểm này. Người học như một máy thu có nhiều cửa vào, phải biết tiếp nhận thông tin qua nhiều cửa, phải biết tách thông tin hữu ích ra khỏi nhiễu, phải biết biến đổi, lưu trữ, ghi nhớ thông tin trong nhiều bộ nhớ khác nhau, mỗi cửa vào này tiếp nhận một loại thông tin được mã hóa riêng biệt. Ta cần tận dụng tất cả các phương tiện để đưa thông tin vào các cửa này, Trang 17 cần sử dụng các trang thiết bị hiện đại nhằm chuyển đổi, mã hóa, chế biến thông tin để việc truyền tin đạt hiệu quả nhất. Nếu nội dung bài học chỉ được truyền tới người học dưới dạng văn bản thì người học có thể sẽ kém hứng thú. Nếu chỉ truyền tin theo một chiều, không có sự hỏi đáp thì thông tin thu được của người học có thể phiến diện, không đầy đủ hoặc bị biến dạng, có khi dẫn đến hiểu sai nội dung. Theo quan điểm công nghệ thông tin, để đổi mới phương pháp dạy học, người ta tìm những “Phương pháp làm tăng giá trị lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn”. Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật, quá trình dạy học đã sử dụng phương tiện dạy học sau đây: - Phim chiếu để giảng bài với đèn chiếu overhead. - Phần mềm hỗ trợ giảng dạy, minh họa trên lớp với projector. - Phần mềm dạy học giúp học sinh học trên lớp và ở nhà. - Công nghệ kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm trên máy tính. 3.2.1.2 Công nghệ thông tin với vai trò phương tiện, thiết bị dạy học Công nghệ thông tin với vai trò phương tiện, thiết bị dạy học cần đảm bảo các yêu cầu: - Sử dụng công nghệ thông tin như công cụ dạy học cần được đặt trong toàn bộ hệ thống các phương pháp dạy học nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống đó. Mỗi phương pháp dạy học đều có những chỗ mạnh và chỗ yếu, ta cần phát huy chỗ mạnh hạn chế chỗ yếu của mỗi phương pháp. - Phát huy vai trò của người thầy trong quá trình sử dụng công nghệ thông tin như thiết bị dạy học. Không thủ tiêu vai trò của người thầy mà trái lại còn phát huy hiệu quả hoạt động của thầy giáo trong quá trình dạy học có sử dụng công nghệ thông tin. Ta chủ trương sử dụng công nghệ thông tin như thiết bị dạy học của người thầy giáo, công cụ này dù hiệu lực đến mấy cũng không được thủ tiêu vai trò người thầy. Ta vẫn cần tìm cách phát huy tác dụng của giáo viên nhưng theo những hướng không hoàn toàn giống như dạy học thông thường. Giáo viên cần lập kế hoạch cho những hoạt động của mình trước, trong và sau khi học sinh học tập trên máy tính. - Sử dụng công nghệ thông tin như thiết bị dạy học, không phải chỉ nhằm thí điểm dạy học với công nghệ thông tin mà còn góp phần dạy học về công nghệ thông Trang 18 tin. Hiệu quả của việc sử dụng máy vi tính ngay trong quá trình dạy học có tác dụng gây động cơ học tập những nội dung tin học. Vả lại chính bản thân những ứng dụng của tin học và công cụ của tin học cũng là một trong những nội dung tin học cần truyền thụ. Để phát huy tác dụng tích cực của việc sử dụng công nghệ thông tin như là một ứng dụng tin học ở những lúc thích hợp, giáo viên có thể bình luận về hiệu quả của máy vi tính, về vai trò của con người thể hiện trong việc lập trình. - Sử dụng công nghệ thông tin như một thiết bị dạy học không phải chỉ để thực hiện dạy học với trang thiết bị của công nghệ thông tin mà còn góp phần thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học ngay cả trong điều kiện không có máy. Cách làm này vừa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta hiện nay, vừa đón trước được xu thế phát triển của khoa học thế giới. Kết quả mong đợi không phải chỉ ở một số chương trình dạy học bằng máy tính mà còn ở sự phát triển của khoa học giáo dục nói chung và điều đó sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc cải tiến phương pháp dạy học kể cả trong điều kiện không có máy. 3.2.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin ở trường trung học Hiện tại nhiều trường trung học đã được trang bị máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn, các phương tiện truyền thông khác, khá nhiều trường đã được kết nối Internet. Giáo viên đã được tập huấn về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Học sinh thường xuyên tiếp xúc với công nghệ thông tin. Để nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong trường trung học, cần thực hiện một số nội dung sau: - Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí giáo dục và dạy học. - Sử dụng các nguồn kinh phí để đầu tư trang thiết bị về công nghệ thông tin cho các trường trung học. - Bồi dưỡng giáo viên các bộ môn về công nghệ thông tin để họ có thể tổ chức tốt ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. - Tổ chức trình diễn các tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin trong trường trung học nhằm mục đích tuyên truyền, động viên các cá nhân, đơn vị tổ chức tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin. - Xây dựng một số dịch vụ giáo dục và đào tạo ứng dụng trên mạng Internet. Trang 19 - Tuyển chọn, xây dựng và hướng dẫn sử dụng các phần mềm quản lí giáo dục và dạy học. - Nâng cao hiệu quả của việc kết nối Internet. - Nghiên cứu để đưa các phần mềm dạy học tốt vào danh mục thiết bị dạy học tối thiểu. - Tổ chức trao đổi kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ thông tin giữa các trường trung học trong nước và quốc tế. 3.3 Sử dụng phần mềm Powerpoint trong dạy học Toán Hiện nay phần mềm Powerpoint được dùng khá phổ biến trong các cuộc báo cáo chuyên đề, trong các buổi hội họp, các hội thảo chuyên môn, các lớp huấn luyện của các đơn vị kinh tế,…. Điều này cho thấy tính ưu việt của máy tính với phần mềm Powerpoint cho một bài báo cáo hoặc bài giảng. Tuy nhiên tính ưu việt đó phụ thuộc nhiều vào người báo cáo và đặc biệt là phụ thuộc vào việc chuẩn bị các trang trình chiếu. Đối với nghề dạy học, tiêu chí của bài học không giống bài thuyết trình hay báo cáo. Hơn nữa đối tượng của nghề dạy học không giống như đối tượng của các hội nghị, hội thảo. Cho nên việc chuẩn bị một bài giảng bằng Powerpoint không chỉ đảm bảo tính sư phạm, tính sư phạm ở đây là sự phù hợp tâm sinh lý của học sinh và phải đảm bảo các nguyên tắc và phương pháp dạy học. Vì vậy muốn sử dụng Powerpoint để dạy học có hiệu quả thì giáo viên không những phải có kiến thức tối thiểu về phần mềm Powerpoint mà cần phải có ý thức sư phạm, kiến thức về lí luận dạy học và các phương pháp dạy học tích cực, kế đó là sự linh hoạt sáng tạo trong thiết kế các trang trình chiếu sao cho hấp dẫn học sinh một cách có ý nghĩa. Do đó trong việc soạn Powerpoint ta cần chú ý một số vấn đề sau đây: Dành một trang để nêu tên bài học. Sử dụng cỡ chữ, kiểu chữ, màu chữ thống nhất theo từng loại đề mục của bài học. Cỡ chữ ghi nội dung cụ thể nhỏ hơn các đề mục. Sự thống nhất này nên giữ từ đầu đến cuối bài giảng, cho dù nội dung chuyển sang trang mới. Mỗi trang cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc quay về các trang trước (sử dụng hyperlink) để nội dung bài giảng được liên tục. Các trang trình chiếu phải đầy đủ nội dung của bài học. Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan