Luận văn TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN ĐỨC THẮNG
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT
VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN ĐỨC THẮNG
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT
VÀ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA BỂ
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn
là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX,
cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải
Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác
nhau như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách ... Làng
nước gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả
làng và nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.
Cho nên, hai vấn đề nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối
với sự tồn vong và lớn mạnh của dân tộc ta...” [8, tr.5]
Chính vì lẽ đó việc quản lý nông nghiệp và ruộng đất là một trong
những công việc trọng tâm của các vương triều phong kiến Việt Nam nói
chung và triều Nguyễn nói riêng. “Nhà nước Quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền có nắm chắc được ruộng đất mới có cơ sở để thu tô thuế-mà
trong các xã hội tiền tư bản đều sống bằng nguồn thu từ tô thuế của dân. Với
một đất nước nông nghiệp như Việt Nam vấn đề quản lý ruộng đất đặc biệt
quan trọng. Việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả ruộng đất nhà nước có thể
chi phối được mọi mặt của xã hội, trong đó trước hết là chi phối người nông
dân. Đồng thời trên cơ sở làm tốt công việc này quyền sở hữu tối cao của nhà
nước đối với ruộng đất trong cả nước mới được xác lập một cách vững chắc” [31]
Chúng ta đi vào nghiên cứu chế độ sở hữu ruộng đất của các triều đại
là đi vào vấn đề cơ bản, then chốt để giải mã lịch sử xã hội Việt Nam
phong kiến.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Nhà nước phong kiến lấy nông nghiệp làm gốc, là cơ sở của nền kinh tế
đất nước. Chính vì vậy, tình hình ruộng đất và nông nghiệp có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, qua việc nghiên cứu tình hình ruộng đất và nông nghiệp
giúp chúng ta hiểu biết về chính sách về ruộng đất, thực trạng nông nghiệp
từng địa phương. Từ thực tiễn đó cho chúng ta những hiểu biết cơ bản, toàn
diện về những vấn đề xã hội, chính trị của từng địa phương. Đồng thời giúp
lý giải thêm những vấn đề liên quan đến sản xuất, tập quán sản xuất, sinh hoạt
văn hoá, các mối quan hệ xã hội cũng như sự phân hoá giai cấp trong làng xã.
Từ những kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình nghiên cứu tình
hình ruộng đất và nông nghiệp không chỉ có tác dụng tìm hiểu địa phương đó
trong một khoảng thời gian nhất định là nửa đầu thế kỷ XIX, mà còn có ý
nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Chúng ta có thể học tập từ cha, ông ta trên
nhiều lĩnh vực như: quản lý ruộng đất, kinh nghiệm canh tác, cải tạo tự nhiên,
tìm hiểu về dòng họ mình thời xưa, kết cấu làng bản trong lịch sử…
Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu, tìm hiểu tình hình nông nghiệp và
chế độ quản lý ruộng đất triều Nguyễn - một trong những vấn đề cơ bản của
lịch sử phong kiến Việt Nam, từ đó tìm hiểu tình hình ruộng đất, nông nghiệp
của huyện Ba Bể qua một thời kỳ lịch sử cụ thể là nửa đầu thế kỷ XIX. Việc
nghiên cứu này cũng có thể góp phần thực hiện chính sách của Đảng, nhà
nước trong việc đầu tư phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh trung du miền núi
phía Bắc nói chung và Bắc Kạn nói riêng. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Tình
hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) nửa
đầu thế kỷ XIX ” làm đề tài tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp từ lâu đã được các sử gia
phong kiến nhà Nguyễn chú ý. Có thể ra các tác phẩm tiêu biểu có đề cập đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
vấn đề nông nghiệp và ruộng đất như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại
Nam nhất thống chí, Đồng Khánh dư địa chí...
Từ sau năm 1945 trở lại đây đã có nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng
về tình hình ruộng đất và nông nghiệp Việt Nam trong lịch sử như: Chế độ
ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu
chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX của Vũ Huy Phúc, Tình hình
ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn của Trương
Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên), Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy Lê và
P.Brocheux, Địa bạ cổ Hà Nội của Phan Huy Lê, Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu...
Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tình hình nông nghiệp và ruộng đất
Việt Nam, dựa trên nguồn sử liệu chính thống và những nguồn tư liệu địa
phương như văn bia, gia phả, hương ước…Trên cơ sở đó thu được thành quả
to lớn, hệ thống hoá chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn và tác động của nó
đối với kết cấu xã hội…
Những thành quả trên là cơ sở tham khảo quan trong giúp chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Trong phạm vi địa phương đã có một số công trình nghiên cứu được
xuất bản thành sách,có đề cập tới vấn đề đang được nghiên cứu như: Bản sắc
và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba
Bể (tập 1,2,3), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ…
Đây là những tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về huyện Ba Bể, là nguồn tư liệu
để nghiên cứu kết hợp làm nổi bật vấn đề.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi thừa hưởng rất ít các kết quả
nghiên cứu của những người đi trước. Đặc biệt, một công trình nghiên cứu có
đối tượng là địa bạ huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến nay chưa được thực hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Mặc dù vậy, một số luận văn Thạc sĩ hay khoá luận tốt nghiệp của sinh
viên về tình hình ruộng đất và nông nghiệp từng địa phương gần đây đã được
thực hiện như: Khoá luận tốt nghiệp Tình hình ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp huyện Phú Lương (Thái Nguyên), nửa đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Thị
Mai Anh,Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Đồng Hỷ (Thái
Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX của Mai Thị Hồng Vinh, Luận văn Thạc sĩ
Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX của Nông Quốc Huy, Huyện Phú
Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX
của Lê Thị Thu Hương…
Chúng tôi xem các thành quả nghiên cứu của những người đi trước là
những ý kiến gợi mở, những kinh nghiệm quý báu để thực hiện đề tài nghiên
cứu địa bạ của mình, nhằm mục đích tìm hiểu các vấn đề trên. Đặc biệt
những địa phương có đặc thù gần gũi về mặt địa lý đối với địa bàn huyện Ba
Bể sẽ là đối tượng để chúng tôi so sánh và đối chiếu.
Như vậy, cho đến nay, chưa có một tác phẩm là kết quả của một công
trình nghiên cứu toàn diện về nông nghiệp và địa bạ vùng trung du và miền
núi phía Bắc được xuất bản. Chính vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề về chế độ sở
hữu ruộng đất, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất nông nghiệp ... của
vùng này còn trống vắng cần được nghiên cứu.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: thực hiện đề tài “Tình hình ruộng đất và kinh
tế nông nghiệp huyện Ba Bể(tỉnh Bắc Kạn) nửa đầu thế kỷ XIX ”, trên cơ
sở nguồn tư liệu khai thác được, chúng tôi mong muốn góp phần phản ánh
một cách khách quan, khoa học về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn vào thời điểm giữa thế kỷ XIX. Từ đó, đề tài tiến hành phân
tích và đưa ra một số nhận xét về tình hình ruộng đất và cơ cấu kinh tế - xã
hội của địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
- Đối tượng nghiên cứu: tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX.
- Giới hạn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu tình hình ruộng đất và
kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là
giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội.
Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của huyện Ba Bể, khi
đó còn nằm trong tỉnh Thái Nguyên.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu thành văn: bao gồm những tài liệu chính sử của quốc sử
quán triều Nguyễn như Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám
cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh dư
địa chí ...
Đặc biệt những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Chế độ
ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI-XVIII của Trương Hữu Quýnh, Tìm hiểu
chế độ ruộng đất Việt Nam của Vũ Huy Phúc, Địa Bạ Hà Đông của Phan Huy
Lê và P.Brocheux, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của Nguyễn Đình Đầu ...
- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Địa lý tỉnh
Bắc Kạn...
- Nguồn tư liệu thực địa, điền dã: các tài liệu truyền miệng, truyện kể,
truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương...
- Nguồn tư liệu địa bạ: bao gồm 21 đơn vị địa bạ có niên đại Minh
Mệnh 21 (1840) và một đơn vị địa bạ có niên hiệu Gia Long 4 (1805) đang
được lưu giữ tai Trung tâm lưu tr÷ quốc gia I, Hà Nội với các ký hiệu từ 8195
đến 8257. Hầu hết các thôn, xóm đều có địa bạ, đây là cơ sở để chúng tôi
phục dựng lại tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiêp của huyện Ba Bể
nửa đầu thế kỷ XIX.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Trên cơ sở thực tế là nguồn tư liệu gốc địa bạ triều Nguyễn, chúng tôi
đặc biệt chú ý khâu giám định, biên dịch tư liệu chữ Hán. Trên cơ sở khảo sát
tư liệu gốc kết hợp với phân tích, định lượng để bóc tách và xử lý tư liệu
trong nguồn tư liệu địa bạ vốn đề cập đến nhiều vấn đề, nhằm tìm hiểu chính
xác tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Bể, đồng
thời xử lý số liệu, so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác có liên quan.
Kết hợp khai thác nguồn tư liệu thành văn, đồng thời chúng tôi sử dụng
phương pháp hồi cố và điền dã làm trọng tâm. Sử dụng phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgíc, phương pháp thống kê, đối sánh,phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân loại, phương pháp phê phán
tư liệu nhằm mục đích làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được những thành quả cụ thể:
Từ góc độ địa lý lịch sử phân tích một cách khái quát về vị trí địa lý
huyện Ba Bể.
Thống kê chi tiết địa bạ huyện Ba Bể tới từng chủ sở hữu.
Trên cơ sở các kết quả thống kê diện tích, chúng tôi tiến hành phân tích
và đối chứng so sánh, rút ra những kết luận về ảnh hưởng của những thập kỷ
chiến tranh, loạn lạc tới tình hình ruộng đất và nông nghiệp, đặc điểm chế độ
sở hữu ruộng đất của huyện Ba Bể. Trên cơ sơ phân tích địa bạ, luận văn tìm
hiểu phong tục tập quán liên quan đến ruộng đất và nông nghiệp của đồng bào
các dân tộc huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX.
Đúc rút những kinh nghiệm của cha, ông trong việc quản lý và khai thác
đất đai. Cung cấp thêm tư liệu giúp địa phương phát triển kinh tế nông nghiệp
một cách có hiệu quả nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 103 trang, được chia làm 3 phần, phần mở đầu (7 trang),
phần nội dung ( 86 trang), phần kết luận (5 trang). Ngoài ra còn có 5 trang tài
liệu tham khảo và phần phụ lục.
Phần nội dung được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Ba Bể - Tỉnh Bắc Kạn (17 trang).
Chương 2: Tính hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (41
trang).
Chương 3: Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX (28
trang).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BA BỂ - TỈNH BẮC KẠN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. VÞ trÝ ®Þa lý
Huyện Ba Bể ngày nay là huyện miền núi, vùng cao của tỉnh Bắc Kạn,
cách thị xã tỉnh lỵ 60 km về phía Tây bắc, cách thủ đô Hà Nội 230 km. Ba Bể
nằm ở Tây Bắc tỉnh Bắc Kạn, phía bắc giáp huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao
Bằng và huyện Pác Nặm (trước đây là 10 xã thuộc Ba Bể năm 2003 được chia
tách thành lập huyện Pắc Nặm), phía tây giáp huyện Na Hang, tỉnh Tuyên
Quang, phía đông giáp huyện Ngân Sơn, phía nam giáp huyện Bạch Thông và
Chợ Đồn. Huyện Ba Bể nằm trong toạ độ địa lý từ 22027’ đến 22035’ vĩ độ
Bắc và 105044’ đến 105058’ kinh độ Đông. Huyện Ba Bể có vị trí địa lý tương
đối thuận lợi để giao lưu, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội với các huyện
trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2009, huyện có tổng diện tích là
678,09km2 tương đương 68.412 ha (bằng 14,1% diện tích tỉnh Bắc Kạn),
trong đó hơn 90% là rừng núi và sông, hồ. Trung tâm của huyện là huyện lị
Chợ Rã và 15 xã trực thuộc là: Mỹ Phương, Chu Hương, Yến Dương, Địa
Linh, Hà Hiệu (đầu thế kỷ XIX có tên là Hạ Hiệu đến cuối thế kỷ XIX đổi tên
thành Hà Hiệu) [20,tr.3], Phúc Lộc, Bành Trạch, Cao Trĩ, Khang Ninh, Cao
Thượng, Thượng Giáo, Nam Mẫu, Quảng Khê, Đồng Phúc, Hoàng Trĩ.
Ba Bể là một huyện miền núi với bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh và có
độ dốc lớn, hướng núi không đồng nhất. Độ cao trung bình trên 600m so với
mặt nước biển, nơi có địa hình cao nhất là 1517m nằm trên đỉnh Phia Bjooc.
Địa hình Ba Bể nghiêng dần theo hướng đông bắc - tây nam. Huyện Ba Bể có
địa hình hiểm trở nhưng hùng vĩ và đa dạng về sinh thái. Cánh cung sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
Gâm chạy dài theo hướng đông bắc - tây nam xuyên suốt địa giới của huyện
với dãy Phja Bjoóc trùng điệp, hùng vĩ như một bức trường thành. ở Phía tây
bắc và đông nam có hai ngọn núi Phja Mạ cao 1.980m và Phja Ngoàm cao
1.190m. Ba Bể có nhiều hang động kỳ thú, độc đáo có thể cải tạo thành nhiều
điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn.
Trên địa bàn huyện có hồ Ba Bể, đây là một hồ kiến tạo lớn nhất và cũng
là một danh thắng nổi tiếng cả nước. Hồ Ba Bể nằm trên độ cao 145m, chứa
khoảng gần 5 triệu m3 gồm ba hồ (Pộ Nằm, Pộ Lự, Pộ Làng) dài gần 9 km,
nơi rộng nhất tới gần 2 km, sâu chừng 30 - 40m, là hồ kiến tạo được cấu tạo
trong đá phiến và đá vôi. Hồ hơi eo lại ở giữa thành dạng một hành lang giữa
các vách đá dựng đứng. Giữa hồ có 3 đảo nhỏ, lớn nhất là đảo An Mã cùng
với hồ Ba Bể là vườn Quốc gia Ba Bể với một hệ thống rừng đặc dụng, di sản
thiên nhiên quý giá có diện tích 23.340ha, ở đây có tới 417 loài thực vật và
299 loài động vật có xương sống.
Huyện Ba Bể có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt
là ngành du lịch sinh thái. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tỉnh
Bắc Kạn đầu tư phát triển thoát nghèo.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Theo sách Đại Nam nhất thống chí mục thổ sản cho biết, châu Bạch
Thông nói chung và Ba Bể nói riêng là vùng khá phong phú về các loại thổ
sản và khoáng sản. Châu Bạch Thông có mỏ vàng Bằng Thành, mỗi năm thu
thuế 15 lạng, mỏ sắt Quảng Khê 500 cân. Các loai lâm thổ sản quý đã được
khai thác và sử dụng trong cuộc sống lao động và sản xuất như:
“Cỏ tranh, lá cọ, các loại mây, hậu phác, sa nhân, tre nứa, tre gai, tre hoa
(tức ban trúc, có vằn tròn, như hình trôn ốc, chất cứng rắn, người ta thường
dùng làm đòn cáng), gỗ lim, gỗ sến, gỗ đinh, gỗ táu, gỗ xoan: các thứ kể trên đều
sản ở các châu huyện Đông Hỉ, Phổ Yên, Phú Lương và Bạch Thông” [7, tr.181]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
Về địa hình: huyện Ba Bể có thể chia thành ba khu vực. Các xã phia Tây
như Nam Mẫu, Quảng Khê, Cao Trĩ, Hoàng Trĩ với những dãy núi đá vôi cao
trên 1000m, xen giữa là các thung lũng hẹp tạo thành những dãy núi dựng
đứng treo leo. Độ cao phổ biến từ 600 - 1000m, độ dốc trên 30. Đây là vùng
núi cao điển hình, ít có điều kiện phát triển nông nghiệp.
Phía Nam là các xã với địa hình núi đất độ cao từ 300 - 400m, độ dốc
bình quân trên 20 nhưng bị chia cắt mạnh bởi các khe suối, là địa bàn có thể
phát triển nông nghiệp và nông - lâm kết hợp. Đây là vùng có tiềm năng lớn
để phát triển các loại cây ăn quả, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc.
Vùng trung tâm huyện và các xã phụ cận là các thung lũng phân bố dọc
theo các dòng sông, dòng suối. Xen giữa các thung lũng là các dãy núi có độ
cao trung bình từ 200 - 300m. Diện tích vùng này khoảng 1000ha đây là vùng
tập trung các cánh dồng mầu mỡ của huyện.
Với đặc điểm bao gồm cả ba loại hình núi đá vôi, núi đất và thung lũng
là đặc điểm thuận lợi phát triển nông lâm nghiệp kết hợp,đa dạng hoá cây
trồng, vật nuôi
Về khí hậu: Theo sách Đồng Khánh dư địa chí thì khí hậu chung của
châu Bạch Thông là: “Khí trời nhiều lạnh rét, khí đất ẩm ướt, cuối xuân còn
lạnh, đến mùa hạ mới hơi nóng, đầu thu đã rét, đến mùa đông rét đậm. Mùa
đông và mùa xuân sương mù khí núi che phủ bầu trời, trước giờ Tý sau giờ
Thân từ nhìn quanh không thấy núi” [10, tr.820]
Ba Bể có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa nóng từ tháng tư đến
tháng mười, mùa lạnh từ tháng mười một đến tháng ba năm sau. Nhìn chung
Ba Bể có đặc điểm khí hậu tương đối thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm
nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vât nuôi.
- Các dạng thời tiết chính: Thời tiết giá rét-gió Mùa Đông bắc, thời tiết
nồm, thời tiết sương muối, thời tiết khô nóng, thời tiết mây mù..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
Sông ngòi, thuỷ văn: Ba Bể có những hệ thống sông suối khá dày và
trực tiếp chi phối chế độ thuỷ văn của huyện, song các sông suối đa phần đều
có đầu nguồn hẹp, độ dốc lớn nên thường gây ra lũ ống, lũ quét và ngập úng
về mùa mưa, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng và làm xói lở, vùi
lấp một phần diện tích nông nghiệp. Cụ thể Ba Bể có các hệ thống sông chính:
- Sông Năng: Bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Bảo Lạc - Cao Bằng
chảy vào tỉnh Bắc Kạn ở xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm. Một nhánh phụ bắt
nguồn từ phần phía đông của dãy Phia Bjooc, theo hướng đông - tây, chảy
qua các xã Chu Hương, Mỹ Phương, Hà Hiệu và nhập với nhánh chính trên
địa bàn xã Bành Trạch đi qua thị trấn Chợ Rã, xã Thượng Giáo, xã Cao Trĩ,
Khang Ninh, sau đó nhận được nước của sông Chợ Lèng rồi chảy sang địa
phận Tuyên Quang.Tổng chiều dài 113km2, phần qua Bắc Kạn 87km2. Tổng
lưu vực rộng 2270km2 với phần chảy qua Bắc Kạn rộng 890km2. Hướng chảy:
Từ Cao Bằng - Bằng Thành (Pắc Nặm) - Xuân La - Anh Thắng - Bành
Trạch. Hướng Tây Bắc - Đông Nam.
Từ Bành Trạch- Cao Thượng - Tuyên Quang theo hường Đông – Tây.
Sông qua núi Lũng Nham tạo thành động Puông dài 300m rộng và cao
30- 40m. Hết địa phận Bắc Kạn, sông bị chặn bởi nhiều tảng đá to, chia thành
các dòng nhỏ và tạo thành thác Đầu Đẳng hùng vĩ dài hơn 1000m, chảy sát hồ
Ba Bể nên sông có cửa thông với hồ là cửa Bế Cam (Nam Mẫu). Sông có tiềm
năng thủy điện lớn hiện đang xây dựng nhà máy thuỷ điện Na Hang(Tuyên
Quang). Cuối cùng sông Năng đổ vào sông Gâm ở Tuyên Quang.
Sông Năng có nhiều sông, suối nhỏ đổ vào sông như sông Bộc Bố, sông
Hà Hiệu.
- Sông Chợ Lèng chảy vào lòng hồ Ba Bể bắt nguồn từ dãy núi Phia
Booc chảy theo hướng đông nam - tây bắc, qua địa bàn huyện Ba Bể trên địa
phận các xã Đồng Phúc, Quảng Khê, Nam Mẫu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
- Sông Tả Han và suối Bó Lù đều bắt nguồn từ dãy Phia Bjooc chảy vào
hồ Ba Bể.
- Suối Cao Thượng bắt nguồn từ xã Cổ Linh huyện Pắc Nặm chảy qua
địa bàn xã Cao Thượng rồi hoà vào sông Năng.
Điều kiện tự nhiên của Ba Bể có nhiều thuận lợi để phát triển nông - lâm
nghiêp. Mặc dù vậy, Ba Bể cần phải đầu tư nâng cấp và phát triển mạng lưới
giao thông đường bộ để mở rộng thị trường, tạo điều kiện thông thương giao lưu
hàng hoá phát triển. Trong thời gian vừa qua mạng lưới giao thông của tỉnh
Bắc Kạn nói chung và huyện Ba Bể nói riêng đã được quan tâm đầu tư xây dựng.
Mạng lưới đường bộ gồm hệ thống quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện,
đường đô thị, đường xã và đường thôn xóm với tổng chiều dài 1166 km, trong
đó: Quốc lộ với tổng chiều dài 160 km với 42 cầu; Đường tỉnh với tổng chiều
dài 367 km với 47 cầu; Đường huyện có tổng chiều dài 673 km với 106 cầu,
mật độ đường đạt 24,31 km/km2. Do địa hình vùng này phức tạp nên hệ thống
đường giao thông của tỉnh rất nhiều cầu, cống, với trên 1000 km đường bộ có
tới 195 cây cầu và 1673 cống. Quốc lộ 3 chạy suốt theo chiều dài của tỉnh và
các đường tỉnh lộ đều bắt đầu từ trục quốc lộ 3.
Quốc lộ 279 (đường vành đai II) cũng đã và đang được từng bước năng
cấp nối Bắc Kạn với Lạng Sơn và Tuyên Quang. Các tuyến khác như đường
254 Đèo So - Chợ Đồn- Ba Bể và đường Bằng Lũng qua Ba Hồ – Yên
Thượng, huyện Chợ Đồn cũng đã được nâng cấp. Trong thời kỳ 2001-2006 đã
đầu tư nâng cấp, xây dựng mới trên 500 km đường huyện, trên 1000 km
đường liên xã, liên thôn đạt tỷ lệ 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã.
Hoàn thành các cầu lớn như Thác Giềng, Yên Đĩnh, Hảo Nghĩa, Dương
Quang, Bắc Kạn II.
Đường liên xã tổng chiều dài trên 1000 Km, đạt tiêu chuẩn giao thông
nội tỉnh loại A, B, mặt đường là đất cấp phối tự nhiên, ngoài ra hệ thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
đường giao thông nội tỉnh, đường thôn xóm có chiều dài khoảng 4000 Km đạt
tiêu chuẩn giao thông nội tỉnh loại B không tính vào mạng lưới giao thông
đường bộ.
Nhìn chung mạng lưới đường bộ trong tỉnh tạo thuận lợi trong việc giao
lưu với các tỉnh bạn, nối liền trung tâm của tỉnh với trung tâm của huyện và
trung tâm các xã. Về chất lượng tuy có được cải thiện song vẫn thấp so với
yêu cầu cần thiết, có nhiều tuyến chưa được nâng cấp trải nhựa, đặc biệt là
những tuyến nằm ở miền núi và các tuyến đường huyện xã.
Nhìn chung, hệ thống giao thông của tỉnh Bắc Kạn tuy đã được Chính
phủ đầu tư, song vẫn còn rất nhiều khó khăn, vì vậy để tạo môi trường đầu tư
thuận lợi và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh, khai thác được tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh, đòi hỏi phải nâng cấp trục quốc lộ 3 thành đường
cao tốc, nhằm rút ngắn thời gian vận chuyển từ Bắc Kạn về các trung tâm
kinh tế lớn của cả nước, đồng thời tiến hành đồng bộ việc mở thêm các tuyến
đường mới với việc nâng cấp các các tuyến đường hiện cũ.
Trên địa bàn tỉnh có 5 dòng sông chảy qua nhưng chủ yếu là sông đầu
nguồn, dòng chảy hẹp, mực nước nông lại nhiều ghềnh thác nên hệ thống giao
thông đường thuỷ của Bắc Kạn không có điều kiện phát triển. Chỉ có sông
Năng và sông Cầu có thể khai thác từng đoạn ngắn và cũng chỉ vận chuyển
được bằng thuyền gắn máy nhỏ.
1.2. Các thành phần dân tộc huyện Ba Bể
Thành phần dân tộc của huyện Ba Bể được viết trong một số tài liệu
không thống nhất trong việc xác định số lượng các dân tộc trên địa bàn huyện.
Về cơ bản Ba Bể có 6 dân tộc chính sinh sống trên 16 đơn vị hành chính xã,
thị trấn với 199 thôn, bản. Năm dân tộc đó là Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng,
Sán Chí với 10.025 hộ, khoảng 47.000 người. Trong đó dân số nông thôn
khoảng 43.54 người (chiếm tỷ lệ 92,7%). Mật độ dân số trung bình là 69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
người/km2. Trong quá trình lịch sử, huyện Ba Bể đã tiếp nhận nhiều dân tộc
di cư đến cùng làm ăn, sinh sống:
“Trong toàn huyện, người Thổ (người Tày), người Nùng, người Mán ở
xen nhau. Tiếng nói, quần áo, tập tục ăn cũng giống dân huyện Cảm
Hoá.Người Mán cũng có Mán Đại Bản, Mán Đeo Tiền, Mán Sơn Miêu, phong
tục khác nhau” [10, tr.820]
1.2.1. Người Tày:
Người Tày ở Bắc Kạn là cộng đồng dân số có số dân đông nhất với
149.459 người chiếm 54,32% dân số toàn tỉnh. Người Tày ở Bắc Kạn gồm ba
bộ phận cấu thành với những tên gọi khác nhau:
+ Bộ phận người Tày bản địa từ thời nguyên thuỷ đã có mặt và sinh sống
ở Bắc Kạn
+ Bộ phận người Tày gốc Kinh từ dưới xuôi lên theo thời gian lâu dài đã
Tày hoá
+ Bộ phận người Tày - Nùng từ Quảng Tây (Trung Quốc) sang Bắc Kạn.
Bộ phận người Tày ở Ba Bể chủ yếu là người Tày Nặm (Tày nước để
phân biệt với Tày Bốc tức Tày cạn ở huyện Pắc Nặm). Người Tày Nặm sống
ở vùng thấp nhiều sông nước như các xã hạ lưu sông Năng, sông Cầu. Ngoài
ra còn có người Tày Slo ở Mường Slo thuộc thung lũng sông Năng.
Người Tày sống tập trung thành làng bản trong các thung lũng lòng chảo,
lòng máng hoặc dọc theo hai bờ sông, suối. Có bản đông tới vài chục nóc nhà,
cũng có bản chỉ có vài ba nóc nhà đơn sơ dựng bên sườn núi. Ở nhà sàn cho
tới nay vẫn là truyền thống của đồng bào. Tại một số địa phương như Nghiêm
Loan, đồng bào vẫn còn giữ được đặc trưng của nếp nhà sàn cổ xưa. Ở những
vùng tiếp cận với thị trấn và các chợ như Phố cũ, xã Hà Hiệu, nhiều hộ đã bỏ
nhà sàn chuyển sang ở nhà đất, nhà xây như ở dưới xuôi. Đồng bào Tày làm
ruộng nước là chính, ngoài ra còn chống ngô và hoa mầu ở các soi, bãi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
1.2.2 Người Kinh:
Ngay từ buổi đầu dựng nước, các triều đại phong kiến Lý - Trần đã rất
chú ý đến cộng đồng các dân tộc miền núi phía Bắc, thể hiện qua việc phong
tước, chọn phò mà là các tù trưởng có uy tín. Có lẽ bộ phận người Kinh đầu
tiên ở vùng núi phía Bắc là những binh lính đồn trú ở biên giới, hay những
người hầu cận của các vị công chúa phong kiến xuất hiện ở đây. Đặc biệt thời
kỳ nội chiến Nam - Bắc triều (từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII), các thế
lực họ Mạc, các lực lượng Lê - Trịnh phát triển mạnh lên miền núi, trong đó
có Bắc Kạn. Một số người ở lại và bị Tày hoá. Sang đến thời Nguyễn rồi thời
Pháp, người Kinh ở miền xuôi vẫn tiếp tục lên Bắc Kạn bằng nhiều con
đường: lưu quan, binh lính, phu mỏ, phu làm đường…và họ tiếp tục bị Tày
hoá. Số người Kinh lên Bắc Kạn khoảng đầu thế kỷ XX đến trước 1945 nằm
trong bộ máy cầm quyền của Pháp như binh lính, thầy giáo, thầy thuốc và một
số tiểu thương buôn bán nhỏ không bị Tày hoá mạnh như trước. Họ trở thành
bộ phận người Kinh ở Bắc Kạn.Năm 1932 có khoảng 3.900 người Kinh ở Bắc
Kạn, chủ yếu ở các thị trấn, thị xã.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bắc Kạn đón tiếp nhiều cán bộ, bộ
đội, thanh niên xung phong và cả đông bào tản cư lên tham gia kháng chiến.
Sau năm 1954, một số người không trở về quê hương mà ở lại sinh cơ lập
nghiệp rối thành người Bắc Kạn.
Thời kỳ những năm 60 thế kỷ XX, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhiêù kiều bào đã từ nước ngoài trở về xây dựng tổ quốc. Nhiều người
vốn quê ở Bắc Kạn đã trở về quê hương. Ngày này nhiều người là cán bộ chủ
chốt của tỉnh Bắc Kạn.
Từ năm 1963 trở đi, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa một số đồng bào
Kinh lên miền núi khai hoang phát triển kinh tế- văn hoá, số người Kinh lên Bắc
Kạn tăng nhanh với hàng nghìn hộ, phân bố hầu khắp các xã trong toàn tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
Người Kinh định cư ở Ba Bể chủ yếu từ sau năm 1963, hiện nay vẫn có
người Kinh lên Ba Bể lập nghiệp theo con đường buôn bán hoặc hôn nhân.
Người Kinh ở Ba Bể sống tập trung chủ yếu ở thị trấn, số đông làm nghề
buôn bán.
1.2.3.Người Nùng:
Người Nùng từ Trung Quốc đến sinh sống ở Bắc Kạn chủ yếu từ 6 - 7
đời gần đây. Ở Bắc Kạn chủ yếu có các nhóm Nùng là Nùng Phản Sinh, Nùng
An, Nùng Giang, Nùng Cháo.
Người Nùng ở Ba Bể chủ yếu là người Nùng An, phần lớn theo đường
Quảng Hoá - Cao Bằng sang, một số sang Hoà An ngược sông Nguyên Bình
đến các huyện Ba Bê, Bạch Thông. Người Nùng chủ yếu sống ở vùng thấp,
lấy nghề nông lúa nước làm nguồn sống chính, họ ở xen canh trong vùng
người Tày, sớm hoà nhập vào cộng đông dân cư địa phương, một số có xu
hướng chuyển sang dân tộc Tày.
1.2.4 Người Dao:
Có số dân đứng thứ hai sau người Tày, người H’Mông có số dân khoảng
hơn nửa số dân người Dao. Người Dao và người H’Mông sinh sống chủ yếu ở
vùng núi cao, làng bản thưa thớt, nhà cửa đơn sơ. Địa bàn sinh sống tập trung
của đông bào là quanh chân núi Phja Bjoóc với phương thức du canh, du cư,
phát nương làm rẫy, kỹ thuật canh tác còn lạc hậu. Ngày nay, Đảng bộ, chính
quyền địa phương đang từng bước giải quyết, ổn định đời sống của đồng bào,
xoá bỏ nạn phá rừng.
Người Dao ở huyện Ba Bể chủ yếu là người Dao thuộc ngành Dao đỏ
với các nhành Dụ Lảy, Dụ Tsiăng.
“- Dụ Lảy là tên tự gọi, còn gọi là Dao Quế Lâm. Nguyên chi này gốc ở
Quế Lâm - Trung Quốc, hiện cư trú tập trung tại hai bên dãy núi Phja Bjoóc
thuộc các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
- Dụ Tsiăng (còn gọi là Dụ Nhiaa): Dụ Tsiăng là tên tự gọi, Dụ Nhiaa là
do nhóm Dụ Kùn gọi. Đây là chi có dân số đông nhất và địa vực cư trú rộng
nhất tại Bắc Kạn. Bao gồm hầu hết các vùng, khu vực của tỉnh” [3, tr.164].
Người Dao sống du canh là chính nhưng cũng có sống tập trung xen kẽ
với các dân tộc khác. Mặc dù ở cùng bản với người Tày, Nùng nhưng người
Dao thường tách ra ở một khu riêng biệt. Người Dao thường tập trung khoảng
5 - 7 gia đình sống tại một triền đồi, núi hay một khu vực nào đó đáp ứng
được nhu cầu về nguồn nước và thuận lợi trong sinh hoạt, cũng như có điều
kiện canh tác tốt. Người Dao ở Bắc Kạn thường sống ở khu vực tương đối
thấp nhưng ở Ba Bể cư dân sống ở các núi cao như bản Nà Vài, Nà Hai
(Quảng Khê), Tẩn Lùng, Lủng Mình (Đồng Phúc)….Bản của người Dao
thường cư trú theo quan hệ dòng tộc, huyết thống. Rất ít bản có nhiều dòng
họ, nhiều ngành, nhóm cùng sinh sống [3, tr.187].
Nền kinh tế truyền thống của người Dao chủ yếu là nông nghiệp, chăn
nuôi và thu hái lâm thổ sản. Người Dao do cuộc sống du canh, du cư đời sống
không ổn định, cư trú dựa vào nương rầy là chính nên nghề thủ công không
được coi trọng. Các nghề dệt, rèn, đan lát…hầu hết là để phục vụ cho cuộc
sống gia đình. sản phẩm thừa mới đem bán nhưng lãi suất thấp. Những nghề
này chỉ được làm khi nông nhàn.
1.2.5.Người Mông:
Người Mông ở Bắc Kạn tập trung đông nhất ở Ba Bể và Pắc Nặm với
dân số là 9.938 người. Trong đó ở Ba Bể tập trung đông nhất ở xã Nam Mẫu:
“+ Nam Mẫu (Ba Bể): 211 hộ, 1428 người, 49% dân số xã” [3, tr.319].
Người Mông ở Ba Bể là nhóm Mông Trắng từ Trung Quốc di cư sang
Việt Nam, trước hết vào Cao Bằng, sau đó di cư tới các tỉnh trong đó có Bắc
Kạn. Nhóm người Mông Trắng là nhóm người Mông đầu tiên di cư đến sống
ở Bắc Kạn. “…Sớm nhất là các nhóm Mông Trắng đến phía Bắc các huyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
Pắc Nặm, Ba Bể tìm đất cư trú, lập nghiệp ở khu vực núi đá vôi thuộc các xã
Nhạn Môn, Cổ Linh, Cao Tân, Cao Thượng…cách đây khoảng hơn trăm
năm…Cũng từ Cao Bằng, nhóm người Mông Trắng còn chuyển đến cư trú tại
các xã Nghiêm Loan huyện Pắc Nặm, Nam Mẫu huyện Ba Bể…” [3, tr.323].
Người Mông ở Ba Bể thường sống rải rác, ít khi tới 5 - 10 hộ, ở trên núi
cao. Hộ thường sống phân tán nhà nọ cách nhà kia vài trăm mét trở lên.
Người Mông độc lập với các dân tộc khác, rất hiếm khi làng người Mông có
dân tộc khác cư trú và ngược lại. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu của họ là
trồng ngô trên những nương du canh, ít có nương cày (thổ canh) để trồng các
loại cây lương thực, thực phẩm và chăn nuôi. Người Mông là những người thợ
thủ công lành nghề trong việc trồng lanh dệt vải, đan lát, làm đồ gỗ, rèn sắt…
1.2.6. Đồng bào Sán Chí:
Người Sán Chí sống trong các thung lũng, sườn đồi làm nghề nông như
đồng bào các dân tộc Tày - Nùng. Người Sán Chí có dân số ít ỏi chỉ khoảng
15 hộ từ huyện Pắc Nặm xuống sinh sống lẫn với khu vực của người Dao ở
quanh dãy Phja Bjoóc.
1.3. Sự biến đổi địa danh - địa giới huyện Ba Bể qua các thời kỳ lịch sử
Thời Hùng Vương, vùng đất là huyện Ba Bể ngày nay thuộc bộ Vũ
Định, một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang.
Trong một nghìn năm Bắc thuộc, thời thuộc Hán, Ba Bể thuộc vào quận
Giao Chỉ, sang đời nhà Đường (thế kỉ VIII - IX - X) Ba Bể là vùng đất thuộc
Châu Long, sau đó thuộc châu Võ Nga.
Thời Đinh, Tiền Lê (thế kỉ X) chia các đơn vị hành chính làm 10 đạo.
Đến đời nhà Lý, khi Lý Thái Tổ lên ngôi (1010) xây dựng lại nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền đã đổi 10 đạo thời Đinh, Tiền Lê thành 24 lộ, lúc
đó vùng đất Ba Bể nằm trong châu Thái Nguyên, sau đó thuộc châu Vũ Lặc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
19
Đến đời nhà Trần, vào năm Thiên ứng chính bình thứ 11 (1242) nhà
nước chia đặt lại các đơn vị hành chính, đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ.Về
phương diện hành chính, Ba Bể vẫn nằm trong châu Thái Nguyên và nằm
trong Như Nguyệt Giang Lộ (gồm miền thượng lưu sông Cầu, Yên Thế và
Thái Nguyên). Vào năm Quang Thái thứ 10 (1397), châu Thái Nguyên được
đối thành trấn.Trong cuốn sách “Đất nước Việt Nam qua các đời” nhà học giả
Đào Duy Anh đã xác định địa giới như sau:
“Đại để trấn Thái Nguyên lúc đó là tương đương với tỉnh Thái Nguyên,
Bắc Kạn, và nửa phía nam của tỉnh Cao Bằng ngày nay” [1, tr.150].
Vào thời thuộc Minh, năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), trấn Thái Nguyên lại
đổi thành phủ Thái Nguyên lĩnh 11 huyện.Từ năm Tuyên Đức (niên hiệu của
Minh Tuyên Tông (từ 1426 -1434) về sau vẫn lấy đất phủ Thái Nguyên đặt
làm “Thái Nguyên thừa chính ty”, coi 3 phủ là phủ Thái Nguyên, phủ Phú
Bình, phủ Thông Hoá (Bắc Kạn ngày nay).
Năm 1428, Vương triều Lê được thành lập, Lê Thái Tổ chia cả nước
thành 5 đạo, Vùng đất Bắc Kạn lúc đó thuộc Bắc Đạo. Đến năm Quang Thuận
thư 7 (1466) Lê Thánh Tông định lại bản đồ cả nước, chia thành 12 đạo thừa
tuyên, đất Bắc Kạn và Ba Bể thuộc Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm Quang
Thuận thư 10 (1469) lại đổi Thái Nguyên Thừa Tuyên thành Ninh Sóc Thừa
Tuyên. Theo sách Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu thì “Ninh
Sóc Thừa Tuyên lúc đó lĩnh 3 phủ là phủ Cao Bằng, phủ Thông Hoá và phủ
Phú Bình”. Cũng theo sách trên, riêng phủ Thông Hoá có: “1 huyện là huyện
Cảm Hoá (gồm 50 xã và 10 trang) và 1 châu là châu Bạch Thông (gồm 70 xã
và 3 trang) huyện Ba Bể là đất của ba tổng thuộc châu Bạch Thông. Vào thời
kỳ này lần đầu tiên một đơn vị hành chính của huyên Ba Bể là Chợ Rã đã xuất
hiện với tên gọi riêng trong một tài liệu chính thống của triều đình với tên gọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
20
Chợ Slo. Tên gọi này xuất hiện trong tác phẩm Dư địa chí của Nguyễn Trãi ở
mục Thái Nguyên thổ sản.
Đời Hồng Đức thứ 21 (1483), vùng đất Ba Bể hiện nay vẫn thuộc xứ
Thái Nguyên. Từ thời Lê Trung Hưng đến hết thời Nguyễn Gia Long (1802 1814) xứ Thái Nguyên lệ thuộc vào Bắc Thành, vùng đất Bắc Kạn vẫn thuộc
trấn này.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đất nước được chia thành các tỉnh hạt,
trấn Thái Nguyên lúc đổi được đổi tên thành tỉnh Thái Nguyên. Sách “Đại
Nam nhất thống chí” (1882) đã ghi lại phạm vi của châu Bạch Thông lúc đó
như sau: “ở cách phủ 41 dặm v ề phía Tây; đông tây cách nhau 271 dặm, nam
bắc cách nhau 283 dặm; phía đông đến địa giới châu Vũ Nhai phủ Phú Bình
188 dặm, phía tây đến điạ giới châu Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang 83 dặm,
phía nam đến địa giới huyện Phú Lương và châu Định phủ Tùng Hoá 100
dặm, phía Bắc đến địa giới huyện Vĩnh Điện tỉnh Tuyên Quang 103 dặm. Từ
đời Trần về trước, gọi là huyện Vĩnh Thông; thời thuộc Minh vẫn theo như
thế, lệ phủ Thái Nguyên; đời Lê đổi tên hiện nay và gọi là châu, lệ phủ Tùng
Hoá, do phiên thần họ Hoàng nối đời quản trị; bản triều đầu đời Gia Long
vẫn theo như thế; năm Minh Mệnh thứ 16 đổi đặt lưu quan. Lãnh 9 tổng, 60
xã” [7, tr.153-155]. Huyện Ba Bể khi đó thuộc châu Bạch Thông, phủ Thông
Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Thời kỳ này một loạt địa danh của huyện Ba Bể đã
xuất hiện trong chính sử của triều đình như các đợn vị hành chính chính thức:
Chợ Hạ Hiệu, Chợ Quảng Khê, phố Chợ Rã [7, tr.176]
Như vậy, đến thời điểm này vùng đất Bắc Kạn nằm trong địa hạt tỉnh
Thái Nguyên.
Đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) tỉnh Thái Nguyên gồm 3 phủ là:
phủ Tòng Hoá, phủ Phú Bình, phủ Thông Hoá. Bắc Kạn ngày nay về cơ bản
vẫn là đất phủ Thông Hoa gồm châu Bạch Thông (nay là đất các huyên Bạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
21
Thông, Chợ Đồn, Chợ Rã (tức huyện Ba Bể), huyện Cảm Hoá (nay thuộc địa
phận các huyện Na Rì, Ngân Sơn, vùng Phủ Thông của huyện Bạch Thông).
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX đã xác định giới hạn
huyện gồm có ba tổng với các xã sau:
“- Tổng Thượng Giáo có 9 xã: Địa Linh, Công Bật, Xuân Phương, Cao
Trĩ, Bành Trạch, Hồng La, Bạo Thị, Nhạn Môn, Nhân Thiếp.
- Tổng Hạ Hiệu có 7 xã, trang: Hạ Hiệu, Chư Hoa, Cao Thượng,
Nghiêm Loan, Bằng Thành, Cổ Đạo, Da Nham.
- Tổng Quảng Khê có 6 xã, trang: Quảng Khê, Bằng Châu, Đồng Phúc,
Nam Mẫu, Xuân Cưu, trang Mỹ Hoá Bán” [36, tr.82].
Sách Đồng Khánh dư địa chí đã chú thích rõ về duyên cách của châu
Bạch Thông như sau: “Châu Bạch Thông đời Lý -Trần là đất huyện Vĩnh
Thông, đới thuộc Minh đổi làm châu Vình Thông. Năm Quang Thuận 7
(1466) đời Lê Thánh Tông đổi làm châu Bạch Thông, đặt thuộc phủ Thông
Hoá. Qua các triều đại sau đều không thay đổi. Nay là các huyện Bạch
Thông, Chợ Đồn, Ba Bể tỉnh Bắc Kạn” [10, tr.818-819]
Cũng theo sách trên, huyện Ba Bể vào thời điểm đó gồm 23 xã thôn
thuộc ba tổng như sau:
“- Tổng Quảng Khê, 6 xã:
1.Xã Quảng Khê
2. Xã Đồng Phúc
3. Xã Mỹ Hoá
4. Xã Xuân Ổ
5. Xã Bằng Châu
6. Xã Nam Mẫu
- Tổng Thượng Giáo,11 xã:
1. Xã Thượng Giáo
2. Xã Công Bật
3.Xã Bộc Bố
4. Xã Xuân Phương
5. Xã Xuân La
6. Xã Nhạn Môn
7. Xã Nhân Tiếp
8. Xã Bành Trạch
9. Xã Địa Linh
10. Xã Truyền Cố
11.Xã Cao Trĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
22
- Tổng Hạ Hiệu, 7 xã:
1. Xã Hạ Hiệu
2. Xã Dạ Nham
4. Xã Chư Hương
5.Xã Cao Thượng
6. Xã Cổ Đạo
7. Xã Bằng Thành” [10, tr.819]
3. Xã Nghiêm Loan
Sau khi đánh chiếm và áp đặt bộ phận cai trị trên địa phận Thái Nguyên,
thực dân Pháp đã nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính. Trong vòng 4 năm từ
1896 đến 1900 thực dân Pháp tiếp tục phân chia địa giới hành chính của các
châu Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hoá, Cảm Hoá. Theo nghị định ngày 20 -8
- 1891 của Toàn quyền Đông Dương, địa bàn Bắc Kạn thuộc 2 đạo quan binh:
Phần phía đông và nam thuộc Tiểu quân khu Thái Nguyên (Đạo quan binh I)
và phần bắc thuộc Tiểu quân khu Lạng Sơn (Đạo quan binh II).
Đến ngay 11 - 4 -1900, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phần
đất thuộc phủ Thông Hoá thành lập tỉnh Bắc Kạn gồm 4 châu (sau đổi thành
huyện) là: Bạch Thông, Chợ Rã (sau là huyện Ba Bể), Thông Hoá (sau đổi
thành Na Rì) và Cảm Hoá (sau đổi thành Ngân Sơn). Huyện Ba Bể với tư
cách là một đơn vị hành chính riêng của tỉnh Bắc Kạn lần đầu tiên xuất hiện.
Theo tác phẩm Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của tác giả Ngô Vi
Liễn xuất bản năm 1938, đến đầu thế kỷ XIX, huyện Ba Bể có tên là châu
Chợ Rã, đất đai về cơ bản vẫn là ba tổng Thượng Giáo, Hạ Hiệu, Quảng Khê
và xã Hoàng Trĩ thuộc tổng Nhu Viễn xưa.
Năm 1916, theo nghị định của thống sứ Bắc Kỳ, một số tổng của châu
Bạch Thông, Chợ Rã và tổng An Biên Thượng thuộc Định Hoá (Thái
Nguyên) tách ra lập thành châu Chợ Đồn. Từ đó đến Cách mạng tháng Tám,
địa giới tỉnh Bắc Kạn được định hình 5 châu, 1 thị xã. Các châu lại chia thành
20 tổng và 103 xã.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
23
Do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, từ năm 1965 đến năm 1997 địa giới
tỉnh Bắc Kạn cũng có sự điều chỉnh.Ngày 21-4-1965 Uỷ ban thường vụ Quốc
hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam) ra quyết định số 103-QN-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở
hợp nhất 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Vào thời điểm này dân số tỉnh Bắc
Kạn có 112.500 người.
Ngày 29- 12- 1978, kì họp thứ 4 Quốc hội khoá IV nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết nghị phân định địa giới giữa Bắc Thái và
Cao Bằng, tách 2 huyện Chợ Rã, Ngân Sơn thuộc tỉnh Bắc Thái nhập vào tỉnh
Cao Bằng. Đến năm 1984 huyện Chợ Rã được đổi tên thành huyện Ba Bể:
"Theo quyết định số 144 – HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 06 -11 – 1984,
tên huyện Chợ Rã thuộc tỉnh Cao Bằng được đổi tên thành huyện Ba Bể, gắn
với danh lam thắng cảnh nổi tiếng của dịa phương là hồ Ba Bể” [17; tr.45].
Để đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc và yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, ngày 6- 11- 1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoa IX kì họp thứ 10 đã phê chuẩn việc phân chia lại địa giới hành chính của
một số tỉnh, trong đó chia tỉnh Bắc Thái thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc
Kạn. Tỉnh Bắc Kạn được tái thành lâp bao gồm 2 huyện Ba Bể, Ngân Sơn của
tỉnh Cao Bằng và 4 huyện thị của tỉnh Bắc Thái là thị xã Bắc Kạn, huyện Na
Rì, huyện Chợ Đồn, huyện Bạch Thông. 9 xã phía bắc của huyện Phú Lương
(gồm các xã: Nông Thịnh, Nông Hạ, Yên Hân, Yên Cư, Thanh Bình, Bình
Văn, Như Cố, Yên Đĩnh, Quảng Chu ) và thị trấn Chợ Mới đã được nhập trở
lại huyên Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn. Huyện Ba Bể sau 18 năm sát nhập vào
tỉnh Cao Bằng lại trở về là một đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Kạn. Từ đó
cho tới nay nhân dân huyện Ba Bể dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đã
phân đấu xây dựng cuộc sống và quê hương ngày càng giầu đẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
24
Tiểu kết: Trên cơ sở khái quát về huyện Ba Bể, chúng ta có thể thấy: Ba
Bể là vùng đất cổ có truyền thống lịch sử lâu đời. Từ xưa nơi đây đã có con
người sinh sống, nhiều địa danh của huyện như chợ Hạ Hiệu, Quảng Khê…từ
sớm đã xuất hiện trong lịch sử. Ba Bể cũng là nơi có điều kiện tự nhiên đặc
trưng của miền núi, với hơn 90% diện tích là đồi núi nhưng Ba Bể có một số
cánh đồng rộng, được phù sa các con sông lớn bồi đắp. Đây là điều kiện tốt
phát triển nông - lâm nghiệp kết hợp. Với năm dân tộc anh em cùng đoàn kết
sinh sống và xây dựng quê hương, tạo thành bản sắc văn hoá đa dân tộc
phong phú và sinh động trên mảnh đất này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
25
CHƢƠNG 2
TÌNH HÌNH RUỘNG ĐẤT HUYỆN BA BỂ
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
2.1. Tình hình ruộng đất huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX
2.1.1. Tình hình ruộng đất huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ
XIX theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
§Þa bạ là công cụ để nhà nước quản lý ruộng đất, đồng thời là nguồn tư
liệu phong phú về nhiều mặt, đặc biệt và trực tiếp nhất là cung cấp bức tranh
về ruộng đất nông nghiệp xưa. Từ trước đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về tác dụng của địa bạ đối với nông nghiệp, có thể khái quát như sau.
“ - Tình hình khai phá và sử dụng ruộng đất, đặc điểm của nền nông
nghiệp cổ truyền.
- Chế độ sở hữu ruộng đất với các hình thái sở hữu rất phức tạp như sở
hữu nhà nước, sở hữu làng xã (công điền, công thổ), sở hữu tư nhân, sở hữu
cộng đồng của họ, phe, giáp, đình, chùa, đền, miếu...
- Tình trạng chiếm hữu ruộng đất và sự phân hóa xã hội ở nông thôn, kết
cấu xã hội và các giai tầng trong làng xã, mức độ sở hữu ruộng của tầng lớp
quan lại, nho sĩ, chức dịch...
- Thống kê các dòng họ và sự phân bố theo các khu vực, góp phần
nghiên cứu các quan hệ cộng đồng huyết thống và làng giềng, kết hợp với các
tư liệu gia phả và đinh bạ nghiên cứu dân số học lịch sử....” [18, tr.9]
Từ quan điểm trên, chúng ta thấy tư liệu gốc chính xác nhất để phục
dựng lại “bức tranh” về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện Ba
Bể tỉnh Bắc Kạn nửa đầu thế kỷ XIX là các đơn vị địa bạ. Các địa bạ mà
chúng tôi sưu tầm được đều là các địa bạ được lập vào đầu triều Nguyễn ở các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
26
niên đại: Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) với tổng số có 22 đơn
vị địa bạ.
Các địa bạ trên đều là bản chính viết bằng chữ Hán hiện được lưu tại
Trung tâm lưu trữ quốc gia I, Hà Nội. Có 22 xã trên tổng số 24 xã của huyện, ở
nửa đầu thế kỷ XIX, có địa bạ Minh Mệnh 21. Trong đó có 1 địa bạ được lập
vào thời điểm Gia Long 4 và 21 địa bạ được lập vào thời điểm Minh Mệnh 21
Bảng 2.1. Thống kê địa bạ huyện Ba Bể nửa đầu thế kỉ XIX.
Tên làng xã
Tên tổng
Quảng Khê
Thượng Giáo
Hạ Hiệu
Tên xã
Nam Mẫu
Quảng Khê
Bằng Châu
Gia Long 4
(1805)
Minh Mệnh 21 (1840)
X
X
X
Đồng Phúc
X
Tr. Mỹ Hoà Bán
X
Xuân Ổ
X
Truyền Cố
Cao Trĩ
X
X
Thượng Giáo
X
Giao Lang
X
Địa Linh
X
Hồng La
X
Xuân Phương
X
Nhân Tiếp
X
Bộc Bố
X
Cổ Đạo
X
Chư Hoa
Bằng Thành
X
X
Cao Thượng
X
Nghiêm Loan
X
Hạ Hiệu
Dạ Nham
Tổng Cộng 22 xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
X
1
X
21
http://www.lrc-tnu.edu.vn
27
Như vậy chúng ta nhận thấy rằng địa bạ huyện Ba Bể vào thời điểm nửa
đấu thế kỷ XIX chỉ có một địa bạ Gia Long trong khi thời Minh Mệnh có 21
địa bạ chiếm số lượng áp đảo. Vì sao lại có tình trạng như vậy ?
Chúng ta đều biết rằng, năm 1802 triều Nguyễn thành lập đã cho lập địa
bạ các trấn Bắc Hà, tức vùng Đàng Ngoài thuộc quyền cai quản của chúa
Trịnh trước đây. Các địa bạ này được hoàn thành vào năm 1805[19,tr.27].
Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ nhà Nguyễn mới được thành lập bên cạnh việc
bắt tay xây dựng chính quyền mới còn phải ổn định tình hình và đối phó với
những tàn dư của vương triều Tây Sơn còn sót lại. Sử cũ đã ghi lại ngay sau
khi Gia Long lên ngôi các cuộc khởi nghĩa của tưởng lĩnh Tây Sơn cũ đã
bùng nổ. Có thể kể đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Tuyết ở Kim Môn
(Hải Dương) vào năm 1803, và đặc biệt là khởi nghĩa ở Thái Nguyên đã lôi
kéo và khuyến khích phong trào đấu tranh ở vùng núi phía Bắc. “Ngay sau
khi vua Gia Long vừa lên ngôi, một số tướng lĩnh của Tây Sơn ẩn náu trong
vùng rừng núi Thái Nguyên liên kết với các lực lượng ở địa phương, nổi dậy
chống lại triều đình mới. Cùng với các cuộc nổi dậy ở Thái Nguyên, phong
trào ở Tuyên Quang cũng phát triển khá mạnh…” [29,tr.184].
Tình hình nhiều biến động ở vùng rừng núi phía Bắc có thể lý giải về sự
ít ỏi của địa bạ huyện Ba Bể thời Gia Long. Mặt khác, lịch sử nhà Nguyễn
cũng ghi nhận sự thiếu hụt về địa bạ các địa phương trong nước khi lập địa bạ
đầu thời Gia Long: “…Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) cho lập địa bạ ba trấn
Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, các địa phương “không biết vì sao” đã có lệnh
làm địa bạ từ năm Gia Long thứ 3 (1804) mà “giữa chừng lại thôi” [35,tr.15]
Trước tiên chúng ta sẽ cùng xem xét về quy mô sở hữu ruộng đất của
huyện Ba Bể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
Bảng 2.2: Thống kê địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu, sào, thước, tấc, phân)
Tên làng xã
Số
TT
Tên
tổng
Tên xã
Tổng diện
tích ruộng
đất
Các loại
đất khác
Tƣ điền
Lƣu
Hoang
Thổ
trạch, Thần
từ,
Thực trƣng viên trì
phật
tự
21.7.7.5
140.0.3.4
167.2.3.6
19.2.7.5
136.0.3.4
162.7.3.6
2.5.0.0
4.0.0.0
4.5.0.0
Đồng Phúc
255.5.1.4
250.5.1.4
5.0.0.0
21.8.6.8
21.8.6.8
6
7
Tr. Mỹ Hoà
Bán
Xuân Ổ
Truyền Cố
67.0.7.1
19.7.9.1
65.0.7.1
2.0.0.0
2.4.0.0
8
Cao Trĩ
375.5.12.1
4.5.0.0
(*)
5.0.0.0
1.0.0.0
5
9
10
11
12
Thượng Giáo
4
Quảng Khê
Nam Mẫu
Quảng Khê
Bằng Châu
1
2
3
17.3.9.1
380.0.12.1
Thượng Giáo
Giao Lang
208.3.5.7
29.7.14.0
Địa Linh
241.3.9.8
236.8.4.8
4.5.5.0
Hồng La
59.3.4.8
56.3.4.8
3.0.0.0
51.8.1
28.7.14
151.5.4.7
Xuân Phương
Nhân Tiếp
210.9.13.9
101.4.2
203.2.13.9
101.4.2
15
16
Bộc Bố
Cổ Đạo
58.2.6.3
150.2.3.7
58.2.6.3
147.1.3.7
17
18
Chư Hoa
Bằng Thành
301.8.14.7
286.8.14.7 9.0.0.0 6.0.0.0
62.0.9.4 24.2.13.7.2 33.2.10.6.8 4.5.0.0
Cao Thượng
145.5.13.4
138.5.13.4
7.0.0.0
Nghiêm Loan
Hạ Hiệu
Dạ Nham
56.3.13.8
123.0.5
90.6.14.7
53.3.13.8
118.0.5
87.6.14.7
3.0.0.0
5.0.0.0
3.0.0.0
19
20
21
22
Hạ Hiệu
13
14
Tổng
Cộng: 3
22
2912.6.2.2 123.0.7.8.2 2703.6.4.3.8
Tha
ma
mộ
địa
0.7.0.0 6.2.0.0
3.1.0.0
73.0.5
6.7.0.0 6.2.0.0
(*)(2 m thần từ)
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
29
Bảng 2.3: Tình trạng phân bố các loại ruộng đất của huyện Ba Bể
theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
1
Diện tích
Loại ruộng
STT
(m.s.th.t)
-Tư điền:
Tỷ lệ (%)
2826.6.12.2
97,08
+ Thực trưng:
2703.6.4.3.8
92,85
+ Lưu hoang:
123.0.7.8.2
4,23
2
- Thổ trạch, viên trì:
73.0.5.0
2,50
3
- Các loại đất khác:
12.9.0.0
0,42
+ Thần từ, phật tự:
6.7.0.0
0,21
+ Tha ma, mộ địa:
6.2.0.0
0,21
2912.6.2.2
100,00
Tổng:
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840
2.5%
Tư điền
Thổ trạch, viên trì
Các loại đất khác
0.42%
97.08%
Biểu đồ 2.1. Sự phân bố ruộng đất ở huyện Ba Bể
Trên cơ sở phân tích, thống kê, xử lý số liệu của 22 xã có địa bạ Minh
Mệnh 21 cho phép chúng ta hình dung về số lượng, tỷ lệ phần trăm của các
loại ruộng đất của huyện Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX. Tư liệu địa bạ đã cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
30
thấy 100% diện tích đất đai của huyện là tư điền và tư thổ chứ không có ruộng
đất công. Trên thực tế phần thực trưng chiếm 92,85%, phần lưu hoang chỉ
chiếm tỷ lệ là 4,23%, trong đó 100% là điền chứ không phải là thổ. Khi chúng
ta so sánh với tỷ lệ phần trăm của 8 tỉnh đồng bằng sông Hồng là 21,75% [32,
tr.26,30] thì tỷ lệ lưu hoang của huyện Ba Bể là nhỏ hơn rất nhiều. Tuy nhiên
đặc điểm cơ bản của tình hình lưu hoang ở đây là hiện tượng lưu hoang cả
một xã như hai xã Truyền Cố, Giao Lang. Ngoài ra, số ruộng lưu hoang ở các
xã khác là tương đối lớn, như ở xã Thượng Giáo diện tích lưu hoang chiếm
24,51%, ở xã Bằng Thành con số đó là 38,70%. Chúng ta có thể lý giải hiện
tượng trên là hậu quả của các cuộc chiến tranh nông dân kéo dài ở thời kỳ
cuối Lê - đầu Nguyễn để lại. Đặc biệt là ảnh hưởng từ cuộc khởi nghĩa của
Nông Văn Vân (7/1833-3/1835). Theo tác phẩm Lịch sử Đảng bộ huyện Ba
Bể (tập1), huyện Ba Bể thời gian này chính là địa bàn hoạt động của nghĩa
quân Nông Văn Vân. Trên địa bàn huyện cũng đã nổ ra những trận đánh hết
sức quyết liệt giữa quân triều đình và nghĩa quân. Tiêu biểu là trận đánh bại
đạo quân Thái Nguyên của triều đình nổ ra trên địa bàn xã Bằng Thành
[29,tr.43].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
31
Bảng 2.4: So sánh diện tích ruộng đất Ba Bể với một số huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên
có địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
Huyện Ba bể
Loại ruộng
Diện tích
Tỷ lệ
2826.6.12.2
- Thực trưng
2703.6.4.3.8 92,85
- Lưu hoang
123.0.7.8.2
viên trì
Các loại đất
khác
Tổng diện
tích
Diện tích
(%)
Tư Điền
Thổ trạch,
Huyện Chợ Đồn
97,08
Tỷ lệ
(%)
1510.2.14.1 99,9
1508.7.3.5
4,23
Huyện
Phú Lƣơng
Diện tích
Tỷ lệ
(%)
Huyện Đại Từ
Diện tích
Tỷ lệ
(%)
Huyện Ngân Sơn
Diện tích
Tỷ lệ
(%)
1939.2.4.6 59,71 2161.8.8.4 88,96 1766.4.9.3 95,87
96,1 1148.7.02.0 58,05 1918.7.4.6 86,93 1766.4.9.3 95,87
1.5.10.6
0,1
797.3.10.6 40,29
243.9.3.8
11,04
0.0.0.0
0
73.0.5
2,50
60.4.00
3,8
3.9.14.0
0,21
36.7.4.0
1,67
75.9.2.5
4,13
12.9
0,42
1.5.10.6
0,1
2.8.09.0
0,14
8.0.8.6
0,36
0.0.0.0
0
2912.6.2.2
100
1570.6.14.1 100 1978.9.02.1 100
[37,tr.24]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
[2,tr.26]
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2207.4.6.0
100 1842.3.11.8 100
[38,tr.34]
[16,tr.35]
32
Qua số liệu thống kê nêu trên, chúng ta có thể thấy diện tích ruộng đất ở
Ba Bể thuộc loại tương đối lớn so với địa bàn các huyện miền núi Thái
Nguyên khác. Diện tích thổ trạch viên trì thuộc loại lớn nhưng diện tích các
loại đất khác là đất thần từ, phật tự và đất tha ma mộ địa lại tương đối nhỏ.
Hiện tượng ruộng đất lưu hoang vẫn còn lớn chứng tỏ tình hình xã hội có
nhiều biến động. Diện tích tư điền của Ba Bể chiếm 97,08% đối chiếu với
bảng so sánh như trên là rất lớn chỉ đứng sau Chợ Đồn, điều đó thể hiện mức
độ tư hữu hoá cao. Nếu đem so sánh với những vùng đồng bằng con số này
còn ấn tượng hơn nữa: “Số liệu thống kê cho thấy sở hữu tư nhân ở Hà Đông
đầu thế kỷ XIX chiếm 65,34% trong tổng số ruộng đất. Biết rằng cùng vào
khoảng thời gian đó, tỷ lệ ruộng tư trên quy mô cả nước chiếm 82,9%” [19, tr.24].
Mức sở hữu tư nhân của huyện Ba Bể cao hơn hẳn mức bình quân của cả nươc.
Bảng 2.5: Thống kê các loại ruộng đất phân theo đẳng hạng (1840)
STT
Hạng ruộng
Diện tích
Tỷ lệ (%)
1
Hạng 2
8.7.0.0
0,29
2
Hạng 3
2897.9.12.9.
99,70
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Căn cứ vào các số liệu trên, chúng ta có thể thấy ruộng đất ở Ba Bể chủ
yếu là ruộng loại 3 (tam đẳng) chiếm 99,70%, còn lại ruộng loại 2 (nhị đẳng)
chỉ có 8.7 mẫu chiếm 0,29%. Tất cả ruộng loại 2 đều là ruộng thần từ, phật tự.
Loại ruộng này tuy chiếm vị trí rất nhỏ bé nhưng là những thửa ruộng mầu
mỡ nhất, được giao cho nhân dân trong xã cùng canh tác lấy hoa mầu cúng
chùa như 6 mẫu ở xã Chư Hoa, 7 sào ở xã Xuân Phương, hoặc được giao cho
một người thường là người trông coi chùa chiền như 2 mẫu ở xã
Thượng Giáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
33
Bảng 2.6: Quy mô sở hữu ruộng đất của các xã thôn thuộc huyện Ba Bể
theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
ơ
STT
Xã thôn
Dƣới 50
mẫu
Quy mô sở hữu
50->100 100->
200->
300->
mẫu
200 mẫu 300 mẫu 500 mẫu
Tổng Quảng Khê (6)
1 Nam Mẫu
1
2 Quảng Khê
1
3 Bằng Châu
1
4 Đồng Phúc
1
5 Tr. Mỹ Hoà Bán
1
6 Xuân Ổ
1
Tổng Thượng Giáo (9)
7 Truyền Cố
1
8 Cao Trĩ
9 Thượng Giáo
1
10 Giao Lang
1
11 Địa Linh
1
12 Hồng La
1
13 Xuân Phương
1
14 Nhân Tiếp
1
15 Bộc Bố
1
Tổng Hạ Hiệu (7)
16 Cổ Đạo
1
17 Chư Hoa
18 Bằng Thành
1
19 Cao Thượng
1
20 Nghiêm Loan
1
21 Hạ Hiệu
1
22 Dạ Nham
1
Tổng cộng:
4
6
6
4
21 xã thôn =100%
(18,18%) (27,27%) (27,27%) (18,18%)
1
1
1
(10%)
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
34
2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư
Trên địa bàn huyện Ba Bể, theo tài liệu địa bạ hoàn toàn không có ruộng
đất công, chủ yếu là ruộng đất tư. Chúng ta nói tới tình hình sở hữu ruộng đất
tư thực ra cơ bản là nói về sở hữu ruộng tư.
Bảng 2.7: Quy mô sở hữu ruộng tƣ
Quy mô sở
hữu
Số chủ
< 1 mẫu
Tỷ lệ
Diện tích sở hữu
(%)
(m.s.th.t)
Tỷ lệ (%)
2
0,42
1.3.7.5
0,04
1->5 mẫu
184
38,90
608.4.10.1.8
22,50
5->10 mẫu
258
54,54
1758.6.11.6
65,06
10->20 mẫu
29
6,14
335.1.5.1
12,40
Tổng cộng
473
100
2703.6.4.3.8
100,00
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
12.4%
0.04%
22.5%
65.06%
< 1 mẫu
1 ->5 mẫu
5->10 mẫu
10->20 mẫu
Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tƣ
Từ bảng số liệu trên, chúng ta thấy số người sở hữu dưới 1 mẫu rất ít,
chỉ có 0,42% và chiếm tỷ lệ 0,04% trên tổng số diện tích..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
35
Số người sở hữu từ 1 đến 5 mẫu chiếm 38,90% trên tổng số chủ sở hữu
và chiếm 22,5% diện tích ruộng. Có tới 65,06% ruộng đất nằm trong tay tầng
lớp khá giả từ 5 đến 10 mẫu chiếm 54,54% số người sở hữu.
Số người sở hữu từ 10 đến 20 mẫu chiếm 6,14% số chủ sở hữu và 12,4%
số ruộng.
Như vậy nhìn vào tình trạng sở hữu tư điền của Ba Bể năm 1840 với sự
có mặt của 473 chủ ruộng, trên tổng diện tích là 2703.6.4.3.8 thì mức bình
quân một chủ sẽ là 5.7.2.3.8. Mức bình quân sở hữu cao nhất là xã Cao Trĩ
với 10.1.7.6/người, và thấp nhất là xã Nam Mẫu, nơi có diện tích nhỏ nhất là
1.6.0.6/người.
Hiện tượng chủ ruộng là các chức sắc chiếm diện tích lớn về ruộng đất
vẫn xẩy ra. Ví dụ:
Dịch mục Ma Thế Lưu ở xã Bằng Châu có nhiều ruộng đất nhất xã với
14 mẫu 1 sào 9 thước
Hương mục Gia Hữu Quýnh với 11 mẫu chiếm diện tích lớn nhất xã Bộc
Bố.Quy mô sở hữu ruộng tư của Ba Bể đặt trong không gian miền núi phía
Bắc được thể hiện qua bảng sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
36
Bảng 2.8: So sánh quy mô sở hữu ruộng đất tƣ của các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Phú Lƣơng, Đại Từ và Ngân Sơn
Quy mô sở
hữu
<1 mẫu
Huyện Ba bể
Số
chủ
Diện tích
Huyện Chợ Đồn
Số
chủ
Diện tích
Huyện Phú Lƣơng
Số
chủ
Diện tích
Huyện Đại Từ
Huyện Ngân Sơn
Số
Số
chủ
Diện tích
chủ
Diện tích
2
1.3.7.5
1
0.9.00
2
1.7.00
1->5 mẫu
184
608.4.10.1.8
53
155.3.4.5
56
161.2.5.9
5->10 mẫu
258
1758.6.11.6
102
804.4.10.6
30
207.6.13.3
10->20 mẫu
29
335.1.5.1
29
400.1.1.1
24
331.9.2.0
44
687.1.6.8
47
603.1.6.6.0
6
147.9.2.3
7
187.2.13.0
25
602.7.8.8
7
180.5.8.3.0
3
163.8.14.1
6
232.3.4.4
122
993.7.3.3
141 1918.7.4.6
247 1766.4.9.3.0
[2,tr.29]
[38,tr.35]
[16,tr.36 ]
20->30 mẫu
30->50 mẫu
Tổng cộng
473
2703.6.4.3.8
191
1508.7.3.5
[37,tr. 27 ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
28
113.1.3.8
38 283.3.10.8
4
2.9.8.2.0
80
264.6.3.3.0
109 715.1.12.9.0
37
Trên cơ sở phân tích bảng thống kê trên chúng ta có thể nhận thấy một
đặc điểm chung là các huyện miền núi phía bắc Thái Nguyên xưa ít có những
đại điền chủ tập trung trong tay nhiều ruộng đất. Khi so sánh với một huyện
miền cao là Quảng Hoà (Cao Bằng), ta thấy tuyết đại đa số các chủ ruộng nêu
trên không một ai vượt qua 50 mẫu và tỷ lệ phần trăm rất nhỏ bé. Số chủ sở hữu
30->50 mẫu ở Phú Lương là 3 người chiếm 2.22%, ở Đại Từ là 6 người chiếm
4,26%, trong khi đó ở Quảng Hoà có chủ sở hữu tới 70 mẫu ruộng [41, tr.77].
Ngay cả khi so sánh với một huyện miền xuôi là Phú Bình, tỷ lệ cũng rất
chênh lệch. Số chủ sở hữu từ 30-50 mẫu ở Phú Bình là 7 người chiếm 0,43%,
nhưng nắm 3,13% diện tích, số chủ sở hữu lớn hơn 50 mẫu là 2 người nắm
giữ 1,36 % diện tích. Trong khi đó ở Ba Bể không có chủ ruộng nào vượt quá
20 mẫu.
Tình trạng đất đai tập trung trong tay giai cấp địa chủ quyền quý chứng
tỏ hiện tượng bao chiếm ruộng đất vẫn tồn tại
Mặc dù phần đầu trong quá trình đối sánh với các địa phương lân cận,
chúng ra đã thấy sự tư hữu hoá cao về ruộng đất tư nhưng ở Ba Bể chưa có sự
tập trung sở hữu lớn ruộng đất trong tay các địa chủ. Nếu so sánh với một địa
phương đồng bằng Bắc Bộ là Thái Bình thì điều đó sẽ sáng rõ: “Trong khi đó
sở hữu tư nhân ở Bắc Bộ có những đặc điểm khác biệt…, trong đó số chủ sở
hữu trên 5 mẫu chiếm tới 63,2% và số ruộng của họ chiếm gần hết tổng số
ruộng tư (88,9%). Hơn nữa, ruộng đất tập trung chủ yếu vào các lớp chủ sở
hữu có từ 10 mẫu ruộng trở lên (hơn 64%), đặc biệt, đối với lớp chủ sở hữu
trên 50 mẫu ruộng thì tỷ lệ ruộng đất của họ gấp gần 7 lần tỷ lệ phần trăm của
họ so với tổng số chủ” [35, tr.14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
38
Bảng 2.9: Bình quân sở hữu của một chủ ruộng
ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu, sào, thước, tấc, phân)
Tên
STT
Tổng
Tên Xã
Tƣ điền
Diện tích có
thể tính sở
hữu
Bình quân
Số
sở hữu một
chủ
chủ
Nam Mẫu
19.2.7.5
19.2.7.5
12
1.6.0.6
2
Quảng Khê
136.0.3.4
136.0.3.4
18
7.5.9.5
Bằng Châu
162.7.3.6
162.7.3.6
23
7.0.12.2
Đồng Phúc
250.5.1.4
250.5.1.4
31
8.2.6.3
Tr. Mỹ Hoà Bán
21.8.6.8
21.8.6.8
9
2.4.4.1
6
Xuân Ổ
65.0.7.1
65.0.7.1
18
3.6.2.0
7
Truyền Cố
17.3.9.1
8
Cao Trĩ
9
Thượng Giáo
4
5
10
11
12
Thượng Giáo
3
Quảng Khê
1
Giao Lang
0.0.0.0
375.5.12.1
375.5.12.1
37
10.1.7.6
203.3.5.7
151.5.4.7(*)
25
6.0.9.1
28.7.14
0.0.0.0
Địa Linh
236.8.4.8
236.8.4.8
41
5.7.11.4
Hồng La
56.3.4.8
56.3.4.8
11
5.1.3.1
203.2.13.9
203.2.13.9
48
4.2.5.2
Xuân Phương
14
Nhân Tiếp
101.4.2
101.4.2
11
9.2.2
15
Bộc Bố
58.2.6.3
58.2.6.3
10
5.8.3.6
16
Cổ Đạo
147.1.3.7
147.1.3.7
24
6.1.4.5
17
Chư Hoa
286.8.14.7
286.8.14.7
43
6.6.10.8
18
Bằng Thành
57.5.9.4
33.2.10.6.8
11
3.0.3.8.8
Cao Thượng
138.5.13.4
138.5.13.4
30
4.6.2.9
Nghiêm Loan
53.3.13.8
53.3.13.8
9
5.9.4.8
118.0.5
118.0.5
41
2.0.13.0
87.6.14.7
87.6.14.7
21
4.1.11.4
2703.6.4.3.8 473
5.7.2.3.8
19
20
Hạ Hiệu
13
21
Hạ Hiệu
22
Dạ Nham
Tổng cộng: 3 22
2912.6.22
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
39
Diện tích đất tư của Ba Bể chỉ chiếm 2,50%, tất cả đều là đất thổ trạch,
viên trì. Thổ trạch, viên trì là sở hữu tư nhân.Hầu hết các xã đều có tư thổ(trừ
Trang Mỹ Hoà Bán, Xuân Phương, Nhân Tiếp, Bộc Bố), tư thổ của Ba Bể
không chia cho từng chủ mà do bản xã đồng cư.
Bảng 2.10: Sự phân bố đất tƣ (thổ trạch, viên trì)
STT
Tên tổng
Tên xã
Thổ trạch, viên trì
(m.s.th.t)
Tỷ lệ (%)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Nam Mẫu
Quảng Khê
Quảng Bằng Châu
Khê
Đồng Phúc
Trang Mỹ Hoà Bán
Xuân Ổ
Truyền Cố
Cao Trĩ
Thượng Giáo
Giao Lang
Thượng Địa Linh
Giáo
Hồng La
Xuân Phương
Nhân Tiếp
Bộc Bố
2.5.0.0
4.0.0.0
4.5.0.0
5.0.0.0
0.0.0.0
2.0.0.0
2.4.0.0
4.5.0.0
5.0.0.0
1.0.0.0
4.5.5.0
3.0.0.0
0.0.0.0
0.0.0.0
0.0.0.0
11,52
2,86
2,69
1,96
0
2,98
12,18
1,18
2,4
3,37
1,86
5,05
0
0
0
16
17
18
19
20
21
22
Cổ Đạo
Chư Hoa
Bằng Thành
Hạ Hiệu Cao Thượng
Nghiêm Loan
Hạ Hiệu
Dạ Nham
3.1.0.0
9.0.0.0
4.5.0.0
7.0.0.0
3.0.0.0
5.0.0.0
3.0.0.0
2,06
2,98
7,26
4,87
5,33
4,06
3,31
Tổng Cộng: 3
22
73.0.5.0
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
40
- Các loại đất thần từ, phật tự:
Bảng 2.11: Sự phân bố đất thần từ, phật tự và đất tha ma mộ địa
ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu,sào, thƣớc, tấc,phân)
STT
Tên Tổng
Tên xã
Tổng diện
Đất thần
tích ruộng
từ, phật ma, mộ Tỷ lệ
Tha
đất (m.s.th.t)
tự
địa
(%)
6.2
3,28
1
Thượng Giáo Xuân Phương
210.9.13.9
0.7.0.0
2
Thượng Giáo
208.3.5.7
2.0.0.0
0,96
2
Hạ Hiệu
301.8.14.7
6.0.0.0
1,99
Thượng Giáo
Chư Hoa
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Các loại đất này tuy nhỏ bé nhưng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống
tâm linh của nhân dân các dân tộc huyện Ba Bể. Tất cả các ruộng thần từ,
phật tự đều là ruộng loại mầu mỡ nhất. Trên địa bàn huyện Ba Bể ruộng thần
từ, phật tự có hai loại hình canh tác chính. Một là giao cho bản xã cùng canh
tác như ở hai xã Xuân Phương và Chư Hoa. Hai là giao cho một chủ hộ canh
tác lấy hoa lợi cúng chùa như ở xã Thượng Giáo hai mẫu ruộng thần từ được
giao cho Hoàng Văn Dương canh tác. Điều này thể hiện rõ mối quan hệ giữa
ruộng đất và tín ngưỡng tôn giáo (xem mục 2.2.3)
- Quy mô sở hữu ruộng đất theo nhóm họ:
Số lượng nhóm họ trong sở hữu ruộng đất ở Ba Bể, so với các huyện lân
cận cùng thời điểm năm 1840 như Ngân Sơn, Chợ Đồn, là khá lớn 51 họ so
với 37 ở Ngân Sơn Và 27 ở Chợ Đồn. Sở dĩ như vậy vì bên cạnh các dòng họ
dân tộc thiểu số còn có sự xuất hiện của những dòng họ của người Kinh ở Ba
Bể, làm tăng thêm số lượng các nhóm họ nơi đây như: họ Nguyễn, họ Trần,
họ Đinh… chúng ta có thể lý giải điều này do từ sớm trên địa bàn huyện đã
xuất hiện những chợ buôn bán lớn được chính quyền thừa nhận, đề cập trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
41
sử sách như chợ Hạ Hiệu, chợ Quang Khê đã xuất hiện. “Đại nam nhất thống
chí” có ghi “Chợ Hạ Hiệu, chợ Quang Khê…Người Thanh, người Thổ, người
Kinh, người Nùng ở lẫn lộn, đều ở châu Bạch Thông” [7, tr.176]. Người Kinh
theo con đường buôn bán lên sinh sống nhiều hơn những nơi khác.
Bảng 2.12: Sở hữu ruộng đất theo nhóm họ
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
Nhóm họ
Bế
Bàn
Bùi
Cao
Chu
Dương
Đào
Đồng
Đổng
Đỗ
Đinh
Đàm
Hạ
Hà
Hoàn
Hia
Hoàng
Nguyễn
Lục
Tô
Vi
Ma
Lý
Gia
Tổng số chủ/Tỷ lệ
(%)
30
1
1
1
5
57
4
18
2
1
1
5
1
12
1
1
71
30
6
6
6
81
10
18
6,34
0,21
0,21
0,21
1,06
12,05
0,84
3,80
0,42
0,21
0,21
1,06
0,21
2,54
0,21
0,21
15,01
6,34
1,27
1,27
1,27
16,94
2,11
3,80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Diện tích
(m.s.th.t)
202.3.11.8
4.3.5.0
8.6.0.0
10.8.5.1
37.0.6.3
346.0.3.8
18.8.6.0
92.8.6.1
9.0.0.0
3.0.0.0
4.8.6.0
26.3.3.7
4.8.0.0
64.0.1.2
7.8.11.1
0.0.0.0
365.1.5
202.3.11.8
49.9.0.0
46.6.11.8.1
44.6.4.1
510.6.12.3.7
66.8.13.2
109.3.9.7
Tỷ lệ
(%)
7,53
0,15
0,30
0,37
1,38
12,90
0,67
3,43
0,33
0,11
0,15
0,97
0,15
2,39
0,26
0
13,57
7,53
1,82
1,67
1,64
17,89
2,46
4,06
Phụ nữ
2 người
http://www.lrc-tnu.edu.vn
42
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
Tổng
Thương
Trương
Phan
Triệu
Sầm
Phương
Lương
Lệnh
Nông
Lã
Mông
Lê
Triệu
Lộc
Mê
Ngô
Quan
Vĩ
Lỹ
Trần
Toán
Lê
Kim
Mã
La
Mạch
Lô
Không rõ họ
52
1
3
4
8
5
3
27
1
36
3
2
2
5
1
1
1
1
2
1
1
1
1
1
3
1
1
2
6
473
0,21
0,63
0,84
1,69
1,06
0,63
5,70
0,21
7,61
0,63
0,42
0,42
1,06
0,21
0,21
0,21
0,21
0,42
0,21
0,21
0,21
0,21
0,21
0,63
0,21
0,21
0,42
1,27
100%
11.5.0.0
19.1.8.5
27.2.0.0
51.1.10.9
26.2.0.0
18.2.0.0
139.3.5.2
2.2.0.0
171.2.2.1
15.5.14.6
8.6.1.6
11.2.2.5
21.6.0.0
6.9.0.0
4.2.0.0
2.3.2.0
4.6.0.0
6.6.0.0
7.0.0.0
4.8.0.0
5.0.0.0
5.3.0.0
2.0.0.0
14.5.0.0
5.4.1.0
7.3.4.0
10.0.0.0
14.9.7.0
2703.6.4.3.8
0,41
0,70
1,0
1,90
0,97
0,67
5,18
0,67
6,37
0,56
0,30
0,41
0,78
0,22
0,15
0,07
0,15
0,22
0,26
0,15
0,19
0,19
0,07
0,52
0,19
0,26
0,37
0,52
100%
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
43
18
16
14
12
10
8
6
4
2
0
1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39 41 43 45 47 49 51
Biểu đồ 3.3. Sở hữu ruộng đất theo nhóm họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
44
Qua bảng thống kê chúng ta thấy có tổng số 473 chủ ruộng chia thành 51
nhóm họ nhưng sự phân bố là không đều nhau. Tính trung bình mỗi họ là
473/51=9 người, các nhóm họ có số lượng đông nhất là các họ Ma, Hoàng,
Nông, Dương với 245 chủ ruộng đã sở hữu 1392.0.8.27, tương đương với
51,61% tổng diện tích ruộng đất. Trong khi đó có 21 họ chỉ có 1 chủ ruộng và
chỉ chiếm hữu 112.8.4.2 tương đương 24,99% Mức sở hữu ruộng đất theo
nhóm họ đông nhất là họ Ma với 81 chủ ruộng, chiếm hữu diện tích là
510.6.12.3.7. Trong khi đó họ Hia chỉ có một người và không có ruộng đất.
Ngay cả trong một dòng họ cũng xẩy ta sự trênh lệch về số chủ ruộng và diện
tích sở hữu. Lấy họ Ma là dòng họ có số lượng đông nhất làm ví dụ: ta thấy
nhóm họ Ma Văn với số chủ ruộng là 53 người trên tổng số 81 chiếm 65,4 %,
và sở hữu một diện tích ruộng là 350.5.5.5.1 trên tổng số 510.6.12.3.7, chiếm
hơn 68,63%
- Mức độ sở hữu ruộng đất theo giới tính
Bảng 2.13: Quy mô sở hữu theo giới tính
Giới tính
Nam 471
99,58 (%)
Nữ 2
0,42(%)
Quy mô
<1m
1-5m
5-10m
2
183
257
0,42%
38,69%
54,33%
1
1
0,21%
0,21%
Tỉ số nữ trong từng lớp sở hữu
10-20m
29
6,14%
Ghi
chú
Tổng 473
0,55%
0,39%
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Trong số 473 chủ sở hữu, chúng tôi thống kê chí có 2 chủ ruộng là nữ và
chỉ sở hữu 11.9. Do địa bàn miền núi còn chịu ảnh hưởng nặng nề của chế độ
Qoằng nên chỉ số chủ nữ so với số chủ nữ ở các huyện khác trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên xưa, như ở huyện Phú Bình, là rất thấp. Tỉ số lần lượt là số chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
45
nữ 0,42% so với 20,6%. Diện tích cũng rất chênh lệch: 11.9 /2703.6.4.3.8 so
với 1449.0.5.1/7848.1.8.0.
- Tình hình sở hữu của chức dịch:
Bảng 2.14: Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức dịch - sắc mục (1840)
Chức vị
STT
Không có
ruộng
1->
5mẫu
5->10
mẫu
10->20 20->40
mẫu
mẫu
1
Sắc mục (1) 2%
1
2%
2
Xã trưởng (1) 2%
1
2%
3
Lý trưởng (19) 38%
2
4%
6
12%
11
22%
4
Dịch mục (18) 36%
1
2%
5
10%
9
18%
3
6%
5
Hương mục (8) 16%
3
6%
3
6%
2
4%
6
Cai Tổng (2) 4%
2
4%
7
Khán thủ (1) 2%
1
2%
8
14
23
5
16%
28%
46%
10%
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
50 = 100%
Số lượng chức dịch của huyện Ba Bể tương đối đông đảo nếu so với số
lượng chức dịch ở hai huyện lân cận là Ngân Sơn và Chợ Đồn. Số lượng so
sánh lần lượt là 50 so với 29 và 17. Đồng thời các loại chức sắc cũng đa dạng
hơn. Nếu như ở Ngân Sơn chỉ có Lý Trưởng, dịch mục, còn ở Chợ Đồn là Lý
Trưởng, dịch mục, hương mục, thì ở Ba Bể có sự xuất hiện của cả Sắc mục,
xã trưởng, cai tổng, khán thủ bên cạnh Lý Trưởng, dịch mục, hương mục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
46
Số lượng chức dịch không có ruộng đất chiếm số lượng nhỏ, chỉ có 8/50
người bằng 16%, gồm có sắc mục, xã trưởng, lý trưởng, dịch mục, cai tổng,
khán thủ.Tất cà những người này không có ruộng đất ở các xã nhậm chức.
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là họ không có ruộng cách tác, họ có thể
có ruộng đất ở những xã khác.
Chức dịch có sở hữu từ 1 đến 5 mầu có số lượng 14/50 người chiếm
28%. Phần đông nhất là các chức dịch có trên 5 mầu là lớp người khá giả
chiếm số lượng đông nhất 23/50 với 46%.
Trong đó lớp chức dịch có từ 5 đến 10 mẫu, tầng lớp chiếm số lượng
đông nhất là Lý trưởng:“Năm 1828, Minh Mệnh có một số cải tổ về bộ máy
hành chính làng xã: bỏ chức xã trưởng và thay bằng lý trưởng, quy định một
xã chỉ có 1 lý trưởng và tùy theo pui mô làng xã mà đặt thêm 1 hay 2 phó lý
trưởng. Lý trưởng hay phó lý trưởng phải là những người được dân làng bầu
cử ra, được phủ, huyện xét kỹ và được cấp văn bằng, mộc triện. Trách nhiệm
của lý trưởng rất nặng nề: hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà nước về việc
quản lý làng xã, thực hiện mọi nghĩa vụ về tô, thuế, phu phen, tạp dịch…song
lý trưởng lại không nằm trong hàng ngũ quan chức…” [35, tr.95].
Các lý trưởng ở huyện Ba Bể là 19/50 người nhưng số lượng những
người có từ 5 mẫu đến 10 mẫu lại chiếm 11/23 người. Điều này thể hiện vai
trò quan trọng của tầng lớp lý trưởng trong các làng xã ở Ba bể.
Số chức dịch có sở hữu từ 10 mầu trở lên là 5/50 chiếm 10%. Người có
diện tích lớn nhất là 14.1.9. Tất cả số chức dịch sở hữu lớn đều là dịch mục và
hương mục, những người được làng cử ra, đại diện cho cộng đồng, tiêu biểu
cho bộ máy tự quản của làng xã. Tuy nhiên số ruộng đất nằm trong tay tầng
lớp chức dịch không ai có diện tích ruộng vượt quá 20 mầu, điều này thể hiện
nạn bao chiếm ruộng đất vẫn diễn ra nhưng chưa đến mức qua gay gắt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
47
- Quy mô sở hữu và các chủ ruộng
Bảng 2.15: Thống kê số chủ có nhiều ruộng nhất và ít ruộng nhất theo
địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)
ĐVT: m.s.th.t.p (Mẫu,sào, thước, tấc,phân)
Tên làng xã
STT Tên
Tổng
Tên xã
Ngƣời có nhiều ruộng nhất
Họ và tên
Chức vụ
Diện
tích
Ngƣời có ít ruộng nhất
Họ và tên
Chức
vụ
Diện
tích
Dịch
0.5.0.0
Mục
Nam Mẫu
Hoàng Văn Thành
2.3.0.0 Dương Văn Quyền
2
Quảng Khê
Hà Văn Đoàn
14.4.5.0 Ma Văn Vũ
4.6.3.0
3
Bằng Châu
Ma Thế Lưu
Dịch mục 14.1.9.0 Hà Văn Huệ
4.0.0.3
Đồng Phúc
Nguyễn Văn Tình
Tr. Mỹ Hoà
Bán
Ma Đình Châu
6
Xuân Ổ
7
Truyền Cố
8
9
5
10
Thượng Giáo
4
Quảng Khê
1
15.6.0.0 Nguyễn Văn Bình
4.7.0.0
3.0.8.0 Ma Văn Mã
1.5.0.8
Nguyễn Văn Nghĩa
Đồng Văn Chương
Bế Lộc Tuyển
4.6.0.0
Lệnh Văn Thái
4.6.0.0
Đồng Văn Vượng
4.6.0.0
3.2.0.0
3.2.0.0
Cao Trĩ
Lý Văn Tiến
11.9.0.0 Dương Hữu Hoằng
8.5.14.0
Thượng Giáo
Hoàng Văn Cao
7.8.11.1 Hoàng Văn Dương
2.0.0.0
Hương
mục
Giao Lang
Lý trưởng 7.8.10.0 Nông Văn Mã
3.2.3.5
Gia Hữu Đề
6.2.0.0 Mê Hữu Trần
4.2.0.0
Xuân Phương
Bùi Chí Tín
8.6.0.0 Phương Văn Vật
1.2.0.0
14
Nhân Tiếp
Ma Văn Thịnh
15.3.9.0 Triệu Văn Tiên
6.1.0.0
15
Bộc Bố
Gia Hữu Quýnh
Cổ Đạo
Ma Văn Tương
Ma Thị Nhâm
Dương Văn Sử
Ma Văn Tư
Ma Hữu Tuyên
Ma Thế Đoàn
Dương Văn Vịnh
Hồng La
13
12
16
17
Hà Hiệu
Địa Linh
11
Chư Hoa
Hương
mục
Lý trưởng
Hoàng Văn Mão
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11.0.0.0 Hia Hữu Bình
Dịch
0.0.0.0
mục
9.0.0.0
9.0.0.0
Ma Văn Nguyên
9.0.0.0
Khuyết danh
9.0.0.0
Khuyết danh
9.0.0.0
9.0.0.0
2.0.0.0
2.0.0.0
2.0.0.0
Nông Hữu Quý
10.4.0.0 Lục Hữu Kim
Đổng Hữu Cầu
3.0.0.0
3.0.0.0
3.0.0.0
http://www.lrc-tnu.edu.vn
48
Tên làng xã
STT Tên
Tổng
Tên xã
Ngƣời có nhiều ruộng nhất
Họ và tên
Chức vụ
Diện
tích
Ngƣời có ít ruộng nhất
Họ và tên
Dịch mục 4.0.12.8.1 Khuyết danh
Chức
vụ
Diện
tích
18
Bằng Thành
Tô Hữu Linh
19
Cao Thượng
Lương Văn Định
8.0.0.0 Hoàng Đình Pháo
2.0.0.0
20
Nghiêm Loan
Tô Văn Xương
8.0.0.0 Ma Đức Thọ
4.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
1.0.0.0
21
Hạ Hiệu
Hoàng Hữu Tài
Sầm Văn Lý
Triệu Văn Nhất
Sầm Văn Giang
7.3.0.0 Hoàng Văn Hổ
Nguyễn Văn Trường
Hoàng Văn Thắng
Đàm Văn Hoằng
22
Dạ Nham
Dương Văn Trần
9.6.14.7
Dương Hữu Thành
Nông Hữu Văn
0.9.7.0
1.0.0.0
1.0.0.0
(Nguồn theo thống kê 22 đơn vị địa bạ có niên hiệu Minh Mệnh 21 (1840)
Dựa vào số liệu thống kê của bảng trên, chúng ta có thể thấy quy mô sở
hữu lớn về ruộng đất ở Ba Bể không thực sự rõ nét. Số chủ ruộng có diện tích
lớn nhất đều trên dưới 15 mẫu một chút. Cụ thể, người có diện tích sở hữu lớn
nhất là 15.6 mẫu, nếu so sánh quy mô sở hữu của các chủ ruộng với các
huyện lân cận như Ngân Sơn, Chợ Đồn thì nhỏ hơn nhiều. Lớp chủ sở hữu
lớn là từ 10 -20 mẫu và hoàn toàn không có lớp chủ sở hữu từ 20 - 30 mẫu
,trong khi đó tại hai huyện trên, lớp chủ sở hữu từ 10-20 và 20 - 30 mẫu tương
đối lớn. Người sở hữu hơn 20 mẫu không phải là hiếm, như dịch mục Đồng
Đình Kim ở huyện Chợ Đồn sở hữu 24.5.
Trong số những người sở hữu lớn về ruộng đất ở Ba Bể có sự góp mặt
của tầng lớp chức dịch với tỷ lệ là 5/22 chủ. Điều này nói nên rằng: tầng lớp
chức dịch không chỉ đóng vai trò quan trong trong đời sống chính trị mà còn
có thế lực lớn về mặt kinh tê, chi phối mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong số nhưng người sở hữu lớn về ruộng đất ở các xã ta thấy số chủ
thuộc các dòng họ lớn và có thế lực là Ma, Hoàng, Dương chiếm số lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
49
14/27 người. điều này thể hiện ruộng đất tư hữu được tập trung trong tay các
dòng họ lớn.
Trong số những người sở hữu lớn về ruộng đất, ta thấy hoàn toàn vắng
bóng nữ giới. Phụ nữ không thể có mặt trong tầng lớp chức dịch, diện tích sở
hữu nhỏ bé. Vai trò của phụ nữ ở Ba Bể rất mờ nhạt.
2.2. Các mối quan hệ xã hội xung quanh vấn đề ruộng đất ở huyện Ba Bể
nửa đầu thế kỷ XIX
2.2.1. Quan hệ giữa làng xã và nhà nước
Việt Nam là một nước nông nghiệp lúa nước với làng xã là những đơn vị
hành chính cơ bản. Mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã thực chất là mối
quan hệ thông qua vấn đề ruộng đất.
Đối với mọi triều đình phong kiến, ruộng đất trong cả nước đều thuộc
quyền sở hữu tối cao của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền. Thần dân có nghĩa vụ nộp tô thuế cho nhà vua. Tuy nhiên vào thời
Nguyễn, ruộng đất công không còn mấy, chủ yếu là ruộng tư.
Đối với các loại ruộng đất thì nhà Nguyễn cũng như các triều đại trước
đều quy định.
“+ Tư điền được mua bán, cầm cố và truyền cho con cháu; khi cần trưng
dụng tư điền, nhà nước có bồi thường. Về nguyên tắc, tư điền bỏ hoang bị nhà
nước sung công.
+ Công điền được giao cho làng xã phân cấp, không được mua bán. Khi
cần thiết, nhà nước có thể sử dụng ruộng đất công làng xã (có bồi thường
hoặc miễn thuế). Ngoài ra, còn một số loại ruộng khác cũng thuộc diện công
điền (trợ sưu điền, học điền, bổn thôn điền…) nhưng chiến tỷ lệ rất nhỏ [30,
tr.60- 61].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
50
Trên thực tế, triều đình thông qua chính sách đối với công điền và tư điền
nhằm khẳng định quyền sở hữu tối cao của mình, và chính sách đó có tác
động tới từng hộ dân trong cả nước.
Với các chính sách quản lý và đánh thuế ruộng công triều đình khẳng
định quyền làm chủ của mình đối với làng xã một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào cũng thực hiện được do tính tự trị
của làng xã, với lợi thế quản lý trực tiếp ruộng đất nên luôn tìm cách duy trì
tính tự trị làng xã ẩn lậu, quản lý một phần ruộng đất của mình với nhiều hình
thức khác nhau. Hiện tượng sở hữu kép về ruộng đất và chiếm công quy tư đã
có từ lâu và là minh chứng cho nhân định trên.
Tác giả Vũ Huy Phúc trong tác phẩm Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XIX đã nêu rõ chính sách và chủ trương của nhà Nguyễn
đối với ruộng công. Năm 1803 sắc chỉ của vua Gia Long có ghi: “Phàm xã
dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội.
Ai mua nhầm thì mất tiền. Nếu nhân có việc mà cho người mướn để chi dùng
việc công trong xã thôn thì chỉ hạn trong 3 năm, qua hạn thì xử tội nặng.
Người nào tố cáo đúng thực thì thưởng cho ruộng nhất đẳng 1 mẫu, cày cấy 3
năm hết hạn trả về dân” [28, tr.147].
Việc cấm bán ruộng đất công là biểu hiện của việc nhà nước tuyên bố
quyền sở hữu đối với loại ruộng đất công này. Thực chất là ngăn cấm việc tư hữu
hoá ruộng đất thuộc sở hữu công, ngăn chặn sự hao hụt về ruộng đất công.
Tuy nhiên, nhà nước thừa nhận làng xã có quyền đem ruộng đất công
cho thuê trong một thời hạn nhất định là 3 năm. Điều này được thể hiện qua
quyết định năm 1844 của Minh Mệnh có ghi: “ Từ nay, phàm ruộng đất công
các xã thôn, theo đúng lệ định, không được bán đứt, bán cố. Nếu xã thôn nào
có việc chung khẩn trọng phải đem cố hay cho thuê lấy tiền tiêu dùng thì lý
dịch xã ấy báo khắp hương mục cho đến dân chúng trong xã, hội họp tính rõ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
51
như quả thuận tình đợ cố mới được cho người thuê cấy, nhưng không được
quá hạn 3 năm. Văn khế đem cố phải có nhiều người ký tên điểm chỉ. Nếu xã
lớn thì vài chục người, xã nhỏ thì năm sau người ký tên điểm chỉ liền nhau
mới là việc công của làng…” [28, tr.149].
Qua sự kiện trên, nhà nước đã thể hiện sự nhượng bộ chấp nhận quyền
cầm cố có thời hạn đối với ruộng đất nằm trong tay làng xã. Tuy nhiên trên
thực tế quyết định của nhà nước không có tác dụng bao nhiêu, chính sách trên
là cái cớ để bọn cường hào tha hồ cầm cố ruộng đất công làng xã một cách
hợp pháp. Dù không có lệnh trên, họ vẫn tự ý mua bán ruộng công. Năm
1828, Nguyễn Công Trứ từng nói: “Chúng công nhiên không sợ hãi gì, tự
hùng trưởng với nhau…Những nơi có ruộng đất công, thường mượn việc cầm
mướn để làm bở béo cho mình…thậm chí ẩn lậu đinh điền hàng nghìn mẫu
mà không nộp thuế…” [28, tr.150].
Trong phạm vi làng xã, quyền lợi thực sự nằm trong tay tầng lớp hào lý,
kỳ mục chồn hương thôn, tầng lớp này chính là các giai cấp bóc lột. Vũ Huy
Phúc đã viết: “…Chúng dựa vào lệ làng để chống phép vua, đồng thời mượn
luật nước để thống trị xã dân. Chúng lợi dụng cả hai phía để mưu cầu lợi ích
riêng. Nhưng trong phạm vi đáng nói ở đây, đứng trước nhà nước, thì chúng
thuộc về làng xã, đối lập với nhà nước. Trường hợp chúng bán ruộng làng xã
để tiêu riêng cũng vậy, và càng là như vậy khi chúng bán ruộng công để thực
sự chi tiêu vào những việc công của toàn xã dân và được sự đồng lòng của cả
làng. Vậy về mặt quyền mua bán ruộng đất làng xã, trong thực tế kết hợp với
trên danh nghĩa, nhà nước và làng xã đều đồng thời có vị trí như nhau”
[28,tr.150-151].
Việc nhà nước miễn tô thuế, đền tiền cho ruộng đất công bị xâm phạm
khi làm các công trình phúc lợi xã hội chính là sự thừa nhận thực tiễn quyền
sở hữu ruộng đất công làng xã. Như vậy có thể nói quyền sở hữu ruộng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
52
được chia đôi với sự cân bằng giữa nhà nước và làng xã. Dù nhà nước luôn
tìm cách nắm trọn vẹn quyền sở hữu này. Quyền sở hữu của làng xã ngày
càng bị lấn át nhưng không mất đi.
Thời vua Minh Mệnh đã có sự tấn công vào quyền sở hữu của làng xã.
Năm 1827, Minh Mệnh quyết định từ thời điểm này, ruộng công làng xã chỉ
được miễn thuế không được đến tiền.
Mặc dù vậy, chính sách này cũng không được thi hành triệt để. Năm
1835 khi đào sông tại Thừa Thiên, nhà Nguyễn vẫn đền bù tiền cho dân. Mặc
dù sự đền bù này rất rẻ mạt nhưng chứng tỏ nhà nước vẫn thừa nhận quyền sở
hữu ruộng đất của làng xã, dù là sở hữu không trọn vẹn.
“…Nói cách khác, trong trường hợp này công điền công thổ có hai chủ
sở hữu đồng thời, một ông chủ to lớn ở xa, một ông chủ nhỏ bé hơn nhưng lại
ở gần và trực tiếp…”[28,tr.155].
Tô thuế là nguồn thu nhập chính để nuôi sống nhà nước Quân chủ
chuyên chế và bộ máy hình chính cồng kềnh của nó. Đồng thời qua việc thu
tô thuế nói lên tính chất sở hữu các loại ruộng đất công làng xã. Ở Việt Nam
và châu Á nói chung, tô thuế chủ yếu là địa tô “Ở châu Á, địa tô là yếu tố chủ
yếu trong các thứ thuế”[26,tr.97]
Mác cũng đã viết: “Dù hình thái đặc thù của địa tô như thế nào, nhưng
tất cả các loại hình của nó đều có một điểm chung này: sự chiếm hữu địa tô
là hình thái kinh tế dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện, và mặt
khác địa tô giả định đã phải có quyền sở hữu ruộng đất”[26, tr.33].
Từ nhận định trên, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định của Vũ
Huy Phúc: “Câu này có nghĩa là quyền sở hữu ruộng đấy là tiền đề của quyền
chiếm hữu địa tô, và mặt khác quyền chiếm hữu địa tô là hình thức biểu hiện
của quyền sở hữu ruộng đất” [28, tr.147].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
53
Tuy nhiên, với tình trạng sở hữu kép như trên thì quyền sở hữu địa tô
trên thực tế không thuộc hoàn toàn vào tay nhà vua mà bị chia sẻ cho làng xã.
Bộ máy tự trị từ lâu đời, vốn là các công xã nông thôn trước đây, đã có tính tự
trị rất cao. Ở thời kỳ phong kiến xác lập, tính tự trị ấy bị phá vỡ khi nhà nước
can thiệp vào làng xã, nhưng đó là “một thành trì” dù bị xâm chiếm vẫn giữ
được nhưng giá trị riêng, quyền lợi riêng mà địa tô là tiêu biểu. Hình thức thu
tô thuế của nhà nước, đó là thu thuế ruộng bằng hiện vật dựa trên sổ điền bạ,
mà loại sổ này được lập trên số lượng ruộng đất làng xã kê khai. Người nông
dân cày cấy ruộng đất công nộp tô thuế cho làng, sau đó làng mới nộp lên cho
tổng huyện. Trong trường hợp này làng xã quản lý trực tiếp các cá nhân lĩnh
khẩu phần ruộng công, đồng thời quản lý tô thuế và chỉ nộp cho nhà nước một
mức thuế phù hợp với số ruộng đã kê khai theo mức quy định. Làng xã với ưu
thế trung gian giữa nhà nước và người nông dân, lại trực tiếp quản lý đất đai
lên có nhiều lợi thế ẩn lậu, sử dụng riêng một phần ruộng đất công hay thu về
cho mình một phần tô thuế nhất định.
Năm 1803, vua Gia Long chia đất nước làm bồn khu vực đánh thuế,
trong đó Ba Bể và Thái Nguyên cùng ở khu vực miền núi, thuộc khu vực ba.
Đến thời Minh Mệnh lại có sự điều chính gộp khu vực hai và ba làm một và
hạn thấp thuế ruộng công.
Thông qua chính sách tô thuế đối với ruộng tư, nhà nước đã kiểm soát tời
từng hộ nông dân.
Khu vực Ba Bể chỉ có ruộng tư, chính vì vậy chính sách tô thuế ruộng tư
là biểu hiện cơ bản của mối quan hệ giữa làng xã và nhà nước ở nơi đây.
Nửa đầu thế kỷ XIX, thái độ của nhà Nguyễn đối với ruộng đất tư nhìn
chung là rất phức tạp.
Về cơ bản, ruộng đất tư được nhà nước tôn trọng. Khi xây dựng các công
trình thuỷ lợi, đường xá, thành luỹ…nếu mở rộng đất tư nhà nước đều đền bù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
54
cao hơn ruộng đất công. Đối với dân xiêu tán, quyền sở hữu ruộng đất được
đảm bảo trong một thời gian dài (mãi đến năm 1854, nhà nước mới tuyên bố
tước bỏ quyền sở hữu ruộng đất của dân xiêu tán từ trước 1802 chưa trở về)
[32, tr.48].
Đồng thời, nhà nước cũng đã can thiệp sâu sắc vào các quan hệ sở hữu
ruộng tư. Nhà nước áp chế hành chính tước đọat một bộ phân ruộng tư bổ
sung vào quỹ ruộng công. Thời Gia Long, quan lại Bắc Hà dâng sớ xin thi
hành phép quân điền và đề nghị các chủ tư hữu chỉ được giữ lại 30% ruộng
đất của mình. Số còn lại dồn hết vào sổ dân để quân cấp theo phép quân điền.
Nhưng triều đình khước từ do nhà Nguyễn khi đó mới thành lập còn lo củng
cố nền thống trị.
Thời Minh Mệnh, sự kiện thể hiện sự can thiệp rõ nhất vào ruộng đất tư
chính là việc thi hành chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định. Nội dung
cơ bản là những thôn nào có ruộng tư nhiều hơn ruộng công thì cắt lấy 30%
ruộng tư sung vào ruộng công quân cấp. Tuy nhiên, do bị phản đối mạnh mẽ
và trước tình trạng ẩn lậu, lũng loạn việc chia ruộng, cuộc cải cách đó chỉ
dừng lại ở Bình Định mà không áp dụng trong toàn quốc.
Nửa đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã quy định các khu vực đánh thuế
ruông như sau:
Thời Gia Long cả nước chia làm 4 khu vực đánh thuế:
Khu vực 1: từ Quảng Bình đến Diên Khánh
Khu vực 2: từ Nghệ An đến Sơn Nam Thượng
Khu vực 3: các trấn Việt Bắc và Đông Bắc
Khu Vực 4: Bình Thuận và Gia Định Thành
Sau đây là bảng biểu thuế chung của khu vực III gồm: 6 trần Yên Quảng,
Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng [28, tr.275].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
55
Khu vực
Đẳng hạng
Thuê tô mỗi mẫu
Các thứ tiền khác
III
Ruộng hạng nhất
20 bát/mẫu
Ruộng hạng nhì
15 bát/mẫu
Ruộng hạng 3
10 bát/mẫu
Ruộng muối
1 tiền + tiền lúa cánh 30 đồng
Năm 1836 vua Minh Mệnh định lại thuế ruộng đất, quy về 3 khu vực
đánh thuế
Khu vực 1: từ Quảng Bình đến Khánh Hoà
Khu vực 2: từ Hà Tĩnh ra Bắc
Khu vực 3: Bình Thuận và lục tỉnh Nam Kỳ
Thời Minh Mệnh tỉnh Thái Nguyên và huyện Ba Bể thuộc khu vực 2 với
biểu thuế ruộng tư như sau [28, tr.283].
Khu Vực
Đẳng hạng ruộng
Thuế to ruộng tƣ mỗi mẫu
II
Hạng nhất
26 thăng/mẫu
Hạng nhì
20 thăng/mẫu
Hạng ba
13 thăng/mẫu
Theo Vũ Huy Phúc, thời Minh Mệnh, khu vực II và III ở thời Gia Long
được nhập làm một. Tô thuế ở đây vẫn bị ấn định ở mức cao, tức mức khu
vực II cũ. Việc gộp hai khu vực này đã nâng thuế tô khu vực miền núi phía
Bắc và miền biển Bắc Kỳ lên theo tỷ lệ 200% tức là gấp 2 lần: “ruộng hạng
nhất từ 13 thăng hay 20 bát lên 26 thăng, hạng nhì từ 10 thăng hay 15 bát lên
20 thăng, hạng ba từ 6,5 thăng hay 10 bát lên 13 thăng”[28, tr.284]
Theo sách Đồng Khánh dư địa chí, mức thuế chung cho cả châu Bạch
Thông trong một năm như sau: “Ruộng đất công tư có nộp thuế:8.709 mẫu 1
sào 1 thước 9 tấc 8 phận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
56
Nhân đinh:2.477 người
Thiếu cả năm:
-Nộp bằng tiền: 4.444 quan 6 tiền 13 đồng tiền. Trong đó:
Thuế ruộng đất: 11.325 quan 5 tiền 13 đồng tiền
Thuế đinh: 3.116 quan 6 tiền
-Nộp bằng thóc: 2.196 hộc 13 bát 6 vốc.
- Nguyên ngạch tuyển lính:222 người” [10, tr819-820].
Chính sự phân biệt đối xử với mức tô thuế nặng nề,sự những nhiễu của
các lưu quan người Việt đã làm bùng lên những cuộc khởi nghĩa của đồng bào
các dân tộc phía bắc, mà khởi nghĩa Nùng Văn Vân là một ví dụ điển hình.
2.2.2. Quan hệ giữa làng xã và làng xã xung quanh vấn đề ruộng đất
Làng bản là đơn vị cư trú từ lâu đời của đồng bào các dân tộc. Chúng ta
có thể hiểu về làng bản theo nghĩa sau.
“Bản làng được coi là đơn vị xã hội bao gồm những gia đình thuộc
những dòng họ của một hay hai, ba dân tộc cư trú. Mỗi bản đều có một ranh
giới rõ rệt được quy định cụ thể bằng văn bản hay truyền miệng. Ngay cả ở
những vùng thưa dân cư, rừng rậm, núi cao cũng không còn tình trạng đất vô
chủ”[4, tr.46].
Mỗi làng bản có địa vực riêng và lấy nhà làm đơn vị cơ sở: “Bản có địa
vực cư trú riêng, có phạm vi đất đai canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối
riêng thuộc quyền quản lý và sử dụng của bản. Cộng đồng bản là một công xã
nông thôn độc lập, lấy đơn vị nhà làm nền tảng” [44, tr.253].
Nhà của đồng bào các dân tộc có thể là gia đình hạt nhân gồm một hoặc
hai thế hệ; hay cũng có thể là gia đình lớn gồm vài ba thế hệ. Hiện tượng
“Tam đại đồng đường” là phổ biến ở các làng bản và mối quan hệ gia tộc còn
có phần bền chặt hơn quan hệ của người Kinh. Khi làng bản có công việc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
57
người ta thường bổ theo từng nhà mà quy định mức đóng góp. Tuy theo mức
độ nhiều ít của ruộng đất mà làng bản lớn hay nhỏ.
Trong làng bản của người Tày, Nùng ở Ba Bể cũng như những nơi khác
đều được cấu thành từ những gia đình phụ quyền thuộc các dòng họ khác
nhau. Thông thường bản ít thì từ 2 – 3 họ, bản lớn trên dưới 10 họ. Trong các
làng bản dù lớn hay nhỏ, ở bản nào cũng có một hay hai dòng họ lớn chiếm
ưu thế, có uy tín và ảnh hưởng lớn đến các quan hệ xã hội trong bản. Những
dòng họ này thường là những họ đến sớm nhất, có công khai phá đất đai,
thành lập bản làng và chiếm những ruộng đất tốt nhất, do đó giầu mạnh và có
uy tín đối với họ khác. Họ Dương ở Ba Bể là một ví dụ, theo những cụ già kể
lại, họ Dương đến Ba Bể từ sớm, có công khai phá đất đai, từ nhiều đới trước
thường đảm nhiệm các chức vụ trong làng hay trong tôn giáo. Ngày nay
những người thành đạt phần nhiều là họ Dương. Ở xã Khang Ninh, họ Dương
chiếm hơn 70% và đảm nhiệm các chức vụ chính trong bộ máy hành chính
của xã.
Vai trò của các dòng họ trong các làng bản là rất lớn. Người cùng dòng
họ có trách nhiệm cưu mang nhau. Tình tương trợ đó được thể hiện chủ yếu
trong lao động, người trong họ được huy động làm những mương phia lớn
đưa nước vào tưới cho đồng ruộng, giúp nhau trong xây dựng nhà cửa, phòng
chống trộm cướp…Tuy nhiên, hiện tượng kéo bè, kéo cánh lại hay xẩy ra,
thường dẫn đến xung khắc, mâu thuẫn trong từng họ hay giữa các họ khác
nhau. Nhiều trường hợp xảy ra xung đột. Mỗi dòng họ gồm nhiều tông tộc,
mỗi tông tộc gồm nhiều gia đình có quyền lợi gắn với nhau.
Nền kinh tế chính trong các làng bản vẫn là kinh tế tiểu nông, sản xuất
theo từng gia đình. Tuỳ theo lực lượng lao động nhiều ít, kế hoạch làm ăn, địa vị
xã hội mà diện tích ruộng nhiều ít khác nhau, dẫn đến sự chênh lệch giầu nghèo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
58
Về mối quan hệ giữa các làng bản, sách Các dân tộc ít người ở Việt Nam
có chia cộng đồng các dân tộc miền núi phía bắc làm hai khu vực, tuỳ theo
mức độ quan hệ xã hội. Trong đó Ba Bể và Thái Nguyên nằm trong khu vực
một, nơi có trình độ quan hệ xã hội phát triển gần như miền xuôi.
Trong đó, các tác giả đã xác định mối quan hệ giữa các bản, làng với
nhau, tùy từng vùng cũng có khác nhau ít nhiều. Ở vùng một, các làng, bản
gần nhau hợp thành một xã đơn thuần theo quy định hành chính. Các làng,
bản bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa cụ đối với nhà nước, không lệ
thuộc nhau. Sự khác nhau chỉ là do sự phân biệt to, nhỏ, giầu, nghèo.
Mặc dù vậy, giữa các làng bản trong cùng khu vực, dù ở cách xã nhau
vẫn duy trì một mối quan hệ bởi một tổ chức riêng. Từng khu vực đều có
người đứng đầu và được chính quyền thừa nhận, đó chính là chế độ Qoằng.
Tất cả các làng bản trong khu vực của Quằng đều có nghĩa vụ nộp tô thuế
ruộng đất, phục dịch cho nhà Quằng.
Theo phân tích địa bạ Minh Mệnh 21, trên địa bàn các làng bản hoàn
toàn không có hiện tượng phụ canh. Người xã này có ruộng đất ở xã khác,
diện tích ruộng đất của các xã được chia và quy định rõ ràng. Tuy nhiên,
trong cuộc sống hàng ngày, nhân dân vẫn tương trợ và giúp đỡ nhau trong lao
động, sản xuất, cùng nhau xây dựng các công trình thuỷ lợi và tổ chức các lễ
hội truyền thống mà hội Lồng Tồng là tiêu biểu.
2.2.3. Quan hệ giữa ruộng đất và tín ngưỡng tôn giáo
Huyện Ba Bể có một hệ thống đình, chùa khá dày đặc, đặc biệt là khu
vực phía Nam của huyện.
Trước hết, trong tâm tưởng người Tày, đạo Phật chiếm vị trí khá quan
trọng. Hình tượng của Phật được cụ thể hoá qua một một hình tượng nhân vật
tưởng tượng là Pụt, cũng như Bụt, theo cách gọi của người Kinh. “...Trong
quan niệm dân gian người Tày về Phật cũng thật là “linh hoạt”:-biến ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
59
Phật Thích Ca Màu Ni thành “Mẻ Pụt thích ca, Mẻ a thích đế” (bà cô thích
đế), rối mẹ then. Khi nói Pụt cái, Pụt Ké, Pụt Luông lại nghĩ là Pỏ Put - ông
Pụt...nhưng đều có một quan niệm thống nhất là Pụt sinh ra muôn loài và
giúp muôn loài vượt khổ vượt nạn. Pụt thì từ tâm ngay thẳng (dú ngay bặng
Pụt – thật thà như Bụt) và luôn khuyên mọi người sống nhân ái, làm điều
thiện, tránh điều ác, đề khi chết được về thiên đường vui sướng, không bị hoá
kiếp thành ngựa trâu”” [3, Tr.117].
Ba Bể có một số đình và chùa lâu đời, nhưng do chiến tranh và sự tàn
phá của thời gian, đến ngày này hầu hết không còn nữa. Chùa An Mã đã được
trùng tu và xây dựng lại năm 2007 là chùa duy nhất được công nhận là di tích
văn hoá cấp tỉnh của Bắc Kạn.
- Chùa Tam Bảo (hay còn gọi là Nà Chùa, Kéo Sáng), đây là chùa có từ
lâu đời, tương truyền chùa được xây dựng vào năm Thành Thái thứ 18. Chùa
thờ cả phật và thần. Ngày nay vẫn còn một tấm bia đá ghi công đức những
người cúng tiền xây dựng chùa. Hội chùa xưa được tổ chức vào ngày 15/1
hàng năm thu hút nhiều người tham gia. Hội chùa có tổ chức vui chơi và cúng
tế. Cấu trúc của chùa gồm hai gian, được ngăn cách bằng một bức vách mỏng.
Bên trái thờ thần có cúng đồ mặn, bên phải thờ phật cúng bằng xôi, oản.
Liên quan đến sự tích của chùa còn có một câu chuyện khác nói đến việc
thờ thần hoàng của làng. Đó là nghi thức thờ thần hoàng Ma Vĩnh Khánh:
* Nghi lễ thờ Thành hoàng Ma Vĩnh Khành (Chợ Rã):
Ông vốn là một viên quan nhà Mạc được đưa lên trấn trị vùng này. Nhà
vua phong cho ông chức Quận công. Ông có công trị an vùng núi và tiễu trừ
thổ phỉ mang lại cuộc sống ấm no cho dân. Khi quân vua Lê tiến ra Bắc quân
nhà Mạc thua trận, ông cầm quân chống lại nhưng thất trận phải bỏ chạy vào
đỉnh Phuông rồi bị bao vây ngặt ngèo. Trước tình thế khó khăn, biết không
thể chạy thoát, ông bịt mắt ngựa cho chạy xuống sông tự vẫn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
60
Sau khi ông mất yên ngựa mà ông cưỡi trôi đến gò nổi giữa hồ Ba Bể
nhân dân vớt được lên đã đặt tên gò đó là gò An Mã. Ngày nay là một địa
điểm tham quan du lịch của du khách khi bơi thuyền trên hồ.
Nhân dân nhớ công ơn đã tôn ông là Vĩnh Khánh đại vương và còn lập
miếu thờ ở vùng trung tâm Chợ Rã (Phố Cũ, tiểu khu 8, thị trấn Chợ Rã). Tuy
nhiên, trải qua sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, ngôi miếu cũ nay
không còn. Nhân dân dùng cọ lợp mái trên nền cũ để thờ ông, ngày nay vẫn
nối tiếng linh thiêng.
- Chùa An Mã trên đảo trong lòng hồ Ba Bể gắn với tục thờ nước. Đồng
thời nơi đây cũng là nhà thờ tự của họ Ma, một dòng họ lớn và có thế lực.
Chùa còn thờ vong linh của sáu vị tướng nhà Mạc thua trận đã tuẫn tiết ở
vùng hồ. Tương truyền, 6 vị tường nhà Mạc thất trận đã bịt mắt ngựa cho
nhảy xuống vực tự vẫn. nước sông dâng cao đã đưa xác một vị tường là người
của dòng họ Ma địa phương, tên là Ma Thế Mạ trôi dạt vào đảo. Nhân dân
khâm phục đã vớt xác ông chôn cất và lập đền thờ ở đây, gọi là đền An Mã,
sau đó lâu dần chuyển thành chùa thờ phật.
- Chùa Bản Tấu ở xã Cao Thượng thờ Dương Tự Minh
- Chùa Thẩm Slinh ở xã Quảng Khê
Chùa Thẩm Slinh được xây dựng trong hang đá, đây là loại hình khác
đặc biệt đối với đồng bào các dân tộc Tày – Nùng nói riêng và các dân tộc ít
người phía Bắc nói chung. Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn chỉ có hai chùa được
xây dựng trong hang là chùa Thẩm Thinh (xã Quảng Khê, huyện Ba Bể), và
chùa Thạch Long (xã Cao kỳ, huyện Chợ Mới). Trong tư duy và thế giới quan
của người Tày không có chùa, đối với họ, hiện tượng “Tam giáo đồng
nguyên” là phổ biến. Người Kinh lên khu vực của người Tày sinh sống, mang
theo tín ngưỡng sâu sắc về Phật giáo, phải chấp nhận điều đó. Người Kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
61
phải dần hoà nhập vào thế giới tâm linh của người Tày, đồng thời gắn tôn
giáo của mình vào đó.
Trong thế giới quan của các dân tộc Tày, Mường, Thái…đều có huyền
thoại về quả bầu tiên sinh ra trăm họ. Họ tôn trọng những vật có hình dạng
quả bầu tiên, trong đó tử cung của người mẹ khi mang thai và sinh con có
hình quả bầu, hang động có hình ống, hình bầu. Từ đó, quan niệm hang động
là nơi thiêng liêng, vì đó cũng là nơi ban đầu con người trú ngụ. Người Kinh
tranh thủ điều đó mà dựng chùa trong hang, làm tăng thêm sự linh thiêng của
chùa chiền và nhận được sự tôn trọng của người Tày.
Thêm một ví dụ nữa thể hiện sự giao thoa và kết hợp về văn hoá ở miếu
Phi Đeng (huyện Na Rì). Miếu này vồn thờ Nùng Trí Cao. Tuy nhiên, theo
gia phả của người Tày ở đây lời khấn đầu là khấn Nùng Trí Cao nhưng những
lời cuối lại khấn Đinh Tiên Hoàng. Đây là chuyện các vị Thánh của người
Kinh nương nhờ nơi thờ tự của người Tày khi chủ thể ở vùng đất ấy chưa
chấp nhận tín ngưỡng của người Kinh.
Chùa Slinh có một khu ruộng chùa rộng hai mẫu, gọi là ruộng Mo, được
giao cho những người có trách nhiệm trông nom canh tác, thu hoa lợi cúng
chùa. Khu ruộng này được chia làm 3 phần giao cho ba người có trách nhiệm
khác nhau:
+ Ruộng Cầu: do chùa nằm trong hang cách môt dòng sông muồn đến
thăm phải đi qua cầu nên một khu ruộng được làng giao cho người chuyên
bắc cầu cho du khách đi qua cánh tác sinh sống, hàng năm bắc cầu mới bằng
tre mây cho khách thập phương tới cúng bài, cầu phúc.
+ Ruộng Dầu: giao cho người chuyên trông nom chuyện đèn dầu của
chùa canh tác. Người này sẽ chịu trách nhiệm trồng cây Mác cải ép lấy tinh
dầu thắp đèn.
+ Ruộng mo: do thầy Mo làm thủ từ của đền cacnh tác thu hoa lợi cúng chùa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
62
Làng, xã Việt nam đã xuất hiện từ cuối thời nguyên thuỷ, đầu thời dựng
nước có thể được coi là sản phẩm của một nền nông nghiệp lúa nước. Làng,
xã là một cộng đồng xã hội cố kết chặt chẽ về nhiều mặt mang tính tự quản.
Một làng thường được bao bọc, phòng vệ sau một luỹ tre làng, thông thương
với bên ngoài bằng một cổng làng, đó là một không gian cư trú khép kín. Tuy
nhiên, bên trong làng lại là một tụ điểm quần cư thoáng mở, nhà cửa của các
hộ gia đình thường được ngăn cách sơ sài, dễ dàng thông thương với nhau.
Đình làng, quán cầu, cây đa, giếng nước là những điểm giao tiếp cộng đồng.
Trong tâm tưởng mỗi người Việt Nam xưa, đình làng chiếm một vị trí
quan trọng. Đình là nơi giao tiếp, sinh hoạt văn hoá, là niềm tự hào của cả
làng. Đồng thời đình làng cũng là nơi những người con xa quê nhớ về như
một biểu tượng của quê hương mình.
Ba Bể có nhiều đình nhưng hiện nay đã bị mai một nhiều. Đình ở Ba Bể
không chỉ có ý nghĩa là đình như ở miền xuôi. Đình ở đây còn là tên gọi nhà
thờ thần nông và tên đình khi từ dưới xuôi du nhập lên nơi đây đã bị Tày hoá,
gắn liền với nghi thức cầu mùa và cúng tế thần nông.Nhà thờ thần nông được
xây dựng đơn giản, chủ yếu bằng các nguyên liệu tre, nứa ở địa phương lợp
bằng tranh hoặc lá cọ. Cũng có nơi như ở Khang Ninh hoàn toàn không có
cấu trúc dạng nhà. Đồng bào Tày quan niệm vạn vật hữu linh cho nên thường
kết hợp thờ thần nông với sơn thần thổ địa. Thông thường, người dân chọn
một cácnh đồng rộng làm địa điểm thờ thần hay lấy gốc cây to đầu làng làm
nơi thờ tự.
Khi vực phía Nam tiêu biểu là xã Hà Hiệu có mật độ đình dày đặc nhất.
Có thể kể đến những đình như sau:
- Xã Phúc Lộc có đình Thiêng Điểm
- Xã Chu Hương có miếu Nà Phầy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
63
- Xã Hà Hiệu có hai đền chính là Nà Slấn và Đon Chiêm. Ngoài ra còn
có hai chùa phụ là Phủ Chùa và Đông Chùa.
Đền và chùa ở Hà Hiệu có truyền thuyết về người được thờ làm thành
hoàng chung của cả xã khá thú vị. Truyền thuyết này gắn liền với nhân vật
Dương Vệ Tường- một viên quan của nhà Lê trung hưng.
Tương truyền, thời Lê - Mạc người cầm quân của nhà Lê là Dương Vệ
Tường, vừa là quận công, vừa là Phò mã, khi bại trận, đã phóng ngựa lên
ngọn Phia Lặng, cởi áo giáp che mặt ngựa rồi cả người và ngựa cùng lao
xuống vực thẳm để khỏi sa vào tay đối phương.Quận công Dương Vệ Tường
là một vị tướng được triều đình trao lệnh thống soái một đạo quân đi đánh
quân nhà Mạc cát cứ và đóng đồn ở đỉnh Phuông (xã Cao Thượng). Qua
nhiều trận kịch chiến, quân nhà vua bị thất bại nặng nề vì nhà Mạc mộ người
miền núi địa phương làm lính, thông thạo địa hình, giỏi cách đánh ở vùng sơn
cước. Quân nhà vua vốn là người đồng băng khi gặp sơn lam chướng khí
quân lính đau ốm nhiều, hậu cần xa xôi, thiếu thốn, nên có phần yếu thế.
Nhiều vị tướng dưới quyền thống soái Dương Vệ Tường đã tử trận như:
Nguyễn Đức Khê, Nguyễn Kim Tường, Dương Hoàng Vương, Lý Đại
Hương, Lang Trường...nhà vua cấp sắc cho Hà Hiệu lập miếu thờ những vị
này và các vị cũng được truy tặng cấp quận công, những tờ sắc vua cấp qua
thời kỳ chiến tranh loạn lạc đã bị mất.
Cảm phục và thương tiếc, nhân dân đó lập miếu thờ quận công. Miếu
thờ vốn ở Lùng Cháng nhưng Thủ từ họ Dương ở Thôn Lẹng đi thắp hương
những ngày Sóc vọng thấy xa quá. Ông ta làm lễ khấn vái xin được chuyển đến
gần. Đêm đó trời mưa to sấm lớn sáng hôm sau là ngày rằm, Thủ từ lên miếu
thắp hương thờ không thấy mái gianh nữa, bèn vội trở về cùng các bô lão đi
tìm kiếm; đầu tiên thấy một gắp gianh rơi chỗ Bó Lọm, một tấm kháo rơi ở
Nả Sấn và một gắp nữa ở Nà Dài. Thế là Thủ từ bèn cho xây miếu thờ ở cả ba nơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
64
Riêng ở miếu Nà giài còn có một bia đá tạc 5 chữ: “Lý Kim Tuyền quận
công”, cụ Dương Thiêm Mùi người thủ từ cuối cùng kể lại: Mỗi năm 2 kỳ
cúng bái các miếu này, cụ phải khấn xưng đích danh các vị thần trên. Riêng
miếu ở Nả Sấn hằng năm có hội Lồng Tồng vào ngày 16 tháng giêng. Ngày
nay dân trí ngày càng cao, ý niệm thần linh cũng dần mờ nhạt, nghi thức lễ
hội chỉ cũng là chuyện quá khứ.
- Xã Bành Trạch ở Bản Hon có miếu Bản Hon, bản Nà Cói có miếu Nà Cói.
Hai ngôi miếu này là của người Dao dựng lên để thờ thần Nông. Miều
lợp bằng mái tranh, dựng bằng tre nứa. Nghi thức thờ cúng đơn giản. Từ ngày
mồng 10 đến 15 tháng Giêng hàng năm, mỗi nhà mang một mâm cỗ ra miếu ở
đầu làng, đặt dưới một gốc cây to cúng vái. Sau đó vui chơi và tổ chức ăn
uống.
- Xã Địa Linh có nhà thờ thần Nông
- Xã Khang Ninh có nhà thờ thần Nông với Lễ ăn cốc mạy:
Vào trung tuần tháng 7, đúng 14/7, thôn trưởng thôn bản Vài có tổ chức
lễ “ăm cốc mạy”, các thôn thuộc xã Khang Ninh cũng có tổ chức vào thời
điểm khác nhau, sao cho không trùng nhau, ở như địa điểm khác nhau thường
là một gốc cây to trong làng chủ yếu, là dưới các gốc cây gạo.
Với quan niệm cầu mùa màng bội thu, nhân dân góp tiền mua lợn thịt,
nấu xôi tổ chức ăn uống ở một gốc cây gạo to của thôn. Họ quan niệm ăn
uống ở đây sẽ được thần linh trứng dám và cho vụ mùa năm đó bội thu.
Thành phần tham gia bắt buộc mỗi hộ gia đình phải có một đại diện tham gia
thường là các cụ già hay đàn ông trong gia đình. Tuy nhiên nhà nào không có
đàn ông thì phải có một người đàn bà phải tham gia. Những năm nước ngập
lụt, nhân dân tổ chức bơi thuyền đên gốc cây đó ăn uống, không được bỏ nghi
thức này. Theo quan niệm năm nào không làm như vậy sẽ mất mùa hay gặp
tai nạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
65
Tiểu kết: Đặc điểm nổi bật về tình hình ruộng đất ở Ba Bể vào thời điểm
nửa đầu thế kỷ XIX là sự thắng thế của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Đây
cũng là đặc điểm chung của tình hình sở hữu ruộng đất trên phạm vi cả nước
ở nửa đầu thế kỷ XIX. Trong tài liệu địa bạ hoàn toàn không thấy có ghi về
công điền, công thổ mà chỉ có tư điền, tư thổ. Vào thời điểm nửa đầu thế kỷ
XIX ở Ba Bể, chúng tôi chưa thấy có hiện tượng tư hữu lớn về ruộng đất, mặc
dù mức độ tư hữu hoá về ruộng đất diễn ra mạnh mẽ. Ruộng đất chủ yếu tập
trung trong tay các dòng họ lớn và có thế lực như họ Ma, Dương, Hoàng,
Nông. Đất thần từ, phật tự chiếm một diện tích nhỏ bé do đặc điểm miền núi
Phật giáo chưa thịnh hành như miền xuôi. Hiện tượng lưu hoang lớn vẫn diễn
ra do ảnh hưởng của chiến tranh loạn lạc. Quy mô sở hữu chưa cao thể hiện
tình trạng sở hữu nhỏ, manh mún và dàn trải trên số đông chủ sở hữu.
Hiện tượng “sở hữu kép” về ruộng đất là biểu hiện sinh động của sự
xung đột về lợi ích giữa nhà nước và làng xã. Trong đó, làng xã vốn là các
công xã nông thôn có từ thời nguyên thuỷ có tính tự trị cao chống đối lại sự
kiểm soát của nhà nước một cách dai dẳng dù ngày càng yếu thế. Trên một mức
độ nào đó, làng xã vẫn giữa được một phần tính tự trị và quyền lợi của mình.
Các làng xã có địa vực cư trú riêng nhưng vẫn tương trợ, giúp đỡ nhau
trong cuộc sống và lao động. Mối quan hệ giữa ruộng đất và tín ngưỡng tôn
giáo thể hiện qua các loại ruộng chùa, ruộng mo, tuy không nhiều nhưng cũng
thể hiện vai trò quan trọng của tôn giáo, tín ngưỡng trong cuộc sống của đồng
bào các dân tộc huyện Ba Bể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
66
CHƢƠNG 3
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
HUYỆN BA BỂ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
3.1. Kinh tế trồng trọt và canh tác lúa nƣớc
Ba Bể là vùng đất cổ từ sớm đã có con người sinh sống và khai phá. Cư
dân bản địa ở nơi đây chính là người Tày cổ với nghề canh tác lúa nước lâu
đời. “…Nhân dân địa phương đã phát hiện được nhiều rìu, bôn có vai, có nấc
bằng đá mài nhẵn, tiếng địa phương gọi là “Khoan phạ” (Rìu trời). Tiêu biểu
như rìu, bôn ở xã Đồng Phúc, Hoàng Trĩ huyện Ba Bể…Với công cụ như vậy,
có thể người Tày cổ trên vùng đất Bắc Kạn thời bấy giờ đã sớm sáng tạo ra
nghề nông lúa nước ở các thung lũng ven sông suối nơi có nguồn nước thuận
lợi” [3, Tr.47]. Huyện Ba Bể ngày nay, người Tày vẫn chiếm vị trí chủ đạo về
dân số, tiếp đó là các dân tộc Nùng, Dao, H’Mông, Sán Chí chính vì vậy việc
nghiên cứu các hình thức canh tác nông nghiệp của người Tày có ý nghĩa thực
tiễn quan trọng.
Về chất đất trồng trọt: Ba Bể có đầy đủ các loại đất đặc trưng của tỉnh
Bắc Kạn đó là
- Đất Feralít vàng nhạt trên núi trung bình (13,38%)
- Đất Feralít điển hình trên núi thấp (71,%)
- Đất dốc tụ và phù sa (7,9%) ở ven sông, suối, thung lũng và các bãi
chân núi.
- Đất Feralít trên đá vôi (7,43%)
- Đất ngập nước (0,08%)
Ba Bể là một vùng đa dạng về mặt đất đai và địa hình. Trong đó có hai
loại đất canh tác nông nghiệp quan trọng nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
67
Trong đó đất Feralít điển hình trên đồi, núi thấp hình thành trên nền của
nhiều loại đá mẹ như phiến sét, granit, đá vôi, sa thạch…đất tốt, thành phần
cơ giới từ nặng đến trung bình, tầng đất trung bình và mỏng.
Đất dốc tụ và phù sa phân bố ven sông, suối trong các thung lũng hẹp
hoặc các bãi đá chân núi là loại đất hình thành do bồi tụ hàng năm của sông
suối hoặc do ảnh hưởng của lắng đọng, dốc tụ, đất có thành phần cơ giới từ
trung bình đến nhẹ, tầng đất dày, tơi xốp. Đây chính là diện tích đất nông
nghiệp quan trọng nhất của huyện. Đồng thời là điều kiện tốt để đa dạng hoá
cây trồng.
Đất Feralít vàng nhạt trên núi trung bình, đất Feralít trên đá vôi là điều
kiện thuận lợi phát triển cây lâm nghiệp trồng rừng và chăn nuôi. Đất ngập
nước được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản là chủ đạo.
Đặc điểm đó cũng ảnh hưởng lớn tới sự phân bố các loại hình đất trong
sản xuất.
Trước hết là đất nông nghiệp: do điều kiện của huyện miền núi, địa hình
phức tạp bị chia cắt bởi nhiều khe suối có độ dốc cao, vì vậy diện tích đất sản
xuất nông nghiệp rất hạn chế và manh mún. Chủ yếu là các cánh đồng bậc
thang có diện tích nhỏ, hẹp, hàng năm bị ảnh hưởng của mưa lũ gây xói mòn
làm đất bạc mầu nhanh. Đây là một khó khăn lớn gây ảnh hưởng không nhỏ
tới việc sản xuất của nhân dân. Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn
huyện khoảng 6770 ha, chiếm 9,9% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó đất
trồng cây hàng năm chiếm 84% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản: 245 ha
- Đất phi nông nghiệp là 2023 ha
- Đất chưa sử dụng: tổng diện tích chưa sử dụng khá lớn khoảng
13.167ha chiếm 19,3% tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện. Diện tích đất
chưa sử dụng chủ yếu là đât có khả năng lâm nghiệp (trồng rừng, khoanh nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
68
tái sinh rừng). Diện tích đất có khả năng nông nghiệp còn ít, điều kiện khai
thác tương đối khó khăn.
- Đất lâm nghiệp: chiếm 80% diện tích đất tự nhiên toàn huyện với
54.876ha
- Đất chưa có rừng là 19.820 ha
- Đất lâm nghiệp có rừng là 35.056 ha
3.1.1. Trồng lúa nước
Vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX người Tày ở Ba Bể có cả ba loại hình
canh tác nông nghiệp cơ bản ở miền núi là ruộng, nương - rẫy, vườn. Tuy
nhiên hình thức canh tác lúa nước trên ruộng vẫn chiếm vị trí chủ đạo
Ruộng theo sự khái quát của tác giả Đặng Phong: “nó gồm những đất
trồng ở đồng bằng, các thung lũng ở vùng núi, những ruộng bậc thang hoặc
sườn đồi” [27, tr 369 ].
- Công tác thủy lợi, tưới tiêu: Nước tưới có ý nghĩa quyết định đối với
việc canh tác lúa nước. Do không chủ động được nước tưới nên ở Ba Bể vào
thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX chỉ có một vụ trên năm. Mặc dù vậy, bà con
các dân tộc cũng đã sử dụng một số biện pháp để chủ động hơn trong việc
cung cấp nước tưới ruộng, cải tạo tự nhiên. Có nhiều cách để “Dẫn thuỷ nhập
điền” và thuỷ lợi luôn được chú ý đi trước một bước:
Bươn chiêng tò mạy lỉ
Bươm nhỉ tò mạy phai
(Tháng giêng lấy cây rào vườn
Tháng hai lấy cây làm phai) [3. tr.55].
+ Phai:
Khi lựa chọn khu đất để làm ruộng, người dân thường chọn khu vực
thuận lợi, đất tốt mầu mỡ, gần sông, suối để đảm bảo nguồn nước. Tuy nhiên
ở những nơi xa hơn, họ thường làm mương, phai dẫn nước. Do điều kiện địa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
69
hình nhiều sông, suối lên bà con không phải làm hồ chứa nước. Họ thường
đắp các Phai là đập ngăn sông, suối đưa nước vào ruộng. Sau khi chọn được
khúc suối tương đối trũng, họ đắp phai chắn ngang dòng chảy. Phai thường
được đắp bằng tre gỗ và đất đá. Thông thường tre, gỗ được dùng làm cốt, đắp
đất phủ lên trên làm nền, cây lá được dùng đắp thêm cho thêm chắc. Trung
bình cao từ 50 cm - 1,5m, độ dày khoảng 1m đến 30 - 40cm. Độ dài của phai
tuỳ theo mặt suối mà quyết định. Nước bị chặn dâng lên tràn qua mương được
đào theo các hướng dẫn nước về ruộng
+ Mương Nà:
Do địa hình ít khu vực rộng, bằng phẳng mà ruộng thường xen lẫn với
các quả đồi, người dân thường đào mương đất dọc theo chân đồi. Từ mương
đào thêm những rãnh nhỏ dẫn nước về ruộng. Hầu hết các mương được một
hoặc vài ba gia đình cùng nhau làm, có khi dài đến vài cây số. Tuỳ điêu kiện
địa hình, chất đất mà đào sâu, rộng khác nhau. Có đường mương sâu tới 1 - 2m,
cũng có nơi do địa hình trũng lên phải đổ đất bù thêm rồi mới đào mương ở giữa.
+ Lìn:
Lìn (máng nước) được sử dụng để dẫn nước về cung cấp cho sinh hoạt
gia đình hay cho sản xuất. Hình ảnh người phụ nữ khoác các ống đựng nước
bằng ống tre, vầu đi lấy nước từ những đường lìn dẫn nước từ trên núi xuống
là một hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của các dân tộc ít người.
Ở các khu vực có địa hình dốc không thể đào mương hay đối với ruộng
bậc thang người ta sử dụng Lìn (máng nước) đưa nước lên ruộng.Lìn được
làm bằng nhiều loại cây rừng khác nhau. Thông thường nhất Lìn được làm
bằng nhiều ống tre đục rỗng vì dễ tìm và dễ chế tạo. Tuy nhiên độ bền không
cao bằng lìn được làm bởi các chất liệu khác. Tre được lấy từ rừng về chẻ làm
đôi nối với nhau thành máng dẫn nước dọc theo các đồi, gò đất, đá đưa nước
vào ruộng. Ở một số nơi (như Hà Hiệu) người dân sử dụng ván gỗ ghép tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
70
hình chữ U để dẫn nước. Một đầu máng nối với mương, một đầu nối với
ruộng xa nhất có thể vươn tới. ở từng đoạn lại có các đương mãng nhỏ dẫn
nước vào từng ruộng hay chung cho vài, ba ruộng. Tuy nhiên đường máng
này thường ngắn hơn loại máng bằng ống tre.
Ngoài ra có thể dùng cây rừng là cây móc để làm lìn. Tiêu chuẩn cơ bản
để chọn cây làm lìn là cây phải thẳng, càng thẳng càng tốt. Cây thẳng không
cong sẽ tránh được nước đọng và giảm lực nước chả,y đặc biệt khi lìn chảy
qua địa hình dốc. Cây móc có đặc điểm cây to, ruột mềm nên dễ cải tạo thành
máng. Cây được chặt về, bổ đôi cạo sạch ruột và ghép thành lìn dẫn nước.
Qua địa hình dốc, khúc khuỷ có làm cây trống đở lìn, thường dùng gỗ chôn
xuống đất bắt chéo nhau để lìn lên trên. Lìn bằng cây móc bền hơn bằng tre.
Cá biệt có thể dùng cây gỗ độc mộc làm lìn. Các loại gỗ tốt được đốn hạ
dùng trâu kéo về nhà, bóc vỏ dùng vồ đục làm thành máng dẫn nước. Đây là
hình thức cá biệt thường là gia đình dồi dào về nhân lực hay nhà giầu mới
làm. Ưu điểm là bền chắc, sử dụng lâu dài nhưng tốn nhiều công sức.
+ Cọn Nặm (con quay nước):
Đối với những ruộng gần khe, suối đôi khi nhân dân không đào mương
mà dùng cọn nặm. Cọn nặm là những bánh xe hình tròn đường kính từ 2 - 3m,
cao khoảng 6m. Tuỳ theo địa hình cao, thấp mà sử dụng loại Cọn Nặm to hay
nhỏ. Bên trong bánh xe là có trục gỗ và các nan được đan bằng tre, vầu xung
quanh trục gỗ. Trên địa bàn huyện hệ thống cọn nặm dọc theo dòng suối chảy
qua các xã Bành Trạch, Phúc Lộc, Hà Hiệu, Chu Hương, Mỹ Phương là lớn
và tập trung nhiều nhất. Riêng ở xã Hà Hiệu đã tập trung một hệ thống cọn
nặm khá lớn. Xã Hà Hiệu từ xưa đã được đánh giá là một trong những vùng
đất mầu mờ nhất và cùng với các xã Phúc Lộc, Chu Hương, Yên Dương, Mỹ
Phương là vựa lúa của cả huyện. Những cánh đồng Nà Gia, Nà Vài và cả
Tổng Moó nổi tiếng mầu mỡ từ nhiều đời nay được “nuôi dưỡng” bởi các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
71
dòng sông Tả Giải và Khuổi Duồng, Khuổi Liện, Khuổi Vài.. “Trước Cách
mạng tháng Tám, chỉ bằng những dụng cụ thủ công người dân ở đây đã dựng
tới 13 cái cọn dẫn nước sông vào các cánh đồng Nà Mèo, Nà Giá, Nà
Biến…” [20, tr.7].
“Hoàn toàn được làm bằng tre, nứa, gỗ, mây. Đó là những chiếc bánh
xe có đường kính rộng hẹp khác nhau trên dưới trục mét tuỳ theo sự cao thấp
của mặt ruộng so với mặt nước của sông hay suối. Bánh có những cánh quạt
cản nước vào các ống bương đựng nước buộc chếch ở ngoài vành bánh xe,
nước chảy đẩy bánh quay, đưa nước vào ống bương và khi ống bương quay
lên phía trên tự đổ vào máng dẫn nước đặt ngang và nước theo ống máng nối
liền với ruộng…”[42,tr.44]
- Kĩ thuật làm đất:
Tiêu chí đầu tiên để chọn một khu đất làm ruộng là phải tương đối bằng
phẳng, chất đất tốt, tuỳ theo diện tích mà làm ruộng to hay nhỏ. Tuy nhiên,
càng bằng phẳng càng tốt và có nguồn nước ở gần là ưu tiên số một. Tiếp đó
san cho thật phẳng rồi đắp bờ xung quanh hình chữ nhật để giữ nước tốt nhất.
Đưa nước vào ruộng rồi cày bằng cày chìa vôi cùng trâu.
Tuỳ theo địa hình mà mỗi vùng có kĩ thuật làm đất khác nhau. Ở Chợ Rã
là cày lật đất, bừa đi cho phẳng, vạc bờ cho sạch rồi bừa lần ba là hoàn chỉnh
rồi cấy. Khu vực nào đất nhào, tụt như Bộc Bố (Pắc Nặm), người dân cho trâu
dầm đất cho nhão rồi cấy. Khi không có trâu thì dùng cuốc cuốc ruộng hay
người dẫm. Ruộng trũng cầy lật lên để cỏ thối rồi cấy.
Kĩ thuật làm đất về cơ bản trước hết là cuốc bờ cho sạch. Đồng thời đắp
và củng cố bờ cho chắc. Cày lần một bằng cày chìa vôi với trâu sau đó bừa.
Đặc biệt bừa rất quan trọng trong công việc làm đất, người nông dân thường
bừa bốn lần trước khi cấy. Bừa có hai loại là bừa đơn và bừa đôi. Bừa đơn với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
72
một trâu, bừa đôi gồm hai trâu, một trâu to đã thành thạo đường đi để kèm
trâu nhỏ quen với việc cày bừa.
+ Bừa lần một cho tơi đất
+ Cày xới lần hai
+ Cày lần ba
+ Trước khi cấy bừa lần nữa
Để đất tơi và nhuyễn thường làm từng thửa một cho kĩ. Công cụ làm đất
về cơ bản gồm có: Cày chìa vôi, bừa, cuốc, xẻng và dao. Trong đó cày chìa
vôi và bừa đóng vai trò cực kì quan trong đối với khâu làm đất.
Cày chìa vôi trước đây thường được làm bằng gỗ Nghiến hoặc gỗ Lát.
Đây là hai loại gỗ cứng đáp ứng được yêu cầu về độ bền và ít bị mòn. Gỗ
được sử dụng làm cày được khai thác từ rừng già, cây gỗ được chọn phải là
cây tương đối thẳng, đường kình khoảng 20cm là được. Cây được đốn và tỉa
hết cành lá đem về tước vỏ và đẽo. Một cây dài chỉ làm được 2 đến 3 chiếc,
phần gỗ ở gốc cây tuy khó đẽo nhưng lại được ưa chuộng nhất do có độ bền
cao. Khi đẽo sẽ tiến hành đẽo từ phần ngọn là lưỡi cày trước rồi mới tới gốc.
Cày chìa vôi gồm bốn bộ phận cơ bản là:
+ Đang thây (thân cày)
+ Cạp thây (bắp cày)
+ Đẳng thây (chốt cày)
+ Mê tấu (miếng đệm)
Một chiếc cày tốt được đẽo đúng kĩ thuật chỉ sử dụng được từ hai đến ba
năm là phải thay thế. Ngày nay, cày chìa vôi đã có nhiều biến đổi song vần
được ưa dùng do lưỡi nhỏ, lật đất theo sự điều khiển của người cày, thích hợp
với ruộng nhỏ, ruộng bậc thang, ruộng lầy thụt, dễ quay đảo…
Đối với ruộng trồng ngô, mầu người nông dân sử dụng loại bừa có hai
hàm răng gọi là Bằng Pía. “ Ngoài chiếc cày, bừa, cư dân hai bờ sông Năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
73
và sông Cầu có tập quán canh tác trên soi bãi hoặc sử dụng ruộng một vụ
trồng ngô, mầu. Người ta làm cái trang bừa (tiếng tày gọi là Pía), gồm hai
cái bừa đóng liên kết lại như cái ghế dài, người có thể đứng lên trên đó để
trâu, bò kéo bớt cỏ và làm nhỏ đất” [3, tr.54].
- Thời vụ gieo cấy
Vào đầu thế kỉ XIX do điều kiện kĩ thuật canh tác còn lạc hậu phụ thuộc
nhiều vào tự nhiên nên mỗi năm chỉ có một vụ. Thông thường thì:
+ Tháng 2, 3 làm đất
+ Tháng 3 gieo mạ
Gieo mạ cũng là một công đoạn quan trong đối với việc trồng cấy. Từ
xưa người Tày đã có câu:
"Nà thả chả lẻ đây
Chả thả nà bấu hay đẩy khẩu".
(Ruộng ngấu chờ mạ thì tốt lúa
Mạ già chờ ruộng không được mùa) [39, tr.31]
Người nông dân thường chọn khu ruộng mầu mỡ nhất để gieo mạ và
thường có một khu ruộng quen chuyên dụng để gieo mạ. Đầu tiên là cày ải rồi
phơi cho tơi xốp, đưa nước vào ruộng, bừa nhiều lần cho thật nhuyễn rồi gieo
hạt. Thường để mạ nẩy mầm và phát triển tầm 10 - 15cm, cũng có vùng như ở
Khang Ninh để mạ phát triển đến 30cm mới đem cấy. Do nước lụt, cây không
phát triển kịp và để mạ già như vậy sẽ chắc cây và cây lúa sẽ lớn nhanh.
“Để gieo mạ, người ta ngâm thóc giống một đêm hoặc hơn một đêm rồi
vớt ra ủ. Khi thời tiết rét lạnh cần ủ kín hơn, mỗi ngày dội nước ấm một đến
hai lần. Thóc nẩy mầm đều mới đem vãi. Ruộng mạ được bón lót phân bừa kĩ
cho đất nhỏ, nhuyễn, bằng phẳng, sạch cỏ rác và được giữ nước sâu 5 - 7
phân. Bùn lắng, nước trong mới vãi khiến hạt giống rơi từ từ không ngập bùn
và để trông thấy hạt giống khi vãi không bị dầy mỏng khác nhau. Thướng mạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
74
xới gieo dầy, mạ nhổ gieo thưa và tuỳ giống lúa mà gieo khoảng 0,1 - 0,2 kg/m2
sau đó người ta từ từ gạn nước, hoặc lên luống tạo mặt bằng. Cách làm này
rễ rơi sâu vào bùn nhuyễn, rễ dài, lúc nhổ cấy phải nặng tay. Khi có cơn mưa
to hay mưa giông, người ta cho nước đầy ruộng mạ để tránh mưa nặng hạt
làm tung đất bùn lấp chết mầm hạt, hoặc khiến rễ sâu khó nhổ nước chảy chôi
hạt giống…” [3, tr.55].
+ Tháng 4 cấy sớm đầu tháng 5 cấy trải dài hết. Đây là điều bắt bộc đối
với nông lịch của đồng bào vì nếu để quá tháng 6 mà chưa cấy xong thì năm
đó sẽ mất mùa:
"Đăm lập mảu nua chăm tên các
Đăm lăng mảu thai tác pền văng".
(Cấy kịp thời vụ thì lúa nếp, tẻ đầy gác
Cấy sau vụ thì lúa chết thành cỏ vực) [3, tr.55].
Thời điểm cấy là 3 - 5 ngày sau khi bừa. Tuy nhiên, đối với ruộng cát (ví
dụ ở Hà Hiệu), bừa xong sẽ cấy luôn. Trước khi cấy, các bô lão và chức dịch
trong làng phải thực hiện một số nghi thức nông nghiệp bắt buộc.Ví dụ: Khu
vực thôn Nà Ma và Cốc Lót vào đúng ngay 6/6 hàng năm có thịt gà, đồ xôi
làm lễ cúng ở đình nhằm bào cáo với thánh thần vụ cấy chính thức hoàn
thành. Trước khi bừa cấy có bón lót bằng phân chuồng.
Phân bón là loại phân chuồng hoai mục. Có nhiều cách ủ phân tuy nhiên
có hai cách ủ cơ bản sau: Thứ nhất là đào hố gần chuồng trâu bò (đồng bào
thường nhốt trâu bò ở gầm nhà sàn vào buổi tối). Hố có thể là hình chữ nhật
hoặc hình tròn chứa phân và nước thải gia súc. Tuỳ theo lượng phân cần có
mà đào hố chứa, ở dưới đáy hố có thể lót lá cây dễ thối như: lá xoan, lá cây
chó đẻ… sau đó sẽ lấy phân chuồng đổ vào. Sau đó trải tiến một lượt lá cây
lên trên và lấy bùn ướt đắp lên cho kín. Một thời gian sau, phân sẽ được phân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
75
huỷ do nhiệt độ, lá cây và vi khuẩn. Phân tơi xốp, hết mùi hôi thối có thể đem
bón ruộng.
Cách thứ hai là không cần đào hố mà ủ phân trực tiếp trên mặt đất. Quy
trình các bước tương tự như trên. Tuy nhiên cách ủ phân này sẽ giữ chất kém
vì bị ảnh hưởng bởi mưa và nước chảy.
“Trước khi cấy, đồng bào thường bón lót phân chuồng - chủ yếu là phân
trâu. Những thửa ruộng xa, không tiện vận chuyển phần lớn là cấy chay. Nói
chung, sau khi cấy ít có điều kiện bón phân. Ngoài vai gánh, đồng bào còn
làm những chiếc loỏng là những khúc gỗ to khoét thành máng như thuyền độc
mộc, có thể chứa hàng chục gánh phân, dùng trâu kéo chuyển phân ra đồng.
Những nơi có hang động như Na Rì, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bắc Bạch
Thông…người ta vào hang lấy phân dơi để bón lúa và cây trồng rất tốt…”
[3, tr.54]
Phân dơi cũng là một nguồn phân bón quan trọng trong nông nghiệp của
đồng bào các dân tộc Ba Bể. Không chỉ ở khu vực Chợ Rã mà việc khai khác
phân dơi bón ruộng đã có từ lâu đời, được phổ biến ở nhiều địa phương. Tiêu
biểu là khu vực Quảng Khê, nơi có hệ thống hang động lớn và mật độ khá
dầy. Nghề lấy phân dơi có quy mô lớn được tiến hành thường xuyên, cung
cấp một lượng phân bón lớn cho ruộng. Đặc biệt nhờ khai thác phân dơi,
người dân đã phát hiện ra động Hua Mạ - một thắng cảnh với nhiều nhũ đá kì
thú. Hiện nay động Hua Mạ đang là một trong những điểm du lịch hấp dẫn.
Thời vụ gieo cấy cũng có sự khác biệt giữa các vùng do phụ thuộc nhiều
vào thời tiết. Ở vùng cao do khí hậu lạnh, người dân cấy sớm hơn khu vực
phía nam như Bộc Bố (Pắc Nặm) tháng 1 đã cấy. Hay khu vực Chợ Rã, Cao
Thượng, Nam Mẫu, Cao Trĩ, Khang Ninh, tháng 7 mới cấy để tránh nước
ngập. Đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm
về thời tiết và nông vụ như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
76
"Nà lẹng nắm khẩu hua
Nà luốt nẳm khẩu nua".
(Ruộng cạn cấy lúa sớm
Ruộng thụt cấy lúa nếp) [39, tr.31].
Hay:
"Fạ mà bươn ết mí hết cụng đảy chin
Fạ mà bươn lạp chập chạp đảy chin
Fạ mà bươn chiêng phiêng lắt phiêng lí
Fạ mà bươn nhỉ tỉ đảy chin tỉ bấu
Fạ mà bươn slam ham đông pá".
(Sấm mưa về tháng 11 không làm cũng được ăn
Sấm mưa về tháng 12 làm ăn bấp bênh
Sấm mưa về tháng giêng làm ăn thuận đều
Sấm mưa về tháng 2 được mùa không đều
Sấm mưa về tháng 3 chết đói khiêng chôn trên ngàn) [39, tr.21-22].
Yếu tố kinh nghiệm trong sản xuất được đề cao thể hiện truyền thống
canh tác nông nghiệp canh tác lúa nước:
"Thây nà lập đông
Khẩu thuổm tằng tồng
Lặm cằn nưa phưa cằn tẩư"
(Cày ruộng lập đông
Thóc gạo đầy đồng
Đan trĩu bờ trên bờ dưới) [39, tr.35]
Hay
"Fạ kết pja lẻ phân
Fạ kết hên lẻ đét".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
77
(Trời có mây hình vẩy cá thì mưa
Trời có mây hình vẩy beo thì nắng) [39, tr.21).
- Chăm sóc lúa
Kĩ thuật canh tác đóng vai trò quan trong giúp cây phát triển tốt và tránh
sâu bệnh. Tuy nhiên, do điều kiện vùng cao còn nhiều lệ thuộc vào tự nhiên kĩ
thuật chăm sóc lúa còn thô sơ.
Thông thường một tháng sau khi cấy, mạ cao khoảng 30cm sẽ làm cỏ,
xục bùn tạo điều kiện cho cây phát triển. Cách làm cỏ là huy động người
trong gia đình đi nhổ cỏ. Dùng chân xoa và nhổ cỏ lên, dẫm xuống bùn làm
phân. Sau đó tháo nước ra khỏi ruộng để phơi cho ruộng khô nứt rồi tháo
nước vào nhằm mục đích làm chết cỏ, giúp cây cứng và hạn chế cây đẻ
nhánh. Khi cây sắp ra đòng bòn thúc bằng phân chuồng hoai mục, do điều
kiện đất đai khá tốt và tập tục ít dùng phân bón, thường từ vụ thứ hai mới
dùng phân bón.
- Thu hoạch
Lúa sớm sau khi cấy vào tháng 5 đến tháng 9-10 là được thu hoạch, tuỳ
theo giống lúa. Thông thường cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm là được thu
hoạch. Loại lúa sớm hay được sử dụng nhất là Khẩu Pây, từ khi trồng đến khi
thu hoạch là 3 tháng. Gạo ăn thơm, ngon, trắng và dẻo.
Giống lúa tẻ được sử dụng đại trà nhất là Khẩu Lài (giống gạo Bao Thai
ngày nay). Cây sinh trưởng nhanh, chống chịu sâu bệnh tốt.
Giống lúa nếp hay được trồng là Khẩu Lếch hạt to, ăn ngon dù không
được thơm, vỏ ngoài mầu trắng. Khẩu Hom vỏ thóc hồng, Khẩu Đeng hạt to,
mẩy…
Ở những vùng cao người nông dân thường để lúa chín, khô rồi gặt và đập
ngay tại ruộng. Thường là cắt bằng liềm rồi chải Tẹm ra, đặt Loỏng lên trên,
đập bằng Loỏng. Loỏng là cây to được khoét ruột thường dài 2 - 3m, rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
78
trung bình 80 cm. Người đập đứng hai bên đập lúa. Đập xong sẽ gánh về cho
vào bồ, khi ăn mới giã lấy gạo.
Khu vực Chợ Rã và các xã phía Nam, người dân thườn dùng Bẳng Phè Quạn Khẩu để đập lúa. Bẳng Phè là những tấm phên đan bằng tre hoặc dùng
ván gỗ ghép lại thành hình tam giác, khi sử dụng thì hai người đứng hai bên
đập cho thóc rụng xuống. Quạn Khẩu là chải những tấm tẹm được đan bằng
tre có diện tích tới 5 - 6m rồi xếp các ôm lúa lên trên tạo thành vòng tròn cho
trâu đi theo vòng dẫm cho hạt thóc rơi khỏi rơm. Thóc được gánh về bằng
Xoỏng là dụng cụ để gánh hai dầu đan bằng tre, mây có quay để xỏ đòn gánh.
Thóc mang về nhà sẽ cho vào bồ, tiếng Tày gọi là cái Bung, dùng dần khi cần
mới xay thóc lấy gạo.
Đối với lúa nếp thường cắt từng bông bằng liềm bó thành từng bó. Cứ ba
bó làm một gánh về phơi trên vách. Khi cần lấy gạo thì tuốt bằng chân rồi cho
vào bao đập, hay cho cả bó vào bao đập lấy gạo.
Việc canh tác lúa nước đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân
Ba Bể. Công việc nhà nông của từng gia đình, không chỉ là trách nhiệm và
quyền lợi của mỗi cá nhân trong gia đình mà còn được cả cộng đồng quan
tâm, chú ý. Một ví dụ tiêu biểu nói lên tầm quan trọng của thời vụ gieo cấy và
thu hoạch là ở Hà Hiệu dù làm gì đến 6/6 phải cấy xong. Nếu làng thấy thửa
ruộng nhà ai chưa xanh mầu mạ thì thành viên trong gia đình đó sẽ bị gọi ra
đình làng, và bị các bô lão kiểm điểm. Tương tự như vậy, cứ đến 15/10 hàng
năm, tất cả các hộ phải gặt xong. Nhà nào không gặt xong sẽ phải tự xoay xở,
vì theo quy định sau 15/10, trâu của tất cả các nhà phải được thả giông cho
nghỉ ngơi. Những quy định này có tác dụng tích cực thúc đẩy nhân dân hăng
say chăm chỉ lao động, loại bỏ tư tưởng chây lười và không gây ảnh hưởng tới
nhân dân trong làng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
79
3.1.2. Nương rẫy
Nương và rẫy căn bản giống nhau, đều là “đất trồng khô trên sườn đồi,
sườn núi hoặc cao nguyên” [27, tr362 ].
Địa hình Ba Bể phần lớn là đồi núi nên nương rẫy là loại hình canh tác
quan trọng đối với đồng bào các dân tộc đặc biệt là đối với những nơi có địa
hình không được thuận lợi như Địa Linh, phần lớn là làm nương rẫy.
Trước đây nương rẫy đối với người Tày chỉ đứng vị trí thứ hai sau canh
tác lúa nước. Thông thường chỉ những hộ người Tày nghèo, ít ruộng mới làm
nương. Nương của người Tày có độ cao thấp hơn người Dao, người Sán Chí
và thường là nương ngô, nương bông. Nương của người Dao, Sán Chí, Mông
ở độ cao lớn hơn chủ yếu là nương lúa.
Quá trình khai phá thường là: phát, đốt, làm đất, trồng cây, làm cỏ và
thu hoạch.
Khu vực được chọn làm nương thường là rừng già có nhiều mầu, đất
rừng tương đối bằng phẳng, kinh nghiệm chọn đất làm nương là đất rừng phải
tơi, xốp và có mầu đen mới được chọn. Phần lớn nương trồng lúa là đất thịt,
nhưng nơi đất phá cát dùng để trồng ngô do ngô chịu hạn nên không cần
nhiều nước như lúa.
Thông thường cứ tháng giêng, tháng hai hàng năm phát rừng trước hết
phát quang, cắt rễ cây để khô rồi đốt, thân cây to để mục. Tháng 3 đốt rừng
dọn sạch rẫy đến cuối tháng 3 đầu tháng 4 trồng cây. Nương của người Dao là
lớn và có quy mô nhất trong số các dân tộc. Công cụ lao động dùng để khai
phá nương rẫy chủ yếu là búa, rìu, cuốc, bai, liềm và dao cắm.
Phát nương có nguyên tắc cơ bản là phát từ dưới lên, phát cây to trước,
cây nhỏ sau. Đối với cây to, họ chặt hết cành xuống rồi mới ngả cây. Người
Dao và người Nùng có nhiều kinh nghiệm làm nương rẫy lên thường chọn
những cây to chặt đứt một nửa rồi chọn hướng đẩy cây đổ xuống. Cây đổ sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
80
kéo theo nhau, và kéo theo các cây nhỏ cùng đổ đỡ tốn công hơn là tỉa và chặt
từng cây một. Sau đó chỉ việc chặt cành, dọn dẹp chờ cây khô rồi đốt.
Nương rầy sau khi phát xong sẽ để cho cây khô khoảng 15 ngày đến 1
tháng là cây khô ròn. Khi đó, tuỳ theo điều kiện thời tiết mà tiến hành đốt
nương. Thông thường, nương được đốt vào những ngày có nắng và vào buổi
chiều cho dễ cháy. Sau khi đốt nương khoảng 5 đến 7 ngày sẽ dọn nương,
những thân gỗ to chưa cháy hết sẽ được để mục còn những cành chưa cháy
hết sẽ dùng làm củi. Lúc này tác dụng của dao qoắm được sử dụng triệt để
dao có thể dọn dẹp những cành cây còn sót lại có thể móc và chặt những rễ to
ở dưới đất.
Nương mới không phải làm đất mà sẽ tiến hành trồng cây luôn. Hình
thức phổ biến nhất là vãi hạt rồi dùng cuốc, bai lấp đất lên hay cuốc khô rồi
tra hạt. Dụng cụ đa năng được sử dụng nhiều là bai. Bai gồm hai bộ phận là
lười bai bằng sắt hình chữ nhật khoảng 25 - 30 cm trước đây do gia đình tự
ren lấy. Cán bai tiếng địa phương là Pác bai làm bằng gỗ dài khoảng 1- 1,5 m
bằng gỗ tốt. Thường dung gỗ Lát làm cán bai. Bai được dùng lấp hạt và còn
được dùng để rẫy cỏ chăm sóc lúa, ngô. Nếu nương quá dốc sẽ dùng thân cây
Sặt vót nhọ chọc lỗ tra hạt. Thông thường mỗi lỗ cách nhau 20cm.
Các giống lúa nếp thường được sử dụng là:
+ Khẩu Mộ: Chống được hạn nhưng chất lượng không được tốt lắm do
gạo ăn cứng, không bở
+ Khẩu Chăm lương: gạo ăn thơm ngon
+ Khẩu Chất
Các giống lúa tẻ là Khẩu Chẩng hay còn gọi là Khẩu Đăm
Nương cũ làm lần thứ hai, thứ ba sau khi thu hoạch, người dân chỉ cắt
ngọn đối với lúa và bẻ bắp đối với ngô để cây tự hoai mục. Người Tày làm
hai đến ba vụ lúa, chuyển sang trồng ngô, sẽ dùng trâu cày đất và gieo hạt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
81
Người Dao, Sán Chí làm hai, ba vụ thấy bạc mầu sẽ chuyển đi tìm nơi khác
mầu mỡ hơn.
Nương lúa, ngô khi đã mọc cao khoảng 40- 50 cm sẽ làm cỏ một lần, chủ
yếu dùng bai xới cỏ, lật úp rồi dùng chân xoa, dẫm cho cỏ chết. Nêú quá rậm
sẽ làm cỏ lần hai vào lúc lúa, ngô sắp ra đòng. Do đất còn tốt lên không dùng
phân bón. Sau khi làm được hai đến ba vụ, người Tày sẽ dùng phân chuồng
bón cho lúa, ngô.
Khi lúa, ngô đã chín, công tác bảo vệ được chú trọng. Do điều kiện rừng
núi, người dân phải chú ý bảo vệ thành quả của mình trước sự phá hoại của
các loại thú rừng như khỉ, lợn rừng, hươu, nai, chim chóc…. Biện pháp cơ
bản là làm lán và cử người canh nương, khi có thú rừng đến phá lúa, ngô sẽ
đánh mõ để đuổi hay dung súng kíp bắn thú. Ngoài ra có thể làm bù nhìn đan
bằng tre có hình người cho mặc áo để đuổi chim, thú.
Tháng 7 - 8 lúa chín có thể thu hoạch được. Hình thức thu hoạch là cắt
từng bông bằng liềm hay hép. Hép là dụng cụ cắt lúa bằng gỗ hình con bọ
Muỗm gồm bốn bộ phận. Thân hép thường được đèo bằng gỗ thịt có thể dùng
gỗ ổi, mít hay gỗ cây rừng. Lưỡi hép bằng sắt được gắn với thân Hép dùng để
cắt. Cánh hép là ống tre, trúc nhỏ xỏ qua thân hép làm điểm tựa khi cắt. Dây
buộc hép để xỏ vào cổ tay trong khi lao động tránh bị rơi. Người khéo tay và
quen việc một buổi lao động có thể cắt được 4 - 6 cum lúa. Cum là bó lúa
nặng khoảng 5kg hạt. Cứ hai cum một bó lớn, mỗi gánh hai bó gành về nhà
không để thóc ở nương.
Có hai hình thức nương rẫy là nương định canh và nương du canh.
Người Dao, người Sán Chí thường làm nương du canh, người Tày thường làm
nương định canh.
+ Nương định canh: chọn vùng đất tương đối thoai thoải thường độ dốc
từ 200 trở xuống, nhiều mầu để làm nương. Nương trồng lúa chọn nơi có đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
82
thịt là chủ yếu nhưng đôi khi cũng chọn nơi có đất cát pha sét. Nương trồng
lúa được 2 đến 3 vụ sẽ chuyển sang trồng ngô lâu dài. Nương định canh sau
khi thu hoạch sẽ để thân cây hoai mục làm phân bón rồi dùng bừa hay cuốc
cào lên trồng tiếp vụ sau. Người Tày sau khi trồng từ 1 – 2 vụ lúa sẽ chuyển
sang trồng ngô chứ ít khi bỏ hoang
+ Nương du canh: thường làm lúa hoặc ngô từ một đến hai vụ rồi bỏ đi
tìm nơi khác mầu mở hơn. Người Dao, Sán Chí, Mông có lối sống du canh du
cư thương xuyên chuyển chỗ ở lên làm nương một đến hai vụ, đến vụ thứ ba,
thứ tư khi đất bạc mầu sẽ chuyển chỗ
+ Nương trồng bông:
Mùa xuân khi cây cối đâm trồi, lẩy lộc là lúc đồng bào các dân tộc Ba Bể
bắt đầu đi trồng Bông, cây nguyên liệu để dệt vải. Bông thường được trồng
trên những nương ven suối, lạch hay ven đồi. Chọn nương là khoảng rừng già,
nhiều mầu, đất tương đối bằng phẳng. Dùng dao don sạch, Rắc hạt bông rồi
dùng cuốc lấp đất, sau 15 hôm cây sẽ nảy mầm, sinh trưởng phát triển tốt.
Mảnh đất trồng Bông thường rộng từ 2 - 3 sào trở xuống, chất đất trồng phải
là đất pha cát sỏi.
Người Sán Chí thường trồng Bông vào tháng 3 và đến tháng 8 sẽ được
thu hoạch. Khi cây cao tầm một gang sẽ tiến hành làm cỏ. Cây trưởng thành
cao từ ngang hông đến vai người khoảng từ 1- 1,5m. Khi cây cao ngang hông
ngắt ngọn cây sẽ cho nhiều cành. Cùng có vùng vào Tháng 7 đã được thu
hoạch. Cách thức thu hoạch là đi nhặt hạt bông, phơ khô, cán và bật bông,
cuộn lại thành cuộn rồi quay thành sợi.
Quả Bông sau khi già sẽ được hái và phơi khô sau đó cán hạt riêng ra.
Bật bông cho tơi rồi cán thành cuộn sau đó cho vào thoi quay thành sợi. Nấu
cơm nát cho vào sợi, đạp sợi bằng chân, vắt sợi cho hết nước rồi đem phơi
(nước gạo giúp sợi mịn, chắc) cuộn thành vòng kéo dài và đem dệt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
83
3.1.3. Làm vườn
Đồng bào các dân tộc thường kết hợp trồng các loại rau củ như rau cải, bí
đỏ, dưa hấu, dưa bở… quanh nương trồng lúa. Chẳng hạn bên rìa của nương
lúa có trồng các loại dưa (qua, pheng). Đây là nguồn cung cấp rau xanh và
hoa quả cho bữa ăn hàng ngày của từng gia đình. Những gia đình giầu có đều
có một khoảng vườn ở gần nhà, thường là ở phía trước nhà. Vườn được rào bằng
hàng rào là thân tre, nứa đập dập, ghép lại đan thành phên rào xung quanh.
Vườn thường trồng các loại rau cải, bí hay cây ăn quá như mít,
mậm…Cũng có khu vực như Khang Ninh, đồng bào dùng trâu cầy, cầy lên
sau đó bừa đi và đánh luống làm bãi gieo cải, đỗ…
3.2. Chăn nuôi
Các loại gia súc như trâu, bò chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của
đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể.Chăn nuôi nhằm mục đích lấy sức kéo và
là nguồn cung cấp phân bón ruộng.
Nền kinh tế cơ bản của đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể là nông
nghiệp lên việc chăn nuôi gia súc chiếm vị trí quan trọng. Mỗi hộ gia đình đều
có đàn gia súc riêng của mình. Nhà nuôi ít là 2- 3 con, nhiều từ 10 - 20 con.
Con giống được lựa chọn phải là con to, mập, có khoáy (tránh khoáy trên vai
do đồng bào quan niệm có khoáy trên vai trâu, bò không chịu kéo cày). Hình
thức chăn nuôi về cơ bản là chăn thả. Ngày thả tối mới đi lùa trâu, bò về chuồng,
còn thì sau khi thu hoạch, đông bào thả rông từ tháng 11 - 12 đến khi bắt đầu
cày khoảng tháng 3. Khi trâu, bò đẻ có nấu các loại cháo cho ăn để bồi bổ.
Việc chăn nuôi lợn đảm bảo nguồn cung cấp thực phẩm trong các dịp lễ
tết và hội hè, đình đám được chú trọng. “Trước đây vùng Chợ Rã có giống lợn
to (lợn lang trắng hoặc đen) được nhiều nơi đến đây mua giống” [3, tr.59].
Điều đó chứng tỏ việc nuôi lợn đã được đồng bào quan tâm phát triển từ
sớm.Tuy nhiên giống lợn được nuôi phổ biến nhất là giống lợn được lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
84
giống của người Mông. Đó là các giống Mu Đăm (lợn Khoang), Mu Đáng
(lợn Đen)
- Cách chọn giống: Có nhiều cách chọn giống, phổ biến nhất vẫn là cho
lợn ăn xem con nào phàm ăn chứng tỏ sẽ sinh trưởng tốt. Hay xem giống lợn
con nào lông thưa, đều, mõm to, vai rộng thì nuôi chóng lớn và tăng cân
nhanh. Theo quan niệm của người dân lông dày khó nuôi và lớn chậm.
- Chăn nuôi, chăm sóc: Thức ăn dùng để chăn lợn được tận dụng từ
những sản phẩm thừa trong sản xuất nông nghiệp và tìm kiếm được trong tự
nhiên. Thức ăn hàng ngày của lợn là chuối rừng, mon được thái nhỏ đun lên
cho thêm ngô, tấm cám trộn lẫn và cho ăn. Khi Lợn ốm, đồng bào có kinh
nghiệm pha nước muối loãng cho uống đẻ chữa bệnh.
Lợn đẻ con lên rừng tìm cây Bơ Tha, Bơ Ngoai thái ra chộn với bột ngô
cho ăn. Cho lợn ăn những thức ăn đó mới có nhiều sữa nuôi con và còn có tác
dụng phòng bệnh, do thân và lá cây có chất kháng sinh tự nhiên
Ngoài ra, đồng bào còn chăn nuôi các loại gia cầm gà, vịt nhắm cung cấp
các sản phẩm cho bữa ăn hàng ngày, tiếp khách và cúng lễ. Đối với gà vịt,
hình thức chăn thả vẫn được áp dụng, gà chỉ về ở dưới gầm sàn khi trời tối.
Để bảo vệ gia cầm, đồng bào có làm chuồng nhốt gà. vịt. Nguyên liệu làm
chuồng là các loại tre, nứa đập dập đem về đóng và đan thành hình vuông hay
hình chữ I. Mái dùng cỏ gianh lợp. Kích thước thông thường dài khoảng hai
sải tay, cao khoảng 1m là thích hợp để nuôi nhốt gia cầm. Nếu gà sinh trường
tốt, tăng nhanh về số lượng, có thể ngăn đôi chuồng.
3.3. Nghi lễ và tín ngƣỡng liên quan đến trồng trọt
- Cúng tế thần nông: tập trung và tiêu biểu nhất được thể hiện qua Lễ hội
Lồng Tồng:
“Trong năm người Tày có lễ hội lớn nhất là hội lồng tổng (xuống đồng).
Mỗi làng có một ngày lễ hội vào đầu xuân. Mục đích chủ yếu của lễ hội này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
85
là cúng thần cầu cho mùa màng bội thu, làng bản an cư lạc nghiệp, sau nữa
là để vui chơi giải trí” [3, tr.155].
Nhiều làng trong địa bàn tỉnh Bắc Kạn, hội lồng tổng có rất đông khách
thập phương tới dự như: Nà Rì, Cao Kì, Hà Hiệu, Đông Viên, Lương Hạ…
Theo Th.s. Bàn Tuấn Năng Phó phòng bảo tàng & QLDT Sở VHTT Bắc
Kạn, không chỉ riêng Bắc Kạn, lễ hội Lồng Tổng (Cầu mùa) là một lễ hội đặc
trưng của cư dân Tày - Nùng ở nhiều vùng trong địa bàn miền núi phía Bắc.
Nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố chủ đạo là cầu mùa trong lễ hội thì không chỉ
riêng đồng bào Tày - Nùng mới có ứng xử văn hoá này. Nó là ứng xử chung
của cư dân nông nghiệp. Ở vùng xuôi, đồng bào Kinh còn có những lễ hội
riêng liên quan đến việc cầu mùa như:- lễ hội được tiến hành với mục đích
cầu mưa, chống hạn (Hội chùa Dâu – Thuận Thành - Bắc Ninh);- lễ hội nhắc
nhở đến vai trò của phân bón (Hội Cổ Nhuế – Từ Liêm - Hà Nội)... Vùng Tây
Nguyên, đồng bào Ba Na khi tổ chức lễ hội đâm trâu cũng với ý nghĩa tạ ơn
Yàng (giàng) đã ban cho mình sức khoẻ cùng các sản vật, mùa màng tươi tốt.
Với người Tày nói chung và người Tày Bắc Kạn nói riêng, công việc sản
xuất được tiến hành căn cứ theo thời tiết (nói đúng hơn là lịch tiết) nên hội
Lồng Tổng bao giờ cũng được tiến hành vào mùa xuân (tháng giêng). Quy mô
tổ chức lễ hội này thường chỉ ở cấp làng (thôn, bản). Căn cứ theo quy mô quỹ
đất ruộng, nương của từng gia chủ, các bậc vai vế trong làng sẽ họp nhau lại
để giao cho gia chủ, hoặc một nhóm gia chủ trong làng, chuẩn bị một vài
mâm cỗ để cúng thần Nông, thần Núi, thần Rừng... trong năm đã giúp cho
làng đó bội thu.
Trong hội Lồng Tổng ở Bắc Kạn, đối tượng tham gia hành lễ có 04 thành
phần chính:- Có thể là ông Tào tham gia hành lễ (vùng Yên Thịnh, Yên
Thượng huyện Chợ Đồn là phổ biến nhất); có thể là ông Mo (Pú Mo) - đây là
đối tượng khá phổ biến); nếu hội được tổ chức ở những nơi có đền, miếu... thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
86
đối tượng hành lễ sẽ là ông Pò Thại (người trông coi đền, miếu); ngoài ra còn
có thể có một đối tượng khác tham gia hành lễ là người già thông thạo chữ
nghĩa, tử vi, có uy tín đối với bản làng.
Việc tổ chức lễ hội Lồng Tổng được chuẩn bị khá chu đáo. Trước ngày
tổ chức lễ hội, những gia chủ được phân công sẽ cùng nhau tổ chức họp bàn,
góp vật phẩm để làm cỗ. Trước đây, trong khi làm cỗ, người ta còn cố làm và
trình bày cho mâm cỗ thật ngon, thật đẹp để giành lấy sự thán phục của người
đến dự và thưởng thức. Có nơi còn tổ chức thi cỗ. Cá biệt, như ở Nà Pam, xã
Huyền Tụng, thị xã Bắc Kạn, theo lời các cụ kể, mâm cỗ bày cúng trong lễ
hội này phải cao tới 12 tầng nhằm thể hiện ý nghĩa tạ ơn 12 tháng trong năm
đã qua và cầu xin 12 tháng trong năm tới thời tiết sẽ thuận hoà, mùa màng
tươi tốt hơn. Song song với quá trình làm cỗ, các chàng trai, cô gái còn làm
quả còn, quả yến, đẽo quay... để đem đến dự hội.
Một vật phẩm hết sức quan trọng được thực hành trong quá trình làm cỗ
là làm một chiếc Pẻng Bjoóc (bánh hoa). Bánh được nặn từ bột nếp thành
hình bông hoa (có nơi làm theo hình con chim), sau đó đun sôi mỡ lên đổ cho
thấm dần vào. Chờ bánh ráo hết mỡ lại đổ tiếp lượt khác. Cứ thế, bột sẽ chín
dần bằng mỡ đã sôi. Việc làm bánh này đòi hỏi một đôi bàn tay khéo léo với
một nghệ thuật nấu ăn hết sức công phu.
Việc làm bánh này có lẽ gắn kết cùng với truyền thuyết về nàng Bjoóc,
nàng Ngo, và nàng Ve. Truyện kể rằng:
Xưa, loài người còn đói khổ, lầm than nhiều lắm. Ở trên thượng giới,
Ngọc Hương tình cử 3 con gái của mình là nàng Bjoóc, nàng Ngo và nàng Ve
xuống trần gian giúp loài người làm ăn. 3 nàng ở trên đỉnh núi cao Phja
Bjoóc khai khẩn đất hoang, rồi mỗi nàng vạch một đường nước từ trên đỉnh
núi chảy xuống cho dân có nước cày cấy, làm ăn. Chỗ ấy ngày nay người ta
gọi là Ao Tiên. Cũng vì ao ấy có 3 đường nước chảy nên có người gọi là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
87
Thôm Slam Lái (ao ba lối). Cuộc sống của người dân vì thế mà ngày một
thêm no đủ, ấm êm. Nơi các nàng ở hoa trái ngập tràn, ai đến đó cứ mặc sức
ăn uống, vui chơi mà không bị các nàng quở trách. Nhưng có một điều cấm kỵ
là chỉ được ăn uống no nê chứ không được mang về. Ai cố tình phạm phải
điều này thì sẽ bị lạc chẳng thể tìm nổi lối ra.
Ngày nọ, đang thanh bình thì quân giặc ở đâu kéo đến quấy phá, cướp
bóc. Thế giặc rất mạnh, người dân không thể nào chống nổi nên đành rút
chạy đến chỗ các nàng ở. Cầu mong các nàng che chở, giúp đỡ. Thấy vậy,
các nàng liền bảo người dân lấy thóc nắm lại rồi ném xuống. Ngay lập tức,
những hạt thóc ấy nổ tung ra như bỏng và lăn ầm ầm xuống đè nát lũ giặc
hung hãn. Dấu vết những hạt bỏng đó nay còn tìm thấy tất nhiều ở vùng chân
núi Phja Bjoóc. (Thực chất dây là những tảng đá Gra nít thô - trên mình có
những đốm trắng).
Thắng giặc, các nàng quay về trời. Còn người dân, để tưởng nhớ và tạ
ơn các nàng họ đã làm Pẻng Bjoóc (bánh hoa) để cúng các nàng vào các kì
hội xuân. Bánh hoa được làm nở phồng, giòn thông qua việc tưới mỡ là vì
thế. (Khi nắm thóc ném ra đã nở tung – dân gian tưởng tượng rằng đó là một
loại bỏng nhưng không chịu sự tiếp xúc trực tiếp của bếp lửa).
Đó là một câu chuyện, một truyền thuyết gắn liền với việc dâng tặng vật
phẩm cho thần linh với một ý nghĩa nhân văn hết sức sâu đậm, mang dáng
dấp và bản sắc văn hoá riêng cho một vùng đất. Tiếc rằng dường như nó đã
thất truyền, hoặc ít nhất là rất lâu chưa có cơ hội được thể hiện.
Lễ hội Lồng Tổng bao giờ cũng được tổ chức ở một vạt ruộng to nhất
của làng bản. Với những làng bản có đền miếu cùng một bãi đất to rộng, bằng
phẳng - lễ hội cũng có thể được tổ chức ở đây.
Vào lễ hội, cây còn đã được dựng sẵn từ nhiều hôm trước. Đó là một tín
hiệu để khách lạ của làng bản xa cùng đến tụ hội, vui chơi, thăm hỏi và chúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
88
tết lẫn nhau. Ngày tổ chức lễ hội cũng được quy định cụ thể cho từng làng bản
nên người cư trú cùng trong một khu vực có thể được tham gia rất nhiều lễ
hội. Chẳng hạn vùng Bạch Thông trước đây, lễ hội Lồng Tổng được tổ chức
bắt đầu từ ngày mồng 4 tết âm lịch và kết thúc vào ngày 20 tháng giêng, lễ
hội Lồng Tổng ở Nà Mu – Phủ Thông (nay là hội Lồng Tổng Phủ Thông được tổ chức vào ngày 10 tháng giêng âm lịch).
Để tiến hành lễ hội, chủ lễ (là một trong bốn đối tượng nói ở trên) trước
hết phải đến trước nơi bày đặt các mâm lễ (có thể bày ở trên bờ ruộng hoặc
làm sàn có mái che cho từng mâm) thắp hương, khấn vái, tạ ơn trời đất, tạ ơn
thần Nông, thần Núi, thần Sông, thần Rừng... trong năm đã phù hộ cho làng
bản ấm no, hoà thuận. Sau đó chủ lễ tiếp tục khấn cầu mong các thần năm
nay tiếp tục phù hộ cho làng bản nhiều hơn nữa. Nếu chủ lễ là ông thầy Tào,
thì hành lễ còn có thể có cả sách cúng (hội Loàn ở xã Yên Thượng, huyện
Chợ Đồn). Cúng xong, chủ lễ thường lấy một bát nước (hoặc rượu) vẩy ra
xung quanh với ngụ ý cầu cho năm mới mưa thuận. gió hoà, đời sống lao
động sản xuất lại tiếp tục được đầy đủ, ổn định, no ấm.
Sau nghi lễ của chủ lễ, các gia chủ đã tiến hành làm cỗ bày ở đó sẽ thắp
hương ở mâm cỗ của mình, khấn vái, cầu khẩn cho xứ đồng của mình không
gặp phải bệnh tật, tai ương... Chờ tàn tuần hương, chủ lễ và một vài đại diện
khác trong làng bản tiến hành chấm cỗ. Việc chấm cỗ ở đây cốt là để đánh giá
sự chu đáo, cẩn thận và tài nghệ của người làm cỗ chứ không cốt ganh đua
phần thưởng.
Lúc này ở dưới sân chơi, nơi có cắm cột còn, hội tung còn đã diễn ra rất
nhộn nhịp. Kẻ tung, người bắt. Những đôi trai gái có tình ý với nhau có thể tự
tìm còn của nhau để bắt lấy. Chỉ bằng quả còn và ánh mắt trao nhau trong hội
xuân mà nhiều đôi trai gái người Tày đã thành vợ, thành chồng. Tuy nhiên, ở
trò chơi này quan niệm – tín ngưỡng và cách ứng xử trong tín ngưỡng âm –
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
89
dương của người Tày rất rõ. Nó thể hiện trực tiếp ở cột còn, phoỏng còn
(vòng tròn dán giấy theo hình bát quái) và quả còn. Cụ thể là:
- Cột còn: - cây vũ trụ (có thể thấy rõ nhất trong văn hoá nhà mồ các dân
tộc Tây Nguyên).
- Phoỏng còn: (vòng tròn dán giấy xanh, đỏ cắt theo hình bát quái):
tượng âm – tĩnh.
- Quả còn: - tượng dương - động.
Theo quan niệm của đồng bào Tày, năm nào không có ai tung còn xuyên
qua được Phoỏng còn thì năm đó làm ăn sẽ không thuận lợi, mùa màng có thể
gặp dịch bệnh, đói kém (âm dương chưa giao hoà). Để khắc phục việc này, có
năm làng phải cử người mang súng ra bắn thủng Phoỏng còn để cầu may.
Ngoài trò chơi tung còn, các chàng trai – cô gái còn tổ chức đánh yến,
hát lượn giao duyên... tụ tập thi đánh quay, chơi sảng... Ngoài ra còn có trò
chơi kéo co – có thể chia từng đội theo chòm bản (hoặc bản trên, bản dưới
hay bản này với bản khác). Chia đội xong, hai bên sẽ cùng bước vào thi dưới
sự điều khiển, giám sát của một người đàn ông trong bản. Lúc đầu, theo
hướng dẫn của chủ lễ, hai bên sẽ lần lượt kéo và có lúc thắng, lúc thua – họ
tin rằng làm như thế việc mưa nắng, đảm bảo nguồn nước... sẽ tốt ở cả hai
bản. Tuỳ theo số lượng người của các bản mà có thể có nhiều hoặc ít đội tham
gia kéo co. Sau khi cuộc kéo co có tính chất “làm phép” kết thúc, các
chàng trai sẽ bước vào cuộc thi kéo co thực sự theo đúng khả năng hiện có
của mỗi đội.
Đặc sắc và đáng chú ý nhất trong hệ thống trò chơi dân gian tổ chức tại
lễ hội Lồng Tổng là múa sư tử. Tuy nhiên, vì điều kiện, khả năng cụ thể của
mỗi thôn bản mà trò chơi này có thể có hoặc không có. Vì vậy, ngày trước chỉ
những thôn bản sung túc, có nhiều người tài giỏi võ nghệ mới lập được đội
múa sư tử, và có khả năng mời các đội múa sư tử ở vùng lân cận về dự hội. Lễ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
90
hội Lồng Tổng ở bản nào có nhiều đội múa sư tử thì càng chứng tỏ tầm vóc,
quy mô và sự sang trọng của lễ hội bản đó.
Thực chất, múa sư tử là một hình thức gắn biểu diễn võ thuật vào các trò
vui trong dịp hội xuân. Khác với đầu sư tử trong múa sư tử của người Kinh,
đầu sư tử trong múa sư tử của người Tày nhỏ, gọn hơn, khi múa có thể nhào
lộn được. Ngoài sư tử, thông thường cón có thêm mặt nạ Báo Đông (đười
ươi) hoặc mặt nạ khỉ cùng múa võ đi theo và diễn trò với nhau. Nhạc cụ đi
kèm theo là trống, chiêng (hoặc thanh la). Lúc tiếng chiêng trống khoan thai,
chậm rãi là sư tử và Báo Đông đang diễn trò bình thường, tính biểu diễn võ
thuật ở mức độ vừa phải, khi chiêng trống khua vung mạnh, rầm rĩ là lúc các
trò diễn được biểu diễn ở mức độ cao, tinh xảo, nhiều động tác võ thuật điêu
luyện. Tiếng trống chiêng vừa có tác dụng giữ nhịp cho cuộc biểu diễn, vừa
có tác dụng cổ vũ cho các võ sĩ. Trong khi biểu diễn, có thể có thêm các đội
sư tử ở các thôn, bản khác kéo đến cùng tham dự và thi tài. Sư tử của bản này
lúc này phải ra nghênh tiếp và mời sư tử của đội bạn cùng vào tham gia biểu
diễn. Ngay trong quá trình biểu diễn, các sư tử, Báo Đông còn ngầm thể hiện,
thi thố tài nghệ của mình với chính đội bạn. Cuộc vui trong phần hội vì thế có
rất nhiều giây phút thăng hoa trong đỉnh cao của sự viên mãn ngày xuân.
Các trò chơi, các làn điệu lượn giao duyên của các đôi trai gái có thể kéo
dài tới lúc gần lặn mặt trời. Tàn cuộc người ta lại rủ khách về bản vui chung
dưới mái ấm của nếp nhà sàn trong men rượu mùa xuân. Người ta mời nhau
cơm rượu, chúc phúc cho nhau, trao cho nhau cái nghĩa, cái tình thắm nồng
của làng bản. Các cuộc lượn đối đáp, giao duyên tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể
mà có thể kéo dài tới tận sáng hôm sau. Sáng ấy, mặt trời lên, người ta lại rủ
nhau đi dự hội ở bản bên. Việc ăn tết của người Tày xưa kia trong tháng giêng
là thế. Và như vậy, phải chăng cần nhắc lại rằng việc người Tày ăn tết lại
(Đắp Nọi) cũng là một hình thức kéo họ tĩnh tâm trở lại với đời sống thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
91
nhật, kéo họ sau những giây phút thăng hoa, trở về với cuộc sống lao động
sản xuất. Việc vui này xin hẹn tiếp mùa sau
Trong đó hội Lồng Tồng ở xã Hà Hiệu, Ba Bể là một trong những lễ hội
tiêu biểu của người Tày vùng cao Bắc Kạn.
Hội Lồng Tồng ở Hà Hiệu được tổ chức vào ngày 16/1 hàng năm kéo dài
trong ba buổi chiều 15 và cả ngày 16. Tuần tự thì chiều 15 xã cúng thần, sáng
16 tiếp tục cúng và chuẩn bị cho phần hội. Chiều 16 mới chính thức vào hội.
Công việc chuẩn bị được thực hiện hàng tháng trước lễ hội. Xã Hà Hiệu
xưa dân cư còn rất thưa thớt, trước cách mạng tháng Tám số hộ là 46 nóc nhà
[20, tr.5]. Hội Lồng Tổng ở Hà Hiệu do hai thủ từ đình Nà Slấn và Đon
Chiêm đứng ra tổ chức hàng năm và thành lập ban tổ chức hội. Thủ từ hai
đình này bắt buộc phải là người họ Dương - dòng họ chiếm đa số và có thế
lực nhất xã, những người làm thủ từ được chọn và truyền cho nhau theo chế
độ cha truyền con nối nhiều đời. Vào mỗi dịp tết, thủ từ đứng ra làm danh
sách và thu tiền tổ chức lễ hội của từng hộ. Mỗi hộ hàng năm phải góp một
suất tương đương 3 đồng đông dương, hộ nghèo có thể được giảm còn nửa
suất là 1,5 đồng đông dương. Nhưng hộ tham gia phải là người gốc Hà Hiệu,
những hộ ngụ cư không được tham dự. Sau khi thu đủ tiền ban tổ chức sẽ
chuẩn bị lễ vật cúng là hai con lợn to và một con trâu (tầm 5 tuổi)
Đầu xuân khi không khí tết vẫn còn đậm đã thủ từ họ Dương sẽ gióng
lên ba hồi chín tường mõ tre để mời gọi mọi người góp mặt. Do điều kiện
miền núi dân cư thưa thớt thường sống cách nhau vài ba quả đồi tiếng mõ tre
là phương tiện liên lạc chính khi bản làng có công việc cần tập trung mọi
người. Mõ tre được làm bằng hai đến ba ống Mai được đục rống ruột, có
khoét lỗ ở giữa để thoát âm khi gõ sẽ vang xa hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
92
. Toàn bộ thanh niên trai tráng phải ra đình làm lễ thịt trâu, lợn cúng
thần. Toàn bộ các công việc đều do thanh niên trong làng đảm nhiện, phụ nữ
không được tham gia.
Lễ cúng sẽ được tổ chức ở đình và hai đình Nà Slấn và Đon Chiêm thay
nhau được chọn làm địa điểm cúng. Việc cúng tế do thủ từ đình đến phiên
được chọn đảm nhiệm. Mỗi nhà đều phải tham gia một mâm cỗ cúng để ở
đình gồm nhiều loại bánh như Khẩu Si, Khẩu Théc, chè Lam….Các hộ (cũng
có thể có vài hộ cùng chung) thi nhau làm các món ăn, các loại bánh mới lạ,
bày mân đẹp mắt để làm lẽ cúng thần, sau đó gióng trống chuyển sang phần
hội. Có tổ chức thi làm bành và chấm giải cho mâm bánh đẹp nhất. Mâm cỗ
của mỗi hộ cũng được bố chí theo một vị trí cố định. Mâm của những họ
chính như họ Dương để ở giữa dưới bàn thờ, còn các mâm khác để ở hai hàng
hai bên. Sau hai buổi cúng vào chiều 15 và sáng 16 sẽ tổ chức ăn uống. Ngoài
mâm của thủ từ và các chức dịch, bô lão khoảng 2 đến 3 mâm được chuẩn bị
sẵn, mọi người đều tự túc. Họ chặt lá chuối rừng để chải ngồi, mang theo
rượu, cơm lam, muối đi ăn uống cúng với thịt là lộc cúng. Sau khi ăn xong
được phần thịt mang về là một xâu thịt khoảng 2 -3 lạng.
Chiều 16 là phần hội với nhiều trò chơi dân gian.Hội có các trò chơi như
tung còn, đánh quay(tức sáng),, kéo co, đi cầu thăng bằng(tuấy hang vài),đánh
yến (tức Diễn), đánh đu, đánh võ, đánh vật, múa sư tử(múa kỳ lân)… Trong
niềm vui hội hè, nam nữ thanh niên còn hát lượn để tìm bạn tâm đầu ý hợp.
Trò chơi tung còn là trò trơi quan trọng không thể thiếu trong các hội
Lồng Tổng. Các thành phần cột còn và phoỏng còn có ý nghĩa tương tự với
quan niệm chung tuy nhiên quả còn còn có một ý nghĩa khác.
Quả còn được khâu bằng vải hình góc vuông có bốn mầu xanh, đỏ, vàng,
đen. Bên trong có nhồi cát hoặc ngô, thóc với ý nghĩa cơ bản là bốn phương
tụ họp chung vui.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
93
Cuối buổi chiều ngày 16 sẽ hạ cây phoỏng kết thúc lễ hội. Quả còn được
vứt vào bụi dậm, vứt lên ngọn cây cao với ý nghĩa không ai vui chơi nữa bắt
đầu vụ mùa làm việc mới.
Tiểu kết: Trên địa bàn huyện Ba Bể có 5 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Mỗi dân tộc lại có phương thức canh tác nông nghiệp truyền thống riêng.
Những phương thức canh tác đó đã làm đa dạng hoá các loại hình sản xuất
nông nghiệp truyền thống, trên cơ sở canh tác nông nghiệp của người Tày là
cơ bản. Không chỉ sáng tạo trong sản xuất, đồng bào các dân tộc huyện Ba Bể
còn sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần độc đáo, thể hiện qua các lễ
hội truyền thống mà hội Lồng Tổng là lễ hội tiêu biểu. Hội Lồng Tổng là
thành tựu đặc sắc nhất của văn hoá dân gian làng xã ở địa phương này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
94
KẾT LUẬN
Huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn là một huyện miền núi có lịch sử hình
thành và phát triển lâu đời. Trải qua một thời gian dài với bao thăng trầm bộ
mặt của huyện đã hoàn thiện như ngày nay.
1. Với đặc điểm là một huyện thuần nông, người dân địa phương từ bao
đời nay canh tác trên ruộng đồng và dựa vào những sản phẩm khai thác được
từ tự nhiên làm nguồn sống đồng thời mang lại giá trị kinh tế chủ yếu cho
nhân dân. Do địa hình, đất đai nhìn chung là thuận lợi, cùng với việc không
có điều kiện phát triển công - thương nghiệp, từ xưa đến nay trồng trọt luôn
giữ vị trí hàng đầu.
Với địa hình miền núi phần lớn là núi đồi thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế nông - lâm nghiệp kết hợp với chăn nuôi các loại gia súc nhỏ. Trong
lịch sử phát triển của mình Ba Bể là nơi tiếp nhận nhiều luồng dân cư di cư
tới. Trên địa bàn huyện dân tộc đầu tiên tới khai phá và sinh sống là một bộ
phận người Tày bản địa.Các dân tộc ít người từ Trung Quốc theo đường Cao
Bằng qua Ba Bể xuống phía Nam sinh sống, luồng dân cư từ Tuyên Quang
sang hay đồng bào người Kinh từ dưới xuôi lên đã hoà hợp tạo thành bộ mặt
các dân tộc Ba Bể hiện nay. Năm dân tộc anh em dù có nguồn gốc khác nhau,
di cư đến Ba Bể bằng những con đường khác nhau nhưng đã sống hoà thuận,
đoàn kết gắn bó với nhau. Với đặc điểm là vùng đất từ sớm đã có người khai
phá và sinh sống lại có những địa danh là chợ lâu đới được nghi trong sử sách
là một sự thừa nhận Ba Bể có nhiều lợi thế phát triển kinh tế.
2. Với việc phân tích 22 đơn vị địa bạ vào thời điểm nửa đầu thế kỷ
XIX đến từng chủ hộ sở hữu tình hình ruộng đất ở Ba Bể đã được lột tả về cơ
bản. Qua đó chúng ta thấy được nguồn tài nguyên được khai thác và loại hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
95
kinh tế chủ yếu thời kỳ tiền Tư Bản, sự phân hoá xã hội, chế độ thuế khoá thu
nhập chủ yếu của các xã hội phong kiến..
Chế độ sở hữu ruộng đất ở Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX là sự thắng thế
tuyệt đối của sở hữu tư nhân. Sự vằng bóng của ruộng đất công chứng minh
quá trình tư hữu hoá phát triển cao.Ruộng đất tư chiếm ưu thế tuyệt đối với
100% ruộng đất các loại. Trong sử hữu tư nhân nổi bật lên một đặc điểm là ở
Ba Bể ruộng đất không tập trung trong tay các địa chủ lớn mà tập trung trong
tay các dòng họ lớn. Trên địa bàn huyện không có những địa chủ tập trung
trong tay vài ba trục mẫu ruộng nhưng có những nhóm họ tập trung trong tay
vài trăm mẫu. Điều này thể hiện ảnh hưởng lớn của chế độ thổ ty ở miền núi.
Cụ thể là ở Châu Bạch Tông là địa phận của dòng họ Hoàng. Nhưng ở ba tổng
là địa bàn huyện Ba Bể ngày nay dòng họ Ma mới là những chủ nhân thật sự.
Về quy mô sở hữu theo dòng họ, điểm đáng chú ý là sự phân bố không đều
giữa các dòng họ, giữa các dòng họ, các nhóm họ và phân bố không đều về
bình quân diện tích sở hữu của các chủ ruộng trong huyện. Xã Cao Trĩ có
bình quân sở hữu một chủ ruộng cao nhất với 10.1.7.6/một chủ ruộng còn xã
Nam Mẫu có bình quân thấp nhất với 1.6.0.6/một chủ ruộng.
Quy mô sở hữu ruộng đất giữa các xã trong huyện là không đều nhau.
Có những xã chỉ có diện tích sở hữu hơn 10 mẫu trong khi có những xã có
diện tích hơn 300 mẫu. Hiện tượng chủ ruộng là phụ nữa đứng tên sở hữu
cũng xuất hiện nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé. Mặc dù vậy điều này cũng thể
hiện sự tiến bộ đặc biệt với điều kiện miền núi nơi chế độ Quằng - thổ ty còn
đậm nét.
.Việc ruộng đất hoang hoá chứng minh rằng tình hình kinh tế, xã hội
huyện Ba bể có nhiều biến động. Hiện tượng ruộng bỏ hoang là hiện tượng
phổ biến ở các địa phương thời bấy giờ. Nhưng hiện tượng bỏ hoang cả một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
96
xã chủ yếu xẩy ra ở miền núi vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, điều này xẩy
ra do chiến tranh loạn lạc và do tập quán du canh du cư của đồng bào các dân
tộc thiểu số.
Sự chênh lệch về diện tích sở hữu ruộng đất giữa các hộ gia đình có
thể là do sự khác biệt về lực lượng lao động, đất rộng, người thưa, kế hoạch
làm ăn...nhưng quan trọng hơn cả là sự khác biệt về thế lực kinh tế, xã hội.
Những dong họ đến trước có công khai phá đất đai được chiếm hữu nhiều
ruộng đất tốt hơn, có thế lực và giầu mạnh hơn.
Mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã với sự xung đột trong lợi ích về
ruộng đất là một vấn đề không mới. Nhà nước luôn tìm cách khống chế và
kiểm soát làng xã nhưng ngược lại làng xã với tính tự trị cao luôn tìm cách
chống lại. Đây là một cuộc đấu tranh dài và chỉ kết thúc khi nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra đới năm 1945.
Mối quan hệ tương trợ giữa làng xã và làng xã được thể hiện rõ nét.
Nhiều làng xã có nhưng địa vực khác nhau nhưng nếu xét về dòng họ lại có
quan hệ mật thiết. Mối quan hệ giữa làng xã và làng xã ở huyện Ba Bể vào
đầu thế kỷ XIX, tuy không có hiện tượng phụ canh với sự xâm nhập về ruộng
đất nhưng đồng bào các dân tộc vẫn sống hoà thuận, tương trợ giúp đỡ nhau
trong cuộc sống lao động, sản xuất. Trong giao lưu văn hoá thể hiện qua các
lễ hội đình chùa, sự hoà nhập, giao thoa về mặt tín ngưỡng, tôn giáo là biểu
hiện về sự hoà hợp giữa các dân tộc.
3. Với đặc điểm chế độ ruộng đất như trên, đồng thời do địa hình bị
chia cặt mạnh nhiều đồi núi, kinh tế Ba Bể nửa đầu thế kỷ XIX là một nền
kinh tế trông trọt lạc hậu năng suất thấp. Nông nghiệp trồng trọt bao gồm cả
canh tác lúa nước, nương rẫy và làm vườn. Canh tác lúa nước là hình thức chủ
yếu của người Tày, Nùng còn nương, rẫy là loại hình canh tác cơ bản của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
97
người Dao, Sán Chí. Sự xuất hiện của các dân tộc Mông, Dao, Sán Chí trên
địa bàn huyện do lối sống du canh du cư đi tìm đất đai sinh sống.
Có thể khẳng định rằng các dân tộc ở Ba Bể có những nét văn hoá
riêng, đặc sắc và khá độc đáo gắn liền với nông nghiệp. Trên cơ sở văn hoá
của dân tộc chính là người Tày, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm
riêng. Người Tày vẫn giữ được những đặc điểm văn hoá cơ bản của dân tộc
mình nhưng trong đời sống thực tế đã có một số biến đổi. Lễ hội của người
Tày ở Ba Bể có thời gian ngắn và ít tốn kém hơn ở những nơi khác, ngày tổ
chức và địa điểm cũng không có sự bắt buộc cố định, tuỳ theo sự lựa chọn
từng năm Sự kết hợp giữa các yếu tố văn hoá của người Kinh và người Tày
qua các biểu hiện về tôn giáo như đình, chùa làm đa dạng và dày thêm các lớp
văn hoá ở nơi đây. Do đặc điểm cư dân sống gần hồ Ba Bể hàng nghìn năm
nay cuộc sống gắn với hồ, phụ thuộc vào hồ qua nhiều thế hệ nên có tín
ngưỡng thờ thần nước rất độc đáo và rất riêng
Từ những luận điểm trên chúng ta có thể khẳng định ở Ba Bể thời kỳ
trước đã có sự giao thoa văn hoá tự nhiên giữa các vùng, các dân tộc. Nhân
dân các dân tộc Ba Bể luôn coi nhau như anh em một nhà và góp phần xây
dựng bản sắc văn hoá của quê hương mình.
Bước vào thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chính sách đầu tư để bảo tồn và phát huy bản sắc các dân tộc Việt Nam trong
đó có Ba Bể.Ví dụ: Hội lồng tồng đã được tổ chức thường xuyên theo định kỳ
hàng năm trong thời gian gần đây, nhà nước đã đầu tư xây dựng và bảo tồn
bản nhà sàn Nà ngòi( xã Nam Mẫu) – một bản người Tày có những đặc trưng
văn hoá vùng hồ. Có thể khẳng định hiện nay ở Phú Đình đã có sự giao thoa
về văn hoá một cách có định hướng theo đường lối văn hoá của Đảng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
98
4. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay một dân tộc không thể phát triển đi
lên nếu không dựa trên một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy bao gồm nhiều
yếu tố khác nhau trong đó có các yếu tố kinh tế - văn hoá truyền thống cấu
thành từ bản sắc của các dân tộc. Nếu như trong tiến trình lịch sử, sức sống
mãnh liệt của văn hoá các dân tộc Việt Nam đã tạo lên sức mạnh to lớn trong
công cuộc dựng và giữ nước thì trong hoàn cảnh mới, sức sống ấy sẽ là sức
bật đưa Việt Nam tiến lên. Chúng ta sẽ hội nhập với quốc tế, khu vực và thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trên cơ sở
gìn giữ những nét văn hoá từ ngàn xưa kết hợp với các yếu tố mới. Thực hiện
xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đưa đất nước ta
tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của tri thức - công nghệ hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, tr.150.
2. Nguyễn Thị Mai Anh (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Khoá luận tốt
nghiệp, trường ĐHSP Thái Nguyên.
3. Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn (2004), NXB
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội, tr.155.
4. Các dân tộc ít người Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)(1978),Viện Dân tộc học,
Nxb Khoa học Xã hội.
5. Phan Huy Chú (1999), Lịch chiều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
6. Đại Nam Thực lục chính biên (1968), tập XX, Hà Nội.
7. Đại Nam nhất thống chí, Sử quán triều Nguyễn (1992), Tập 4, Nxb Thuận Hóa.
8. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn -Vĩnh Long,
NXb Hồ Chí Minh.
9. Địa lý tỉnh Bắc Kạn (2002), Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Kạn.
10. Đồng khánh dư địa chí ( 2005 ), Nhóm biên tập bản điện tử Ngô Đức Thọ,
Nguyễn Văn Nguyên, tr.819 - 820.
11. Nguyễn Kiên Giang (1953), Phác qua Tình hình ruộng đất và đời sống
nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Hà (2008), Huyện Chiêm Hóa-Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ
XIX, Luận văn tốt nghiệp đại học, trường ĐHSP Thái Nguyên.
13. Vũ Thị Thu Hà (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Phổ Yên (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX qua địa bạ triều Nguyễn,
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
100
14. Lê Thị Thu Hương (2008), Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu
địa bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận văn thạc sĩ, trường
ĐHSP Thái Nguyên.
15. Yên Thị Hương (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Võ Nhai (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Đề tài nghiên cứu khoa
học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên.
16. Nông Quốc Huy (2008), Huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn thế kỷ XIX, Luận
văn Thạc sĩ,trường ĐHSP Thái Nguyên.
17. Huyện uỷ Ba Bể, Lịch sử Đảng bộ huyện Ba Bể (2008), Đề cương chi tiết.
18. Phan Huy Lê (1996 ), Địa bạ cổ Hà Nội sưu tập và giá trị tư liệu, Tập 1,
Nxb Hà Nội.
19. Phan Huy Lê và P.Brocheux (1995), Địa bạ Hà Đông, Nxb khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. Lịch sử xã Hà Hiệu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (sửa đổi 01/01/2008)
UBND xã Hà Hiệu và Hội người cao tuổi Hà Hiệu soạn và chính sửa, tr.7.
21. Lã Văn Lô - Nguyễn Hữu Thuần - Mai Văn Trí - Ngọc Anh - Mạc Như
Đường (1959), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
22. Lã Văn Lô - Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược các nhóm dân tộc Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học Xã hội.
24. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng và văn hóa
ở vùng các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
25. Lã Văn Lô và Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
26. Các Mác (1959), Tư Bản, quyển 3, tập 3, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.33.
27. Đặng Phong (1970), Kinh tế thời nguyên thuỷ ở Việt Nam, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
101
28. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.147.
29. Nguyễn Phan Quang (1981), "Khởi nghĩa Nông Văn Vân ở Cao - Lạng
(1833 – 1834)", Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr.43.
30. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 – 1884), Nxb
thành phố Hồ Chí Minh, tr.60-61.
31. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XIXVIII, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, HN.
32. Trương Hữu Quýnh - Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất
nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.
33. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Viện sử học và Nxb
Văn học, Hà Nội.
34. Trần Kông Tấu (2006), Tài nguyên Đất, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
35. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định
qua tư liệu địa bạ, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, tr.14.
36. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX, (Bản dịch của Viện Hán Nôm), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Khổng Thị Thìn (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp huyện
Chợ Đồn - Bắc Kạn qua tư liệu địa bạ năm Minh Mệnh 21 (1840), Đề tài
nghiên cứu khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên.
38. Hoàng Xuân Trường (2009),Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Đại Từ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Đề tài nghiên cứu
khoa học sinh viên,trường ĐHSP Thái Nguyên.
39. Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể (2007 ), Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh
Bắc Kạn, Nxb Văn hoá Dân tộc, tr.21.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
102
40. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở Bắc Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Đàm Thị Uyên (1999), Tổng Lạc Giao qua tư liệu địa bạ 1805-1830, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường,trường ĐHSP Thái Nguyên.
42. Đàm Thị Uyên (1999), Huyện Quảng Hoà (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành
lập đến giữa thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ.
43. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta (1995),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
45. Mai Thị Hồng Vĩnh (2009), Tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
huyện Đại Từ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Khoá luận tốt nghiệp
Đại học, trường ĐHSP, Đại học Thái Nguyên.
TÀI LIỆU ĐỊA BẠ
46. Giao Lang xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8221F1:8
47. Xuân ổ xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8253F1:13
48. Da Nham xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8224F1:13
49. Nhân Tiếp xã địa bạ Minh Mệnh 21,TTLTQGI, 8205F1:12
50. Bộc Bố xã địa bạ Minh Mệnh 21,TTLTQGI, 8204F1:10
51. Nam Mẫu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8201F1:10
52. Truyền Cố xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8206F1:8
53. Bằng Thành xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8202F1:15
54. Mỹ Hóa Bán xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8239F1:8
55. Cao Thượng xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8213F1:16
56. Đồng Phúc xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8246F1:16
57. Cao Trĩ xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8257F1:20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
103
58. Hạ Hiệu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8226F1:18
59. Xuân Phương xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8256F1:24
60. Hồng La xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8248F1:10
61. Nghiêm Loan xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8236F1:10
62. Cổ Đạo xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8244F1:13
63. Bằng Châu xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8195F1:14
64. Chư Hoa xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8238F1:21
65. Quảng Khê xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8196F1:12
66. Thượng Giáo xã địa bạ Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8251F1:14
TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ
67. Ma Thế Trọng, 81 tuổi, Phố Cũ, tiểu khu 8, thị trấn Chợ Rã
68. Bế Ích Pèng, 70 tuổi, xã Quảng Khê
69. Đàm Đình Phùng, 80 tuổi, thôn Nà Ma, xã Hà Hiệu
70. Ô Phúc Bình, 80 tuổi, thôn Cốc Lót, xã Hà Hiệu
71. Dương Xuân Nghiêm, 70 tuổi, bản Vài, xã Khang Ninh
72. Dương Hữu Tương, 70 tuổi bản Vài, xã Khang Ninh
73. Ma Thế Khanh, 66 tuổi, Thị trấn Pắc Nặm, xã Bộc Bố, huyện Pắc Nặm
74. Dương Đăng Long, 71 tuổi, thôn Pác Nghệ, xã Địa Linh
75. Hoàng Văn Trọng, 70 tuổi, thôn Đon Vai, xã Chu Hương
76. Nông Viết Toại, 70 tuổi, Bản Áng, thị xã Bắc Kạn
77. Ma Thế Thiện, 61 tuổi, thủ từ chùa An Mã.
78. Dương Văn thục,55 tuổi, phó phòng văn hoá huyện Ba Bể
79. Th.S. Bàn Tuần Năng- Phó phòng bảo tàng &QLDT Sở VHTT Bắc Kạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
104
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -