Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ ...

Tài liệu Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
85
91
106

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN ĐÌNH THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐOÀN ĐÌNH THẮNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HỮU DU Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là độc lập của riêng tôi. Các kết quả được viết trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY ................................................................................................... 8 1.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy ........................................................................................................ 8 1.2. Những yếu tố đảm bảo thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túyError! Bookmark not de Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ......... 29 2.1. Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy. ........................................................................................... 29 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 .......................................................................................... 39 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY .................................................................................................. 58 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy ................................................... 58 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy. .................................................. 61 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ Luật hình sự BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra KSĐT: Kiểm sát điều tra QCT: Quyền công tố THQCT: Thực hành quyền công tố VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XXST: Xét xử sơ thẩm MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng cơ bản của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Việc đảm bảo thực hiện chức năng này là nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" [1]; Nghị quyết số 48NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 24/5/2005 về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" [2]; Nghị quyết số 49-NQ/TW Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" [3]. Hoạt động của VKSND là một hoạt động xuyên suốt bắt đầu từ giai đoạn giải quyết tin báo, điều tra, truy tố, xét xử đến giai đoạn thi hành án hình sự. Trong tố tụng hình sự, chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát là đặc biệt quan trọng, bởi vì quyết định truy tố (bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Tòa án đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Vì thế hoạt động này của Viện kiểm sát sẽ tạo điều kiện cho Toà án nhân dân tuyên một bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và có tính thuyết phục, nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm và tội phạm, hạn chế thấp nhất việc kháng cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên (KSV) căn cứ quy định pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo đúng tội danh, đề xuất mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đây chính là việc Kiểm sát viên đã đảm bảo tốt công tác thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có địa giới hành chính sát với Thủ đô Hà Nội, 1 nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh trong vùng. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bắc Ninh đã có những bước phát triển khá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện Tuy nhiên, cùng với sự phát triển vượt bậc của kinh tế - xã hội cũng kéo theo sự gia tăng của các loại tội phạm trên địa bàn tỉnh, trong đó nổi lên là các tội phạm ma túy. Trong những năm qua, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy được xác định là nhiệm vụ hết sức quan trọng của chính quyền trong tỉnh Bắc Ninh nói chung và các cơ quan tư pháp trong tỉnh trong đó có VKSND nói riêng, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Viện kiểm sát nhân dân các cấp của tỉnh Bắc Ninh đã quán triệt tốt các chủ trương về cải cách tư pháp trong việc tăng cường hoạt động công tố trong giai đoạn xét xử, đã phối hợp chặt chẽ với Tòa án hai cấp giải quyết các vụ án hình sự về tội phạm về ma túy và đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Các vụ án về ma túy đã được Tòa án các cấp xét xử theo đúng quy định của pháp luật, không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian vừa qua thể hiện còn nhiều tồn tại và hạn chế, cũng là những thách thức đối với ngành kiểm sát trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Xuất phát từ đặc điểm của loại tội phạm này là có nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt; số lượng vụ án có chiều hướng gia tăng, tính chất mức độ nguy hiểm ngày càng cao; cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều loại chất ma túy mới, hậu quả xảy ra ngày càng nghiêm trọng gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, đòi hỏi cần phải được phát hiện và xử lý kịp thời. Song, do nhiều lý do khác nhau mà công tác 2 THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh vẫn còn xảy ra tồn tại, hạn chế, sai sót, dẫn đến một số vụ án sơ thẩm còn để sửa, hủy, gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức, cơ quan có liên quan, chưa đáp ứng được tình hình ổn định chính trị tại địa phương, cũng như ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động của ngành Kiểm sát hai cấp tỉnh Bắc Ninh. Từ các lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại Học viện khoa học xã hội, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự để góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý từ lâu không còn là vấn đề chỉ giới hạn trong biên giới, lãnh thổ quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề nóng bỏng mang tính toàn cầu. Từ yêu cầu đòi hỏi khách quan, bức thiết của cuộc đấu tranh này đã thu hút nhiều nhà khoa học trong nước và thế đã quan tâm nghiên cứu, tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, tổng kết, xuất bản các tài liệu phục vụ việc phòng chống ma tuý. Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự là công tác quan trọng của ngành kiểm sát nhằm đảm bảo truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Quá trình nghiên cứu luận văn, học viên đã tìm hiểu và tiếp cận nghiên cứu được một số công trình khoa học có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu của đề tài như: - Giáo trình Đào tạo " Nghiệp vụ kiểm sát" của Trường Đại học kiểm sát Hà Nội [26]. - Luận án tiến sĩ "Quyền công tố ở Việt Nam" của tác giả Lê Thị Tuyết 3 Hoa [12]. - “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay” cña VKSND tối cao (năm 1999); - “Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Luận án tiến sỹ của Trần Văn Quý năm 2017. - “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Trà Bồng, tỉnh Quãng Ngãi”, Luận văn thạc sỹ của Trương Thị Thu Thắm, năm 2017. - “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật của Trương Khắc Dương, năm 2017. - “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, Luận văn thạc sĩ Luật của Phan Thị Sa, năm 2018. - “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ Luật của Nguyễn Thành Tất, năm 2018. Ngoài ra còn các bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Toà án, Tạp chí Luật học của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Công an nhân dân… và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: “Tổng hợp kinh nghiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án ma tuý lớn” của Vụ 2- VKSND tối cao (năm 2004); Nhìn chung, có thể thấy các đề tài nghiên cứu trước đó đó đề cập các góc độ khác nhau của công tác THQCT và KSXX tội phạm, tuy nhiên, chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu vấn đề THQCT và KSXX sơ thẩm 4 đối với vụ án về ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, luận văn của học viên nghiên cứu về một vấn đề mới không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. Học viên kế thừa dưới góc độ lý luận và cách tiếp cận của những công trình nêu trên trong nghiên cứu để hoàn thiện luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: 3.1. Mục đích Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận, làm rõ thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của những kết quả đã đạt được, hạn chế, tồn tại, luận văn kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần cùng với các cơ quan tư pháp trong tỉnh bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và công dân. 3.2. Nhiệm vụ Thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ma túy. Từ đó, tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm, hình thức thực hiện và các yếu tố đảm bảo việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích những quy định pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh. Thành tựu đạt được và hạn chế, tìm ra những nguyên nhân hạn chế, dẫn đến những tồn tại, hạn chế của công tác này. 5 - Đề xuất giải pháp nhằm bảo đảm công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến năm 2019. 5.Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để phân tích khái quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp bảo đảm trong công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. - Phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, xem xét những vấn đề cần nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, các quy định của pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân và thực tế áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh. - Phương pháp thống kê: được sử dụng khi đánh giá thực trạng áp dụng pháp trong luật thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh. 6 Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả cũng sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tế. 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn đã đóng góp nghiên cứu những vấn đề lý luận trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân, làm đa dạng thêm những vấn đề lý luận liên quan đến lĩnh vực này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các Trường Đại học chuyên ngành luật và không chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể được dùng làm tư liệu tham khảo cho các Điều tra viên, Kiểm sát viên trong Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhất là những Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy nhằm nâng cao trình độ lý luận và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. 7. Kết cấu của Luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo Luận văn gồm 3 chương Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy Chương 2. Những quy định pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN MA TÚY 1.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy 1.1.1. Khái niệm *Khái niệm quyền công tố: Cũng như các chế định pháp luật khác, quyền công tố là một khái niệm gắn liền với lịch sử, là sản phẩm tiến bộ của xã hội loài người, xuất hiện đồng thời với sự ra đời của nhà nước. Do đó, quyền công tố luôn song hành với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời khỏi công quyền. Theo Từ điển Tiếng Việt, "Công tố" được tách nhỏ, hiểu từng nghĩa như sau: "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư", còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người", "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án". Tại Việt Nam, quyền công tố được đề cập nhiều khi nhắc đến chức năng của Viện Kiểm sát. Tuy nhiên, cho đến nay khi chúng ta đang hướng tới sự hoàn thiện quy định pháp luật cũng như đẩy mạnh cải cách tư pháp, thì nhận thức vấn đề này vẫn chưa có sự thống nhất cao. Có thể khái quát một số quan điểm khác nhau ở những vấn đề sau: Thứ nhất, quyền công tố là quyền của Nhà nước dùng để bảo vệ lợi ích công được thực hiện trong cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như TTHS, tố tụng dân sự, kinh tế, lao động hay chỉ riêng lĩnh vực TTHS. 8 Thứ hai, ngay cả những người theo quan điểm quyền công tố là quyền của Nhà nước dùng để bảo vệ lợi ích công chỉ riêng trong lĩnh vực TTHS cũng chưa thống nhất. Có quan điểm cho rằng quyền công tố xuất hiện ở cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; quan điểm khác lại cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn truy tố, xét xử. Thứ ba, quyền công tố là quyền của Nhà nước dùng để bảo vệ lợi ích công và nhà nước giao quyền này cho cơ quan nhất định thực hiện. Vấn đề khác biệt về quan điểm là ở chỗ nhà nước giao cho cơ quan nào, một cơ quan hay nhiều cơ quan. Từ những phân tích trên, khái niệm quyền công tố được hiểu như sau: Quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự của Nhà nước, được nhà nước giao cho VKS thực hiện nhằm phát hiện, điều tra tội phạm, truy tố người phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. *Khái niệm thực hành quyền công tố Hiện nay, vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên bản thân các quan điểm đó cũng đều có những điểm hợp lý nhất định. Ngay cả những người đang tiến hàng tố tụng cũng còn nhiều nhầm lẫn giữa QCT và THQCT cho rằng là một, nhưng đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Việc xác định rõ quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa không chỉ giúp phân định rõ ràng, đúng đắn chức năng, nhiệm vụ, xác định vị trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng mà còn giúp cho nhận thức thống nhất và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cải cách tư pháp. Xuất phát từ quan niệm về quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm 9 tội (người phạm tội và pháp nhân phạm tội) thì thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội, truy tố ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó. Để buộc tội đối với chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố. Ở Việt Nam, từ quy định của Hiến pháp và pháp luật, thực tiễn thi hành thì từ trước đến nay quyền công tố chỉ được giao duy nhất cho Viện kiểm sát. Chủ thể duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố ở Việt Nam là Viện kiểm sát nhân dân. Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Theo nghĩa tiếng Việt, “thực hành” được hiểu là “làm để lý thuyết áp dụng vào thực tế”. Do đó, thực hành quyền công tố có thể hiểu là hoạt động mang những quy định của pháp luật về quyền công tố thuộc chức năng của Viện kiểm sát đưa vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội. Theo đó, cần phải hiểu khái niệm thực hành quyền công tố như sau: Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng pháp lý được Nhà nước giao trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. * Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm: 10 Giai đoạn xét xử sơ thẩm được hiểu là một giai đoạn tố tụng kế tiếp giai đoạn truy tố, bao gồm hai phần cơ bản chuẩn bị xét xử và xét xử công khai tại phiên tòa. Trong Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự quy định, tùy theo tính chất mức độ hành vi phạm tội và nội dung vụ án mà VKS phối hợp với Tòa án để chuẩn bị các nội dung sau: phương hướng giải quyết; thời gian, địa điểm xét xử; danh sách những người cần triệu tập đến phiên tòa; thông tin về sức khoẻ, tâm trạng của bị cáo; việc tuyên truyền, giáo dục và những vấn đề khác có liên quan. Đối với vụ án có tính chất phức tạp, thì có thể mời lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và một số cơ quan hữu quan khác tham dự. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của VKSND là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT của VKS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, khi VKS kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, bị cáo có kháng cáo bản án sơ thẩm và hồ sơ vụ án được chuyển lên cơ quan có thẩm quyền cấp trên. *Vụ án ma túy: Án ma túy là một trong các loại án hình sự. Khái niệm vụ án ma túy có nguồn gốc từ khái niệm “vụ án hình sự”. Theo Từ điển Luật học thì: “Vụ án hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự đã được Cơ quan điều tra khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định”. Vụ án ma túy là vụ án hình sự đã được khởi tố về một hoặc một số tội quy định trong Bộ luật Hình sự. Theo pháp luật hiện hành thì căn cứ khởi tố 11 vụ án hình sự phạm tội về ma túy là Bộ luật Hình sự năm 2015 tại Chương XX “Các tội phạm về ma túy” gồm 13 điều (từ Điều 247 đến Điều 259). Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đưa ra khái niệm: Vụ án ma túy là vụ phạm pháp về ma túy đã được cơ quan có thẩm quyền theo luật định kiểm tra, xác minh xác định có hành vi phạm tội về ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự đã xảy ra và đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với vụ phạm pháp đó để điều tra, giải quyết theo quy định của tố tụng hình sự. *Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy. Từ việc phân tích giai đoạn xét xử sơ thẩm, quyền công tố, thực hành quyền công tố và việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tác giả đồng tình với quan điểm của một số tác giải trình bày tại công trình [26, tr.10] và [22, tr.9] như sau là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT của VKS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội về ma túy trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, khi VKS kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, bị cáo có kháng cáo bản án sơ thẩm và hồ sơ vụ án được chuyển lên cơ quan có thẩm quyền cấp trên. Từ cách tiếp cận trên, khi đề cập đến khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần chú ý một số điểm cơ bản sau: Về đặc điểm: thực hành quyền công tố được thực hiện bởi cơ quan duy nhất là VKS trong tố tụng hình sự; là việc truy tố bị can ra trước Tòa án, trên cơ sở kết quả điều tra, thu thập chứng cứ và chứng minh được người phạm tội ở các giai đoạn điều tra, truy tố; là việc buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa bằng các phương thức được pháp luật quy định. Đây là đặc điểm quan trọng bậc nhất vì nó thể hiện đầy đủ quyền năng pháp 12 lý của VKS tại phiên tòa được thực hiện thông qua người đại diện của VKS là Kiểm sát viên. Đối tượng ở đây là hành vi phạm tội và chủ thể phạm tội. Về phạm vi: từ thời điểm bắt đầu của giai đoạn xét xử sơ thẩm, tức là từ khi VKS chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang Tòa án và kết thúc bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Đối với công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy của VKS hai cấp, cần nhìn nhận rằng, về trình tự, thủ tục thực hiện giữa các cấp VKS là không có sự khác biệt, nhưng về phạm vi thẩm quyền thực hành quyền công tố lại có sự khác nhau. Theo quy định của Bộ luật TTHS, VKS cấp nào thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì VKS cấp đó quyết định việc truy tố. Thẩm quyền truy tố của VKS được xác định theo thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với vụ án. Cụ thể hơn, đối với tội phạm về ma túy là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259 ) BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Như vậy, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy của VKSND cấp huyện chỉ giới hạn đối với các loại tội phạm mà mức của khung hình phạt cao nhất là đến 15 năm tù, cụ thể: Điều 247; Khoản 1, 2 Điều 248; Khoản 1, 2, 3 Điều 249; Khoản 1, 2 Điều 250; Khoản 1, 2 Điều 251; Khoản 1, 2, 3 Điều 252; Khoản 1, 2 Điều 253; Điều 254; Khoản 1, 2 Điều 255; Điều 256; Khoản 1, 2 Điều 257; Khoản 1, 2, 3 Điều 258; Điều 259 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, VKS cấp huyện theo quy định của pháp luật còn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử khi VKS cấp trên ủy quyền xét xử. Trước khi kết thúc điều tra, chậm nhất là 02 tháng, VKS cấp trên phải thông báo cho VKS cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền 13 xét xử sơ thẩm vụ án để cử KSV cùng tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi ban hành quyết định truy tố, VKS cấp trên ra quyết định phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án được ủy quyền, VKS cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo đúng quy định của Bộ luật TTHS. VKS cấp tỉnh thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy quy định cụ thể ở Khoản 3, 4 Điều 248; Khoản 4 Điều 249; Khoản 3, 4 Điều 250; Khoản 3, 4 Điều 251; Khoản 4 Điều 252; Khoản 3, 4 Điều 253; Khoản 3, 4 Điều 255; Khoản 3, 4 Điều 257; Khoản 4 Điều 258 Bộ luật hình sự. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho hoạt động truy tố và xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm và hình thức thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy 1.1.2.1. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy Thứ nhất, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử đối với các vụ án về ma túy là hoạt động thực hiện quyền buộc tội của Nhà nước đối với chủ thể phạm tội về ma túy. Pháp luật luôn là một thanh công cụ thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước, chức năng thực hành quyền công tố của VKS được coi là công cụ hữu hiệu thực hiện ý chí của Nhà nước. Ở một khía cạnh nhất định, thực hành quyền công tố còn mang tính chính trị, đảm bảo phục vụ cho những mục đích chính trị của Nhà cầm quyền. Điểm khác biệt với hình thức thực hiện pháp luật khác, thực hành quyền công tố hoạt động theo ý chí đơn phương của cơ 14 quan Nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào khác. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án về ma túy của VKS là hoạt động thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với chủ thể phạm tội về ma túy nhằm đưa chủ thể phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ việc buộc tội tại phiên tòa. Quyền buộc tội là quyền năng của Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội. Đây là một hoạt động cá biệt của cơ quan Nhà nước thể hiện chức năng duy trì giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, thực hiện các biện pháp chứng minh người phạm tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị coi là tội phạm. Thứ hai, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử đối với các vụ án về ma túy là việc bảo vệ cáo trạng tại phiên tòa thông qua việc xét hỏi, luận tội và tranh luận tại phiên tòa. Việc thực hiện chức năng THQCT của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy tại phiên tòa là việc bảo vệ cáo trạng, thể hiện sự buộc tội của Nhà nước đối với bị cáo. Điều này cũng góp phần đảm bảo thực hiện quyền lực Nhà nước, cụ thể là thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân. Trong giai đoạn xét xử đối với các tội phạm về ma túy thì VKS thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo việc buộc tội và bảo vệ việc buộc tội đúng quy định pháp luật, đảm bảo các hành vi xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân mà cụ thể là xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, tiền chất ma túy được xử lý nghiêm minh trước quy định pháp luật. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan