Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Luận văn tiểu thuyết đoàn hữu nam

.PDF
105
132
145

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGÔ QUỐC TUẤN TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGÔ QUỐC TUẤN TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. CaoThị Hảo THÁI NGUYÊN - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 Tác giả luận văn Ngô Quốc Tuấn i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian nghiên cứu đề tài Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, đến nay chúng tôi đã hoàn thành và được phép bảo vệ luận văn. Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Với sự biết ơn chân thành tôi bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Thị Hảo người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin cảm ơn nhà văn Đoàn Hữu Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ về tư liệu và thời gian để tôi hoàn thành phần nghiên cứu của mình. Cũng xin cảm ơn tới Ban giám hiệu trường PTDT Nội trú Sa Pa đã tạo điều kiện giúp đỡ và động viên trong suốt quá trình nghiên cứu. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình và những người thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 Tác giả luận văn Ngô Quốc Tuấn ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn ........................................................................................................... i Lời cam đoan ....................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 NỘI DUNG......................................................................................................... 8 Chƣơng 1. TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM TRONG DÕNG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIẾT VỀ DÂN TỘC MIỀN NÚI ................................................. 8 1.1. Diện mạo văn xuôi hiện đại viết về dân tộc miền núi ............................... 8 1.1.1. Quá trình vận động ..............................................................................8 1.1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 ............................................................. 8 1.1.1.2. Giai đoạn 1945 – 1975 .................................................................. 9 1.1.1.3. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay ............................................ 12 1.1.2. Những thành tựu tiêu biểu ................................................................ 20 1.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Đoàn Hữu Nam ................. 23 1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con người ........................................................ 23 1.2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn Đoàn Hữu Nam .......... 23 Chƣơng 2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI MIỀN NÚI TRONG TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM .............................................. 30 2.1. Bức tranh hiện thực sống động về miền núi ............................................ 30 2.1.1. Hiện thực về thổ phỉ và cuộc đấu tranh tiễu phỉ của đồng bào miền núi ...................................................................................................... 30 2.1.2. Những phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc ......................... 36 2.1.3. Thiên nhiên miền núi hoang dã, lãng mạn........................................ 44 2.2. Hình ảnh con người miền núi trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam ............ 50 2.2.1. Những tên thổ ty, thổ phỉ cuồng vọng, tàn bạo ................................ 51 2.2.2. Những người dân có số phận đau thương thức tỉnh đi theo cách mạng .... 55 iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM ............................................................. 64 3.1. Cốt truyện ................................................................................................ 64 3.1.1. Kiểu cốt truyện lịch sử ...................................................................... 65 3.1.2. Kiểu cốt truyện đời tư ....................................................................... 69 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................. 72 3.2.1. Khắc hoạ nhân vật qua miêu tả ngoại hình....................................... 73 3.2.2. Khắc hoạ nhân vật qua miêu tả nội tâm............................................ 74 3.2.3. Sử dụng đắc dụng yếu tố kì ảo để xây dựng nhân vật phản diện ..... 77 3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................... 82 3.3.1. Sử dụng phổ biến nghệ thuật so sánh và ngôn ngữ giầu hình ảnh ... 82 3.3.2. Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian của các dân tộc thiểu số.... 86 3.3.3. Lời văn đậm tính triết lý, lãng mạn, bay bổng ................................. 89 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 92 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN.......94 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 97 iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học viết về dân tộc và miền núi là khu vực có sự hiện diện khá đông đủ bộ mặt văn học các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Với khả năng khơi sâu vào cái riêng, cái đặc sắc của mỗi dân tộc, vùng miền, văn học dân tộc miền núi đã đem lại sự phong phú, đa dạng và có một vị trí nhất định trong dòng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, những nét đặc thù trong thiên nhiên và khí chất con người miền núi đã tạo nên sức gợi riêng, so với văn xuôi viết về đồng bằng, đô thị . Nhà nghiên cứu Phong Lê đã từng nhận xét : “văn xuôi miền núi chiếm lĩnh được một vẻ riêng, không thay thế được, không ai bắt chước được”. Do đó nghiên cứu về văn học viết về đề tài miền núi sẽ có nhiều khám phá thú vị. 1.2. Mỗi một nhà văn đều thông qua thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của mình để gửi gắm một quan niệm nghệ thuật về hiện thực đời sống và tâm điểm của bức tranh ấy là số phận những con người trước những thử thách, những bi kịch trong cuộc sống đời thường hay trước những bão giông của lịch sử.... Trong văn học đương đại có khá nhiều nhà văn tiêu biểu viết về đề tài miền núi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc như: Ma Văn Kháng, Mạc Phi, Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thuý… Đoàn Hữu Nam là một cái tên khá mới. Ông có duyên với bút mực bắt đầu từ thơ, truyện ngắn, nhưng thành công hơn cả là tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam phản ánh khá phong phú hiện thực miền núi những năm sục sôi cách mạng giành chính quyền và tiễu phỉ với nhiều biến cố lịch sử gắn liền với đời sống của cộng đồng các dân tộc: Hmông, Dao, Giáy… ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, đặc biệt là Lào Cai - mảnh đất đã hoá thành máu thịt trong các sáng tác của ông. Chúng ta có thể kể tới những tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Hữu Nam như: Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão và nổi tiếng hơn cả là Thổ phỉ. Tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn họ Đoàn đã được giải A của Hội văn 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (năm 2010) và được chuyển thể thành kịch bản phim công chiếu rộng rãi. 1.3. Nghiên cứu về tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam đã có khá nhiều bài viết, bình luận, đánh giá, nhận xét về nội dung và phong cách nghệ thuật, cách kết cấu, ngôn ngữ… mang phong cách riêng. Đó là những nhận xét của các nhà văn Trung Trung Đỉnh, Phạm Duy Nghĩa, Sương Nguyệt Minh, Đoàn Minh Tâm, Văn Công Hùng, Lộc Bích Kiệm, Cao Văn Tư... Nhưng đi sâu để tìm hiểu những đóng góp của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam về phương diện nội dung và nghệ thuật để nhận diện những đặc điểm mới mẻ trong phong cách sáng tác của nhà văn này thì đến nay vẫn là một khoảng trống. Hy vọng đề tài này sẽ góp phần nhận diện một gương mặt tiêu biểu trong làng văn xuôi đương đại dân tộc và miền núi và có thể làm tư liệu cho những ai nghiên cứu tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam nói riêng và văn xuôi dân tộc và miền núi nói chung. Qua đó, chúng tôi cũng muốn giới thiệu với bạn đọc về con người và vùng đất Lào Cai với những lịch sử văn hoá, những phong tục tập quán tiêu biểu. Hơn nữa, là người con của Lào Cai - miền đất giáp biên giới phía Bắc của Tổ quốc - tôi cũng mong muốn sẽ hiểu hơn, yêu hơn vùng đất và con người nơi đây và muốn truyền cho độc giả niềm yêu mến đó khi thực hiện luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề So với các nhà văn viết về miền núi và dân tộc như Tô Hoài, Nguyên Ngọc hay Ma Văn Kháng thì Đoàn Hữu Nam là một cái tên khá mới mẻ. Anh sáng tác từ những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, nhưng thực sự được bạn đọc biết đến vào những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đặc biệt khi tiểu thuyết Thổ phỉ (2010) đạt được giải thưởng cao - Giải A Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Sau sự kiện này, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam đã tổ chức một cuộc tọa đàm về “Tiểu thuyết Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam và Văn học trẻ dân tộc thiểu số Việt Nam đương đại”. 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Cuộc toạ đàm này đã diễn ra tại văn phòng cơ quan Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số vào ngày 23.4.2011 với sự chủ trì của nhà văn Cao Duy Sơn – Phó Chủ tịch Hội và sự điều hành của nhà thơ Inrasara. Có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu về văn học dân tộc và miền núi đã tham gia trong cuộc toạ đàm này. Tiêu biểu như: Hoàng Quảng Uyên, Lê Minh Thảo, Mã A Lềnh, Lâm Tiến, Trung Trung Đỉnh, Sương Nguyệt Minh, Phạm Duy Nghĩa… Các ý kiến đánh giá xoay quanh những đóng góp và hạn chế của tiểu thuyết Thổ phỉ cho văn học đương đại Việt Nam, nhất là văn học viết về dân tộc và miền núi. Mã A Lềnh cho rằng: “xung đột thiệt ác đầy tính thời sự trong Thổ phỉ đã được khắc hoạ rất thành công”, nhưng “lực lượng đằng sau lưng thổ phỉ xúi bẩy huýt chó, suýt thú cắn càn… hoàn toàn vắng bóng trong tác phẩm”. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến khẳng định: “nội dung hiện thực phản ánh trong Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam không có gì mới, trừ cụ giáo Choong”. Sương Nguyệt Minh lại không đồng ý với ý kiến này, anh cho rằng: “Đoàn Hữu Nam đã có nỗ lực rất lớn trong cách thể hiện”. Hoàng Quảng Uyên nhấn mạnh ưu điểm trong cách sử dụng từ ngữ của Đoàn Hữu Nam là “nói như người Dao, người Mông nghĩ” không như người Kinh viết về dân tộc thiểu số lâu nay. Điều này chứng tỏ Đoàn Hữu Nam đã gắn bó rất sâu nặng với con người và cuộc sống vùng núi Lào Cai, “lặn sâu vào cuộc sống hàng ngày của đồng bào, hiểu biết vùng núi rừng với bao ngõ ngách của nó” (Trung Trung Đỉnh). Nhà thơ Inrasara lại chỉ ra xu hướng sáng tác của Thổ phỉ là “viết theo phương pháp hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa nữa”. Chính vì viết theo xu hướng này, theo Inrasara, “hạn chế nổi cộm nhất” của Thổ phỉ là “cái nhìn của Thượng đế - tác giả”. Có lẽ đây không chỉ là một nhận xét riêng dành cho tiểu thuyết Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam mà là một đánh giá chung cho văn học dân tộc thiểu số, miền núi đương đại. Có thể nói, trong cuộc toạ đàm này một số ưu điểm và hạn chế của cuốn tiểu thuyết Thổ phỉ đã được các tác giả đưa ra bàn luận một cách khách quan, 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn khoa học, thậm chí có những ý kiến trái chiều nhau. Tuy nhiên, tất cả những nhà nghiên cứu, nhà văn trong cuộc toạ đàm đều nhất trí khẳng định: Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng Thổ phỉ của Đoàn Hữu Nam là cuốn tiểu thuyết thành công, có giá trị, mang lại sự mới mẻ cho văn học viết về dân tộc thiểu số những năm gần đây. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể kể đến những bài báo, lời giới thiệu sách của những tác giả khác cũng có những ý kiến nhận xét về tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam. Chúng ta có thể kể đến các bài viết sau: Trên đỉnh đèo giông bão- một tiểu thuyết có văn (trong sách: Một thế kỷ thơ văn Lào Cai, Nxb Hội nhà văn 2010) – Phạm Duy Nghĩa. “Thế giới nghệ thuật Đoàn Hữu Nam trong tiểu thuyết Thổ phỉ (trong sách: Một thế kỷ thơ văn Lào Cai, Nxb Hội nhà văn 2010) - Sương Nguyệt Minh. Tiểu thuyết Thổ phỉ - Vài cảm nhận - Đoàn Minh Tâm (Tạp chí Văn nghệ quân đội). “Thổ phỉ” và hiện thực văn chương – Văn Công Hùng. Thổ Phỉ - Tiểu thuyết đậm nét đặc trưng thể loại – Lộc Bích Kiệm. Thổ phỉ - Làm mới một đề tài (Đọc tiểu thuyết Thổ phỉ của nhà văn Đoàn Hữu Nam, NXB Hội nhà văn, 2010 – Giải A Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam 2010) (In trong tạp chí: Khoa học và tổ quốc, số tháng 7/2012) – Phạm Duy Nghĩa. “Thổ phỉ” – Từ một góc nhìn nhỏ - Lâm Tiến. Qua những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều đối tượng cả người nghiên cứu và người sáng tác. Tuy nhiên chủ yếu các tác giả mới chỉ quan tâm tới tiểu thuyết Thổ phỉ - một tác phẩm từng được giải thưởng cao và tạo nên tên tuổi của Đoàn Hữu Nam và cũng mới chỉ dừng lại ở những bài báo nhỏ, lẻ, chưa phải là những công trình khoa học. Ngoài tiểu thuyết Thổ phỉ, Đoàn Hữu Nam còn các tác phẩm khác cũng có giá trị như: Tình rừng, 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Dốc người, trên đỉnh đèo giông bão chưa được giới nghiên cứu quan tâm. Đây là những khoảng trống để chúng tôi có thể bổ sung hi vọng góp phần làm sáng tỏ những đóng góp của nhà văn Lào Cai này qua những tiểu thuyết viết về dân tộc, miền núi. Nhìn chung, Đoàn Hữu Nam là một trong những cây bút nặng lòng với đề tài dân tộc và miền núi. Ta có thể thấy được chất miền núi thấm đượm trong những trang văn của ông. Nhà văn không chỉ thành công trong hàng loạt những truyện ngắn và thơ mà còn rất thành công trong tiểu thuyết. Hàng loạt những tác phẩm tiểu thuyết của ông được bạn đọc cả nước biết đến như: Tình rừng - Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân – 2000, Dốc người – Tiểu thuyết – NXB Công an nhân dân – 2001, Trên đỉnh đèo giông bão – Tiểu thuyết – NXB Quân đội nhân dân – 2004, NXB Lao động tái bản năm 2010, Thổ phỉ - Tiểu thuyết – NXB Hội Nhà văn năm 2010. Trong những sáng tác của Đoàn Hữu Nam có một vấn đề được ông đề cập đến khá sâu sắc ghi dấu một thời kỳ lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ tiễu phỉ ở phía Bắc nước ta. Đây là một trong những thời kỳ nhiều biến động diễn ra ở các tỉnh miền núi nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống của nước ta những năm 50 - 60. Là tác giả trẻ trong nền văn học đương đại, Đoàn Hữu Nam vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tác và khẳng định phong cách riêng độc đáo trong sáng tác nghệ thuật. Ông được đánh giá là nhà văn có những đóng góp lớn ở mảng đề tài văn xuôi viết về miền núi. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng về Đoàn Hữu Nam và những tác phẩm của nhà văn. Nhìn chung, qua khảo sát những công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam mới được nghiên cứu lẻ tẻ, chưa hệ thống. Những đánh giá về đóng góp của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam cũng chỉ được đề cập ở những nét khái quát nhất trong những công trình nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số. 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Hi vọng với công trình “Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam”, chúng tôi sẽ tiếp nối những ý tưởng của những nhà nghiên cứu đi trước để khám phá, khảo sát và chỉ ra một cách hệ thống và cụ thể những đóng góp tiêu biểu của nhà văn Đoàn Hữu Nam trên lĩnh vực tiểu thuyết cho văn học nước nhà, nhất là dòng văn học dân tộc và miền núi. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, luận văn tập trung khảo sát một số phương diện tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật được biểu hiện nổi bật trong tác phẩm của Đoàn Hữu Nam. Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam. + Tình rừng - Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân – 2000. + Dốc người – Tiểu thuyết – NXB Công an nhân dân – 2001. + Trên đỉnh đèo giông bão – Tiểu thuyết – NXB Quân đội nhân dân – 2004, NXB Lao động tái bản năm 2010. + Thổ phỉ - Tiểu thuyết – NXB Hội Nhà văn năm 2010. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm tới một số tiểu thuyết viết về đề tài miền núi của các tác giả tiêu biểu như: Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng, Vi Hồng… làm đối tượng để so sánh. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn đi vào nghiên cứu, khảo sát, phân tích, lý giải những nét đặc sắc, tiêu biểu cùng những hạn chế nhất định trong những tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua đó, chỉ ra quan điểm nghệ thuật, vùng thẩm mĩ riêng, các nhân sinh quan, thế giới quan... trong sáng tác của ông. Từ đó khẳng định những đóng góp quý báu của tác giả cho nền văn xuôi viết về miền núi nói riêng và văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học. - Phương pháp thống kê, so sánh. - Phương pháp lịch sử, văn hoá. - Phương pháp khái quát, tổng hợp. 6. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn hoàn thành sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam, góp phần khẳng định vị trí của nhà văn trong dòng chảy của văn xuôi đương đại viết về dân tộc và miền núi. - Qua việc khảo sát và chỉ ra những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam người đọc được tiếp cận với thiên nhiên, con người và lịch sử vùng núi Lào Cai, thêm hiểu thêm yêu về vùng đất biên cương của Tổ quốc. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn chúng tôi triển khai trên 3 chương: Chương 1: Tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam trong dòng văn xuôi hiện đại viết về dân tộc miền núi. Chương 2: Hiện thực cuộc sống và con người miền núi trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam. Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam. 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn NỘI DUNG Chƣơng 1 TIỂU THUYẾT ĐOÀN HỮU NAM TRONG DÕNG VĂN XUÔI HIỆN ĐẠI VIẾT VỀ DÂN TỘC MIỀN NÖI 1.1. Diện mạo văn xuôi hiện đại viết về dân tộc miền núi 1.1.1. Quá trình vận động 1.1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 Đầu thế kỷ XX, hòa chung với quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam, văn học dân tộc và miền núi chính thức ra đời. Đây thực sự là một địa hạt mới mẻ. Với sức hút của một “miền đất lạ”, “một món lạ” với bao điều kỳ thú, bí ẩn về một miền “ma thiêng nước độc”, văn học về cuộc sống và con người miền núi bắt đầu được nhà văn và độc giả quan tâm. Tuy nhiên trước năm 1945 văn xuôi viết về miền núi mới chỉ có tác phẩm của các văn nghệ sĩ người Kinh mà giới nghiên cứu quen gọi là “truyện đường rừng”. Mảng hiện thực mới mẻ phong phú và hấp dẫn này đã thu hút sự chú ý của nhiều cây bút. Trong thời kỳ này hầu như chưa có tác phẩm văn xuôi nào của tác giả người dân tộc thiểu số xuất hiện. Mặc dù từ những năm 30 của thế kỷ XX, trên diễn đàn văn học cũng đã xuất hiện một số tác phẩm viết về đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, nhưng tác giả viết về mảng này đều là người Kinh như: Thế Lữ với tập truyện Vàng và máu; Lan Khai với Truyện đường rừng; Tchya với Thần hổ, Ai hát giữa rừng khuya; Nhất Linh với Lan rừng, Ngậm ngải … Khái Hưng với Tiếng khèn…. Lúc bấy giờ, những tác phẩm này cũng đã thu hút sự chú ý của người đọc bởi sự mới lạ về cảnh và người miền núi và một phần nào đã kích thích trí tò mò của độc giả trước những miền đất lạ xa xôi, hoang dã với những phong tục tập quán kì lạ, bí hiểm, hoặc những hủ tục mông muội, thậm chí man rợ của những tộc người (Thổ, Mán,…) trên vùng núi cao rừng sâu. Những nhà văn lúc này giống như một du khách, một kẻ lãng tử đi khám phá những miền đất 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn xanh thẳm, âm u, hoang dã, phát hiện ra những điều kỳ bí trong cuộc sống của những tộc người sống trong rừng thẳm còn nhiều bí ẩn đối với con người trong xã hội văn minh. 1.1.1.2. Giai đoạn 1945 – 1975 Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân tộc: thời kì độc lập tự do. Lúc này, chúng ta phải đối đầu với những thử thách vô vàn khó khăn và khốc liệt với hai kẻ thù đó là Pháp và Mĩ để bảo vệ nền hòa bình, giải phóng và thống nhất đất nước. Dưới ánh sáng của thời đại mới, nhân dân miền núi đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cuộc cách mạng dân tộc. Con người miền núi cũng trở thành một đối tượng thẩm mĩ vô cùng quan trọng cho nền văn học cách mạng. Có thể nói, sự phát triển của văn học miền núi giai đoạn này là sự kế thừa, phát triển của thể loại “truyện đường rừng” giai đoạn trước 1945 đã được kết tinh ở những cây bút xuất sắc như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc… những nhà văn đã có công góp phần khai phá, mở đường cho văn xuôi dân tộc miền núi hình thành và phát triển. Nếu như văn xuôi viết theo xu hướng “truyện đường rừng” trước năm 1945 hình dung con người miền núi là những “giống người”, “bọn người”, “người mọi” mà sự dã man từ thời mông muội của loài người dường như vẫn còn rơi rớt lại, thì sau năm 1945 cái nhìn đối với con người miền núi đã có sự thay đổi. Từ cái nhìn phiến diện của “con mắt người Hà Nội” lúc ban đầu, về sau Nam Cao đã nhận ra rằng “Người Mán chẳng có gì đáng sợ… Họ chẳng giết ai và cũng chẳng có gì là quái gở”. Hơn nữa, tác giả nhận ra rằng người Mán tốt và cũng tràn đầy tinh thần cách mạng: “Họ nhịn ăn, giấu cơm đem cho người cách mạng ăn” (Nhật ký ở rừng). Nhà phê bình Lâm Tiến cho rằng “Với Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã vẽ nên một bức tranh tuy còn đơn giản nhưng rất chân thực, mới mẻ về con người, cuộc sống của các dân tộc miền núi”. 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi cách mạng về miền núi, sau Cách mạng Tháng Tám đó chính là Tô Hoài. Nhà văn đã đến với đồng bào Tây Bắc và đắm chìm trong cuộc sống của con người các dân tộc miền núi. Tô Hoài đã từng ăn, ở và sinh hoạt cùng họ, cùng ăn thịt ngựa, thịt chó nhạt, ăn rêu đá nướng và bọ hung xào như bà con, cùng vác củi, thổi sáo, bắt chuột, bắt con rúi, và trong những đêm trăng sáng theo thanh niên Hmông đi “cướp vợ”. Sống với người miền núi, ông thật sự thấu hiểu và yêu quý họ. Ông tâm sự: “Tôi thích những người ấy lắm,. Cô thì nhận là em. Cô thì nhận là con… Qua họ, mình biết được người thật, việc thật, người bình thường việc bình thường. Vì thế trước kia tôi có biết tí gì về miền núi đâu. Nhưng bây giờ tôi dám viết về miền núi. Tôi say sưa về miền núi. Tôi đã để công phu vào việc học tiếng miền núi và tha thiết yêu người miền núi, coi miền núi như quê hương mình vậy”. Núi cứu quốc được tác giả viết vào năm 1948 thể hiện được sự vất vả, thiếu thốn nhưng giàu ý nghĩa đối với cách mạng nhưng cũng như quyết tâm chiến đấu của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, tác phẩm còn nhiều hạn chế như còn nặng về thể hiện, miêu tả các tài liệu, bề mặt của hiện thực mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản chất của nó để rồi “chết chìm trong tài liệu” như nhà văn đã tâm sự. Năm 1960 tập truyện Truyện Tây Bắc ra đời với ba truyện ngắn là Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ được đánh giá là tác phẩm thành công xuất sắc đầu tiên về miền núi trong văn xuôi cách mạng hiện đại. Tập truyện có một vị trí quan trọng trong văn học hiện đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài sang những vùng núi hẻo lánh còn ít được nhà văn đào xới. Ở đấy “cảnh và người Tây Bắc hiện ra hài hòa đường nét, ấm màu sắc, êm ái âm thanh” và tác giả đã thành công trong việc “miêu tả con người chuyển sang ý thức từ tự phát đến tự giác là một đặc trưng của ngòi bút Tô Hoài”. Đóng góp của tác giả ở chỗ ông đã nhận thức và đi sâu vào cuộc đời, thân phận khổ cực của con người miền núi tựa như một trái núi đè nặng con 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn người từ khi sinh ra cho đến lúc chết, từ kiếp này sang kiếp khác, trùng điệp nỗi khổ như kiếp trâu ngựa tôi đòi “đời con, đời cháu bao giờ hết nợ thì thôi” (Vợ chồng A Phủ), để rồi tác giả đi tới cái nhận thức thật đau đớn và khó hiểu là làm sao con người có thể kéo dài kiếp sống lay lắt và mù mịt như thế và ý nghĩa cuộc đời con người hi sinh là gì? Trăn trở với những kiếp sống tôi đòi của con người vùng cao, nhất là thân phân của người phụ nữ miền núi dưới chế độ xưa, Tô Hoài đã thâu tóm cuộc đời người đàn bà miền núi trong những câu văn ám ảnh: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì gặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc xay ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm vẫn có lúc, đêm nó không được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”. Dưới sức mạnh của cường quyền và thần quyền, cuộc đời của con người vùng cao trở nên bi thảm hơn bao giờ hết. Tiêu biểu là nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài… Cũng sau năm 1945, theo định hướng đường lối văn nghệ của Đảng, mảng Văn học dân tộc thiểu số đã được quan tâm tạo điều kiện phát triển và bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ngoài một số tác giả người Kinh viết về miền núi như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc…, đã có một số tác phẩm của một số tác giả người dân tộc thiểu số đã xuất hiện, gia nhập vào dòng chảy của văn xuôi miền núi vốn trước đây chỉ là độc quyền của nhà văn dân tộc người Kinh. Một thế hệ nhà văn trẻ người dân tộc đã được hình thành trong những năm 50, 60 khi miền Nam đấu tranh chống Mĩ, miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Họ là những trí thức dân tộc, những người yêu mến và tự hào về mảnh đất và con người miền núi, thiết tha muốn đóng góp vào nền văn học nước nhà những tiếng nói tình cảm và tâm hồn của dân tộc mình. Đó là nhà văn Nông Viết Toại với tác phẩm: Boỏng tàng tập éo (1952), Nông Minh Châu với Ché Mèn được đi họp (1959), Y Điêng với Em chờ bộ đội 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Awa Hồ (1960), Hoàng Hạc với Ké Nàm (1964), Triều Ân với Tiếng khèn A Pá (1968), Vi Thị Kim Bình với Những bông huệ (1968), Hoàng Hạc, Triều Ân với Tiếng hát rừng xa (1969)… Cách mạng, nhân dân, văn hóa văn học dân gian chính là ba nguồn mạch cảm hứng vô tận nuôi dưỡng các cây bút văn xuôi người dân tộc thiểu số trong những năm kháng chiến chống Pháp. Những sáng tác của họ luôn luôn bám sát công cuộc cách mạng dân tộc và thể hiện sâu sắc tình cảm, ý chí của người dân miền núi trong những tháng ngày đầy gian khổ, mất mát, hi sinh, nhưng cũng đầy oanh liệt, oai hùng của dân tộc. Thời kỳ này phạm vi phản ánh của văn học dân tộc ta khá rộng, các tác giả dân tộc thiểu số không chỉ viết về cuộc sống và con người miền núi, mà họ còn viết về miền xuôi, về miền Nam, thậm chí còn quan tâm tới cả những vấn đề có tính quốc tế. Tác phẩm của họ luôn hướng tới việc ca ngợi sự thay đổi lớn lao của đất nước, của nhân dân các dân tộc miền Bắc và cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Ở giai đoạn này, ý thức dân tộc được nâng cao trong từng cây bút dân tộc thiểu số. Họ háo hức, hồ hởi khám phá với tâm hồn “bừng nắng hạ”, với một trái tim cháy bỏng, hăng say, hăm hở, tràn đầy cảm hứng lãng mạn khi viết về quê hương vùng cao tươi đẹp, kì vĩ với con người miền núi khỏe mạnh, chân thật, hồn nhiên, yêu đời. Vậy là dường như chưa bao giờ người ta chưa bao giờ được thể hiện niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình đến thế… Như vậy, với những đóng góp đáng kể của các tác giả miền núi thuộc nhiều dân tộc khác nhau, văn xuôi dân tộc và miền núi Việt Nam đã dần dần được định vị và góp phần xứng đáng vào công cuộc cách mạng, công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng xã hội chủ nghĩa, trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.3. Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay Trong bối cảnh hòa bình, thống nhất và phát triển đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới, văn xuôi dân tộc thiểu số 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn phát triển một bước mới. Và khoảng thời gian từ 1976 – 1986 được coi là chặng đường khởi động cho cao trào đổi mới. Văn xuôi miền núi cũng có đóng góp tích cực cho chặng đường này. Đội ngũ tác giả là người dân tộc thiểu số đông đảo hơn và thành tựu trong sáng tác cũng rực rỡ hơn. Ở thời kỳ này, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển mạnh về số lượng cũng như chất lượng, giúp chúng ta có thể nhận diện một cách rõ ràng, khẳng định nó như một thực thể riêng, độc đáo trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại. Một đặc điểm rất dễ nhận diện trong văn học sau năm 1975 ở nước ta đó là dư âm của cuộc chiến tranh vẫn còn đọng nhiều trong từng trang viết và nhiều tác phẩm vẫn còn mang đậm chất sử thi với ý thức cộng đồng và cảm hứng anh hùng ca, cảm hứng ngợi ca. Hình tượng những anh hùng cách mạng, những con người mới, những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa đang cùng đồng bào miền núi xây dựng cuộc sống mới là trung tâm của nhiều tác phẩm. Những tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe (1979), Trăng non (1982), Vùng biên ải (1983) của Ma Văn Kháng, Rừng động của Mạc Phi… tiếp tục mở rộng và hoàn thiện bức tranh hiện thực miền núi với sự tái hiện trên quy mô lớn của quá trình cách mạng, những giai đoạn lịch sử hào hùng của các dân tộc ít người vùng địa đầu của Tổ quốc. Nghệ thuật xây dựng nhân vật con người miền núi trong văn xuôi giai đoạn này đã ghi nhận sự thành công của nghệ thuật điển hình hóa cao độ nhưng vẫn chịu sự chi phối khá lớn của khuynh hướng sử thi. Con người mới, con người tập thể vẫn là trung tâm của văn học và có sự thống nhất cao giữa ngoại hình và tính cách. Cũng ở giai đoạn này, đội ngũ sáng tác các nhà văn dân tộc thiểu số đã tăng lên đáng kể và cũng trưởng thành nhanh chóng. Nhà văn Vi Hồng tiếp tục đóng góp hàng loạt tác phẩm có giá trị như Đất Bằng (1980), Vãi Đàng (1980), Núi cỏ yêu thương (1984), Thung lũng đá rơi (1985)… Bao trùm lên các sáng tác của ông là cảm hứng ca ngợi cái tốt đẹp và lên án những tội 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ác mà bọn phong kiến đã gây ra cho người dân. Bên cạnh đó còn có Tiếng chim gô (1979) của Nông Minh Châu, Niềm vui (1979) của Vi Thị Kim Bình, Tiếng kèn A Pá (1980) của Triều Ân, Hạt giống mới (1983) và Sông gọi (1986) của Hoàng Hạc. Mỗi tác giả đều phản ánh hiện thực và con người miền núi theo cách riêng nhưng tựu chung lại họ đều tập trung phản ánh sự đổ mới của cuộc sống và con người miền núi nhờ có ánh sáng của cách mạng. Những thành quả từ hai nguồn tác phẩm của các nhà văn dân tộc Kinh và nhà văn dân tộc thiểu số cho thấy mười năm năm sau chiến tranh tuy không dài nhưng là giai đoạn phát triển đồng bộ và phong phú của văn xuôi miền núi. Sự đổi mới trong văn học đã xuất hiện ngay từ cuối thập niên 70 đến đầu thập kỉ 80 nhưng phải đến năm 1986 sự thay đổi mới thực sự thành phong trào rộng lớn, sâu sắc, làm xuất hiện loại hình nhân vật mới trong văn học. Văn xuôi miền núi cũng có những bước chuyển biến tích cực và đạt được nhiều thành tựu mới mẻ. Lúc này các cây bút người Kinh vẫn cần mẫn cắm bản. Tô Hoài đánh dấu sự trở lại của mảng đề tài miền núi bằng tiểu thuyết Nhớ Mai Châu (1988). Ma Văn Kháng với nhiều truyện ngắn đặc sắc về vùng cao như Vệ sĩ của quan châu (1988), Bài ca trăng sáng (1992), Móng vuốt thời gian (2003) đã cho thấy những cách nhìn mới mẻ, sâu hơn về hiện thực và con người miền núi. Một trong những thành tựu đáng kể trong giai đoạn này đó là bộ ba tiểu thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe (1978), Vùng biên ải (1983), Gặp gỡ ở La Pán Tẩn (1999) của Ma Văn Kháng. Nguyễn Ngọc Thiện đã khái quát giá trị của các tiểu thuyết này ở vai trò “một cuốn sử biên niên” với những tri thức quý báu về lịch sử, xã hội, phong tục, tâm lí, ngôn ngữ,… của cộng đồng dân tộc Tây Bắc ở nước ta. Ở vùng núi Việt Bắc và Tây Bắc – tác giả người Tày luôn chiếm số đông. Ngoài các nhà văn như Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kì, còn có Đoàn 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan