Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành...

Tài liệu Luận văn tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
84
92
71

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VIỆT ANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VIỆT ANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHẠM VIỆT ANH MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ ................................. 8 1.1. Khái quát về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộError! Bookmark n 1.2. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ............................................................................. 9 1.3. Trách nhiệm hình sự và áp dụng pháp luật đối với tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................................. 25 1.4. Lịch sử lập pháp và kinh nghiệm lập pháp của một số nước về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ........................................ 32 Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI PHẠM NÀY ............................................................. 46 2.1. Tổng quan kết quả xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội....................................................... 46 2.2. Áp dụng pháp luật và những hạn chế, sai lầm trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội ................................................................. 49 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ59 2.4. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật đối với tội phạm này .......... 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76 BẢNG TỪ VIẾT TẮT ATGT An toàn giao thông ATGTĐB An toàn giao thông đường bộ BLHS Bộ luật Hình sự CTTP Cấu thành tội phạm GTĐB Giao thông đường bộ HĐXX Hội đồng xét xử HSST Hình sự sơ thẩm HTND Hội thẩm nhân dân HVPT Hành vi phạm tội PLHS Pháp luật hình sự TAND Tòa án nhân dân THTT Tiến hành tố tụng TNGT Tai nạn giao thông TNHS Trách nhiệm hình sự VAHS Vụ án hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang có chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực; kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát; an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự xã hội bảo đảm ổn định; công tác cải cách tư pháp, đấu tranh phòng, chống tội phạm được tăng cường; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, khi kinh tế phát triển, đời sống người dân được nâng cao thì luôn kèm theo đó là những vấn đề tiêu cực của xã hội, trong đó tình trạng ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông (TNGT) đang ngày càng trở nên nghiêm trọng và là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Giao thông ở Việt Nam hiện nay được coi là lĩnh vực tồi tệ nhất bởi những TNGT khủng khiếp thường xuyên xảy ra. Hàng ngày, tin tức về những vụ TNGT nghiêm trọng luôn xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, và luôn đi kèm với đó là sự thiệt hại về người và tài sản do TNGT gây ra. Thành phố Hà Nội là trung tâm văn hóa, chính trị cả nước, dân số đông, phương tiện giao thông đường bộ ngày càng gia tăng, trong khi đó diện tích dành cho giao thông chỉ chiếm 4%, ở các nước phát triển diện tích dành cho giao thông bằng 20%. Nguyên nhân của tình trạng này phổ biến nhất là do ý thức của người tham gia giao thông. Trước hết là họ không tuân thủ đúng luật giao thông, hệ thống đèn báo hiệu, đèn giao thông cũng như hiệu lệnh của cảnh sát giao thông trên đường, vượt đèn đỏ, đi sai làn đường, đi ngược chiều,... Nguy hiểm hơn là tình trạng nhiều người chưa đủ tuổi, không có bằng lái xe nhưng lại điều khiển phương tiện giao thông, lạng lách đánh võng trên đường, không những cản trở giao thông mà đã có nhiều vụ TNGT do việc này mà ra, gây hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Từ đó, tội phạm trong lĩnh vực An toàn giao thông (ATGT), đặc biệt là 1 giao thông đường bộ (GTĐB) đã không ngừng gia tăng trong những năm gần đây; tình hình tội phạm này đang diễn biến cực kỳ phức tạp và ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn trước. Nhận thức được sự nguy hiểm nghiêm trọng của các tội phạm xâm phạm An toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB), Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xử lý nghiêm loại tội phạm này, thể hiện nổi bật nhất là việc nghiên cứu, xây dựng một điều luật mới dựa trên những kinh nghiệm áp dụng Điều 202 BLHS năm 1999 trên thực tế. Việc xây dựng Điều 260 trong BLHS năm 2015 trên tinh thần khắc phục những bất cập, hạn chế của Điều luật cũ đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xử lý loại tội phạm này, đồng thời góp phần vào công cuộc phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh vực ATGTĐB nói riêng, tăng cường đảm bảo về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tham gia GTĐB. BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 nên chắc chắn sẽ có những khó khăn, vướng mắc trong giai đoạn mới áp dụng. Chính vì vậy, với mục đích phân tích, giải thích để làm sáng tỏ quy định của pháp luật trong thực tiễn, góp phần nâng cao tính chính xác của việc áp dụng Điều luật này trong quá trình giải quyết các vụ án về giao thông, tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trên; cụ thể như sau: * Về luận văn tiến sĩ - "Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải đường bộ tại Hà Nội", tác giả Bùi Kiến Quốc, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001. * Về luận văn thạc sĩ và luận văn tốt nghiệp 2 - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Bộ luật Hình sự 1999, một số biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm này trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sĩ, tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2003; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong luật Hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ, tác giả Ngọ Duy Thi, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn tốt nghiệp, tác giả Trịnh Quang Hưng, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Bộ luật Hình sự năm 1999 những vấn đề lý luận và thực tiễn”, luận văn tốt nghiệp, tác giả Bùi Thị Thủy Tiên, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2013. * Về bài viết trên tạp chí - “Một số vướng mắc khi áp dụng Mục 4 phần 1 Nghị định 03 ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 202 BLHS”, tác giả Hoàng Minh Hùng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13, năm 2004, Tr. 41-43; - “Nguyễn tắc lỗi trong các vụ án Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tác giả Lê Văn Luật, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6, 2005, Tr. 14-16; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tác giả Mai Bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7, 2006, Tr. 28-31; - “Về việc áp dụng tình tiết tăng nặng không có giấy phép hoặc bằng lái theo quy định tại Điều 202 BLHS”, tác giả Lâm Tuấn Thanh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23, năm 2006, Tr. 17; 3 - “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tác giả Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 09, năm 2007, Tr. 35-37; - “Không thể tách hậu quả trong vụ án giao thông do lỗi của nhiều người cùng gây ra để định tội hoặc định khung hình phạt”, Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân số 13, năm 2007, Tr. 35-37; - “Một số vấn đề sửa đổi, bổ sung Điều 202 Bộ luật Hình sự”, tác giả Nguyễn Văn Thượng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 21, 2007, Tr. 2-5; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, phi tội phạm hóa hay chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, tác giả Bùi Đức Hiển, Tạp chí Tòa án nhân dân số 9, năm 2009, Tr. 5-9; - “Việc xác định lỗi trong một số vụ án giao thông”, tác giả Lê Hồng Khanh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 15, 2009, Tr. 27-30; - “Nguyễn Văn A có phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ?”, tác giả Trần Ngọc Chung, Tạp chí Tòa án nhân dân số 15, năm 2009, Tr. 35-36; - “Nguyễn Văn A không phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tác giả Lê Quang Minh, Tạp chí Tòa án nhân dân số 19, năm 2009, Tr. 32; - “Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự An toàn giao thông đường bộ”, tác giả Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án nhân dân số 22, 2009, Tr. 22-28; - “Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (quy định tại Điều 202 BLHS)”, tác giả Phạm Văn Beo, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23, 2009, Tr. 14-16; - “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo Điều 202 Bộ luật Hình sự”, tác giả Vũ Tuấn Dũng, Tạp chí Tòa án nhân dân số 20, năm 2010, Tr. 27-28; 4 - “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định Điều 202 BLHS hiện hành về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tác giả Cao Việt Cường, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 04, năm 2014, Tr. 59-62,68; - “Truy tố và xét xử Trần Tuấn A. theo khoản nào của Điều 202 BLHS mới đúng”, tác giả Lê Văn Sua, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6, năm 2014, Tr 30-33. Các công trình nghiên cứu này rất đa dạng, nhưng mới chỉ dừng lại phân tích tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB theo Điều 202 BLHS năm 1999, tuy có phân biệt với các tội phạm về ATGTĐB khác nhưng do pháp luật đã có sự sửa đổi, bổ sung rất nhiều nên những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ không thể dùng để làm rõ về quy định của Điều 260 BLHS năm 2015. Số liệu được phân tích trong các công trình này cũng đã lâu, tuy nhiên tác giả vận dụng để làm cơ sở so sánh giữa các điều luật của hai Bộ luật, từ đó mà đánh giá toàn diện hơn về những tiến bộ cũng như những điểm hạn chế của quy định tại BLHS năm 2015. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); so sánh với các tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy định trong BLHS năm 1999; phân tích, đánh giá việc áp dụng quy định pháp luật về tội này trong thực tiễn tại thành phố Hà Nội qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được đặt ra như sau: 5 - Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. - Phân tích các quy định và việc áp dụng pháp luật hình sự của Việt Nam; lập pháp của một số nước về tội phạm này. - Tổng quan tình hình xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội; đánh giá những hạn chế trong việc định tội danh và quyết định hình phạt về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn thành phố Hà Nội và nguyên nhân của chúng. - Trên cơ sở nghiên cứu đó đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự. Do BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực thi hành, do đó, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội danh nói trên. Bên cạnh đó, tác giả cũng liên hệ, so sánh với BLHS năm 1999, phân tích những bất cập của BLHS năm 1999, đánh giá những điểm mới có liên quan đến tội danh nói trên trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019 - Địa bàn nghiên cứu: thành phố Hà Nội 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 6 Phương pháp luận được tác giả sử dụng là chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng, nước ta về đảm bảo an toàn GTĐB trong từng thời kỳ. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng bao gồm: Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn làm rõ các khái niệm, quy định mang tính chuẩn mực quốc tế, quy định của BLHS Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, và việc áp dụng quy định này trong việc định tội danh và quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố Hà Nội. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu PLHS về tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các chữ viết tắt, nội dung chính của luận văn gồm 02 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chương 2: Áp dụng pháp luật đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật đối với tội phạm này. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. Khái niệm về giao thông đường bộ Để hiểu rõ và áp dụng điều luật một cách chính xác, trước tiên cần hiểu khái niệm, ý nghĩa của những thuật ngữ được sử dụng trong quy định pháp luật. Đối với tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cần hiểu khái niệm GTĐB, người tham gia GTĐB, khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cũng như có sự hiểu biết nhất định về các tội xâm phạm ATGTĐB theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Bất kỳ ai, muốn sống thì phải có bốn điều: Ăn, mặc, ở, đi lại..." [35] . Người còn nói: "Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi chuyện dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ"[41] , "Giao thông vận tải có nhiều ngành. Có ngành thủy, ngành bộ, có xe, có cầu, có phà... Các cô các chú phải ra sức thi đua. Thi đua làm cho giao thông: Một là thông suốt, hai là an toàn, ba là liên tục” [41]. Có thể thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề giao thông vận tải, đánh giá đúng vai trò, vị trí của giao thông vận tải trong đời sống xã hội. Theo từ điển Tiếng Việt thì: Giao thông được hiểu là "việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở”. Giao thông là hình thức di chuyển, đi lại công khai bao gồm các đối tượng như người đi bộ, xe, thuyền, tàu điện, tàu hỏa, tàu bay, các phương tiện giao thông công cộng, thậm chí cả xe dùng sức kéo động vật hay động vật tham gia đơn lẻ hoặc cùng nhau. Tùy theo phương tiện và không gian vận chuyển, có thể là giao thông đường bộ, giao thông đường sắt, đường thủy hoặc hàng không. Theo Luật GTĐB năm 2008, đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ (Khoản 1 Điều 3). Đường bộ là loại đường dành 8 cho các loại phương tiện giao thông như ô tô, xe cơ giới, xe máy, xe đạp và người đi bộ, không dành cho máy bay, tàu hỏa, tàu thủy … Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về GTĐB như sau: Giao thông đường bộ là việc đi lại, di chuyển từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. 1.2. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 1.2.1. Khái niệm Trước khi tìm hiểu khái niệm của Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì khái niệm người tham gia GTĐB cũng cần được làm rõ để có thể xác định phạm vi chủ thể của tội phạm, từ đó áp dụng điều luật, một cách chính xác nhất. "Người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật, người đi bộ trên đường bộ"[20] . Theo đó, có thể hiểu người tham gia GTĐB bao gồm tất cả những người thực hiện hoạt động đi lại, di chuyển trên đường bộ. Điều 3 Luật GTĐB cũng đã nêu ra khái niệm về những người tham gia GTĐB và một số khái niệm liên quan như sau: "23. Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. 24. Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới.[20]. 31. Người vận tải là tổ chức, cá nhân sử dụng phương tiện giao thông đường bộ để thực hiện hoạt động vận tải đường bộ". Bên cạnh đó, điều luật còn quy định: "17. Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ. 18. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô 9 tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. 19. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự. 20. Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ. 21. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng. ... 30. Vận tải đường bộ là hoạt động sử dụng phương tiện giao thông đường bộ để vận chuyển người, hàng hóa trên đường bộ."[20]. Điều 3 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/05/2016 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có giải thích như sau: "a) Máy kéo là loại xe gồm phần đầu máy tự di chuyển, được lái bằng càng hoặc vô lăng và rơ moóc được kéo theo (có thể tháo rời với phần đầu kéo); [7]. b) Các loại xe tương tự xe ô tô là loại phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ có từ hai trục, bốn bánh xe trở lên, có phần động cơ và thùng hàng (nếu có) lắp trên cùng một xát xi (kể cả loại xe 4 bánh chạy bằng năng lượng điện); c) Các loại xe tương tự xe mô tô là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh, có dung tích làm việc của động cơ từ 50cm3 trở lên, có vận tốc thiết kế lớn nhất lớn hơn 50 km/h, có khối lượng bản thân không lớn hơn 400 kg; 10 d) Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4 kW, có vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h; đ) Các loại xe tương tự xe gắn máy là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h, trừ các xe quy định tại Điểm e Khoản này; e) Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hom 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện)" [7]. Như vậy, các văn bản pháp luật chuyên ngành đã có quy định cụ thể, rõ ràng về khái niệm người tham gia giao thông và những khái niệm khác liên quan đến người tham gia GTĐB, góp phần làm rõ hơn về chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Từ đó, có thể tìm hiểu sâu hơn về những đặc điểm, dấu hiệu của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB và đưa ra được khái niệm chung về tội phạm này. Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là một tội phạm, do đó, chúng ta cần đi từ khái niệm tội phạm cũng như các dấu hiệu của tội phạm, từ đó rút ra được khái niệm của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Về khái niệm tội phạm, BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau: "Điều 8. Khái niệm tội phạm 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 11 2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác." Do tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB cũng là một tội phạm, vì vậy chắc chắn cũng sẽ có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm nói chung. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần hiểu vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi vi phạm quy định về ATGTĐB trong khi tham gia GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác [15, tr.523]. Theo đó, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những dấu hiệu của tội phạm như sau: Thứ nhất, về tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất trong các dấu hiệu của tội phạm. Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trực tiếp xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các phương tiện GTĐB, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, tài sản của nhà nước, của các tổ chức và các nhân khác. Thứ hai, đặc điểm về lỗi của người thực hiện hành vi. Lỗi là thái độ tâm lý của con người với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đã gây ra dưới dạng lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB luôn được thực hiện với lỗi vô ý, vì nếu thực hiện với lỗi cố ý thì có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm khác như các tội: xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Thứ ba, về tính trái pháp luật: Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nếu "được quy định trong Luật Hình sự" còn gọi là tính trái PLHS. Hành vi trái PLHS là làm những việc mà PLHS cấm làm hoặc không làm, không làm đầy đủ những việc mà pháp luật quy định phải làm. Khi người phạm tội thực hiện hành vi trái với quy định của luật chuyên ngành (Luật 12 GTĐB) gây hậu quả được quy định trong Điều 260 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì sẽ bị coi là tội phạm. Thứ tư, tính phải chịu hình phạt: Do đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nên bất cứ tội phạm nào cũng phải chịu sự đe dọa của hình phạt. Vì vậy, khi thực hiện hành vi vi phạm quy định về ATGTĐB mà gây hậu quả theo luật định thì sẽ phải chịu TNHS và hình phạt theo đúng quy định của pháp luật. Do tình hình tội phạm các thời kỳ trước còn khá đơn giản, chủ yếu là việc người phạm tội gây ra thiệt hại do điều khiển phương tiện giao thông không đúng quy định pháp luật, nên hầu hết các quan điểm về khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đều xoay quanh khái niệm về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB. PGS.TS Nguyễn Huy Thuật đưa ra quan điểm của mình về khái niệm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB như sau: Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB là một loại TNGT xảy ra do một bên hoặc nhiều bên tham gia giao thông, do phương tiện cơ giới hoặc không cơ giới đang hoạt động trên đường giao thông công cộng, địa bàn giao thông công cộng, đã có những vi phạm về ATGT vận tải đường bộ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản. Khái niệm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB của PGS.TS Nguyễn Huy Thuật trong Sổ tay các tội phạm về trật tự an toàn xã hội như vậy là chưa chính xác. Theo quan điểm của PGS.TS, tội phạm không phải là hành vi mà là "TNGT", nếu quan niệm như vậy thì sẽ không thấy hết được CTTP vì TNGT chỉ là hậu quả của hành vi vi phạm về ATGĐB, mà để thể hiện được hết tính chất nguy hiểm của tội phạm thì cần mô tả được cả hành vi và hậu quả xảy ra. Không những vậy, quan điểm này không thống nhất với khái niệm tội phạm được đề cập trong BLHS. 13 Ngoài ra, còn một số quan điểm khác của các tác giả về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB trong các bình luận khoa học BLHS như: Theo quan điểm của ThS. Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB là hành vi vi phạm quy định về ATGT trong khi điều khiển các phương tiện GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác [16]” ; Theo ThS. Đinh Thế Hưng và TS. Trần Văn Biên thì “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB, được hiểu là hành vi của người điều khiển phương tiện GTĐB đã không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định pháp luật GTĐB trong việc điều tiện phương tiện GTĐB” [13]. Tuy nhiên, do tình hình tội phạm ngày càng đa dạng, phức tạp, không chỉ riêng người điều khiển phương tiện giao thông mới có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác, mà kể cả người đi bộ hay người dẫn dắt, điều khiển súc vật cũng rất có thể trở thành chủ thể của tội phạm này. Trên thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp súc vật không được dẫn dắt, quản lý mà thả rông ngoài đường gây tai nạn nghiêm trọng nhưng do chưa có quy định nào của PLHS điều chỉnh hành vi này nên chưa thể xử phạt hình sự. Vì vậy, cần sửa đổi pháp luật để phù hợp hơn với thực tiễn đang xảy ra. Dựa vào khái niệm và những dấu hiệu của tội vi phạm quy định về điều khiển GTĐB được quy định trong luật hình sự trước đây và căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015, có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau: Tội vi phạm về tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi nhất định và tham gia giao thông đường bộ thực hiện, vi phạm quy định về ATGT đường bộ, với lỗi vô ý, gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác nếu không được ngăn chặn kịp thời. 14 1.2.2. Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội nào cũng đều xâm hại một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ [11]. Bất kỳ HVPT nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một hay một số quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ. Việc nghiên cứu khách thể của tội phạm nói chung, khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nói riêng có ý nghĩa lý luận quan trọng. Như mọi hoạt động khác của con người, HVPT cũng nhằm vào khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của chủ thể nhưng không phải để cải biến mà để gây thiệt hại cho khách thể đó [10]. Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là sự an toàn của hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác được Luật hình sự bảo vệ. Tội phạm này xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về ATGTĐB, đó là những quy định nhằm đảm bảo ATGT vận tải, đảm bảo cho hoạt động giao thông vận tải đường bộ được thông suốt, được tiến hành bình thường, và bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và tài sản của công dân. [1, tr.418]. Có thể thấy, sự an toàn về GTĐB là khách thể đặc trưng và sự xâm phạm về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác là khách thể bắt buộc của tội phạm này [17], bởi chỉ khi cả hai khách thể này cùng bị xâm phạm thì hành vi vi phạm đó mới đủ CTTP của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Nếu vi phạm quy định về ATGTĐB mà không gây ra thiệt hại đến tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe và tài sản của người khác hoặc không có khả năng thực tế đe dọa gây ra thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan