Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quy...

Tài liệu Luận văn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh cao bằng

.PDF
74
97
53

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NÔNG THỊ HUYỀN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NÔNG THỊ HUYỀN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. MAI ĐẮC BIÊN Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu khoa học của riêng tôi với sự hướng dẫn khoa học của TS. Mai Đắc Biên. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, đảm bảo khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tác giả luận văn Nông Thị Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU ...................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu ............... 6 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu .................................... 21 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG ........................ 30 2.1. Một số tình hình có ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ................................................................................................... 30 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng .......................... 37 Chương 3: YÊU CẦU BẢO ĐẢM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG ................................................................................................... 49 3.1. Yêu cầu bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng ............... 49 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của VKSND tỉnh Cao Bằng 53 KẾT LUẬN .................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 66 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra NXB : Nhà xuất bản ĐTV : Điều tra viên KSV : Kiểm sát viên VKSND : Viện kiểm sát nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố TNHS : Trách nhiệm hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm vấn đề cải cách tư pháp. Bộ Chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Định hướng chỉ đạo trọng tâm là: cải cách một cách căn bản, toàn diện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng, chống và xử lý tội phạm; góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm trong tình hình mới, trong những năm qua toàn ngành kiểm sát đã triển khai nhiều biện pháp để phấn đấu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; tập trung tổ chức, quán triệt và thực hiện nghiêm túc có hiệu quả chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp, các quy định của pháp luật liên quan đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành. Chất lượng, hiệu quả các lĩnh vực hoạt động của thực hành quyền công tố nói chung và công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nói riêng có chuyển biến tích cực và đang từng bước được nâng cao, thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm đúng người, đúng tội, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, và không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn công tác THQCT vẫn còn bộc lộ nhiều điểm tồn tại hạn chế, bất cập ở các giai đoạn tố tụng, trong đó có giai đoạn điều tra, giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử 1 lý kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; theo đó, việc làm tốt công tác này sẽ đảm bảo quyền lợi của công dân, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Đồng thời bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; kịp thời phát hiện nhanh chóng, khắc phục và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, thời gian gần đây, tình hình tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tăng nhanh, diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, có tính chuyên nghiệp cao, đặc biệt nhiều vụ án xâm phạm sở hữu với giá trị lớn liên quan đến yếu tố nước ngoài có tính nguy hiểm cao cho xã hội. Các cơ quan tố tụng khi tiến hành xử lý nhóm tội phạm này còn lúng túng trong quá trình áp dụng pháp luật đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Do đó, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp, đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này. Xuất phát từ tầm quan trọng nêu tôi lựa chọn đề tài "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng". 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nhiều nhà khoa học pháp lý cũng như những người làm công tác thực tiễn đã quan tâm, nghiên cứu hoặc đề cập ở phạm vi khác nhau vấn đề thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, và đã được thể hiện dưới các công trình sau: 2 - Sách chuyên khảo: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Do tác giả Lê Hữu Thể (chủ biên) xuất bản năm 2005. - Sách chuyên khảo: Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, do tác giải Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thủy, Đỗ Văn Đương, đồng chủ biên; - Giáo trình: Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Mai Đắc Biên (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội 2019; - Sách chuyên khảo: Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu, TS.Lê Đăng Doanh, NXB Tư Pháp, 2014; - Luận án tiễn sỹ luật học năm 2006: Thực hành quyền công tố của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa; - Luận án tiến sỹ luật học «Quyền hạn của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra theo quy định của BLTTHS Liên bang Nga và Việt Nam » của tác giả Mai Đắc Biên, Trường đại học tổng hợp quốc gia Ku ban, Liên Bang Nga, 2012. Ngoài ra, liên quan đến đề tài này còn nhiều luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp trình độ cử nhân đã được bảo vệ, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sâu rộng, đầy đủ và toàn diện về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng để từ đó đưa ra những giải pháp tăng cường và bảo đảm thực hiện tốt hơn quy định của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu nói chung và trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 3 - Đánh giá những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về mặt cơ sở lý luận công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu ; - Nghiên cứu tình hình các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng ; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác THQCT trong giai đoạn điều tra, kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó ; - Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm đảm bảo THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định của BLTTHS năm 2015 và một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và thực trạng về công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu về lý luận, quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, (có một phần quy định của BLTTHS năm 2003) và một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; - Nghiên cứu thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp tỉnh Cao Bằng trong thời hạn 3 năm, từ năm 2016 đến năm 2018. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích: Sử dụng để hệ thống hóa những vấn đề lý luận, phân tích, đánh giá thực tiễn công tác THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu tại tỉnh Cao Bằng. - Phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát và tổng kết thực tiễn để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận : Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm quyền sở hữu nói riêng . 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho cán bộ, kiểm tra viên, kiểm sát viên trong ngành KSND nói chung và VKSND hai cấp tỉnh Cao Bằng nói riêng, nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. - Bên cạnh đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, các sinh viên học tập và nghiên cứu về thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết : - Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu; - Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng; Chương 3: Yêu cầu bảo đảm và giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU 1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi và ý nghĩa thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu Theo quy định của pháp luật nước ta, thực hành quyền công tố (THQCT) được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 ( Luật tổ chức VKSND năm 2014), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015). Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Khoản 1 Điều 3, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”[78, tr1]. Điều 20, BLTTHS năm 2015 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”[69, tr17]. Đồng thời, trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 đều quy định nhiệm vụ, quyền hạn THQCT của VKSND, như tại các điều 159, 161, 165, 236, 266 BLTTHS năm 2015. 6 Để hiểu một cách sâu sắc và toàn diện về thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự nói chung và trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, chúng ta cần hiểu rõ về quyền công tố trong khoa học pháp lý hình sự. Công tố là một từ ghép Hán - Việt được hình thành bởi hai từ đơn “công” và “tố”. Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 tại các trang 200, 204, 973 thì: “tố” có nghĩa là nói công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người khác, còn “công” có nghĩa là thuộc về Nhà nước chung cho mọi người, khác với “tư”; “công tố” là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án”. “Công tố” theo Từ điển tiếng Việt là một khái niệm bao gồm bốn nội dung: điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu trước tòa án. Quyền công tố là quyền của Nhà nước để điều tra, truy tố, buộc tội và phát biểu trước tòa án về tội phạm và người phạm tội. Quyền công tố trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta cũng đã có những bước hoàn thiện cả trong xây dựng pháp luật và nhận thức về mặt lý luận. Trong những năm trước đây, dựa vào những quy định của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981 thì quyền công tố được hiểu là một trong những nội dung của kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Theo cách hiểu này, quyền công tố không phải là một quyền năng pháp lý độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một nhiệm vụ thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và nằm trong chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Do vậy, mặc dù trong Hiến pháp năm 1980, 1992 đã xuất hiện thuật ngữ “thực hành quyền công tố” trong các điều quy định về Viện kiểm sát nhân dân, nhưng trong Luật tổ chức VKSND 1981, 1992 vẫn chưa quy định thực hành quyền công tố là một chức năng riêng biệt. Những nội dung thuộc về thực hành quyền công tố như phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định của CQĐT vẫn nằm trong nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát điều tra. Đến Luật tổ chức 7 VKSND năm 2002 thì tại Điều 13 đã quy định THQCT là một chức năng độc lập, tách biệt với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Từ đó đến nay, về mặt lý luận đều thống nhất nhận thức rằng: quyền công tố là quyền tư pháp hình sự mà Nhà Nước dùng để đấu tranh chống tội phạm, quyền công tố được Nhà Nước giao cho VKSND thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, do vậy, quyền công tố chính là một trong những quyền năng pháp lý quan trọng của VKS, bảo đảm cho VKS có đủ thẩm quyền để đấu tranh chống mọi hành vi phạm tội, chống mọi oan sai và bỏ lọt tội phạm trong tố tụng hình sự. Thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng của VKSND, là việc VKSND đại diện Nhà Nước thực hiện quyền công tố trong tố tụng hình sự bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự, truy tố bị can ra trước tòa án và buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự. Chức năng thực hành quyền công tố luôn đi đôi và gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời với chức năng kiểm sát hoạt động tu pháp trong tố tụng hình sự của VKS. Do đó, THQCT chính là việc chủ thể của quyền công tố - VKSND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các đối tượng là tội phạm và người phạm tội để đạt được mục tiêu đã xác định là thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội người phạm tội. Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 3, Luật tổ chức VKSND năm 2014, các Điều 20, 159, 161, 165, 236, 266 BLTTHS năm 2015 thì Viện kiểm sát THQCT để thực hiện việc phát hiện tội phạm, truy cứu TNHS, truy tố và buộc tội người phạm tội, pháp nhân phạm tội trước Tòa án. Đồng thời, trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2015 đều quy định nhiệm vụ quyền hạn thực hành quyền công tố của VKSND, như tại các điều 159, 161, 165, 236, 266 BLTTHS năm 2015. Để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự thì Viện kiểm sát được Nhà Nước 8 trao cho nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng quan trọng thuộc nội dung thực hành quyền công tố như: (1) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây gọi chung là CQĐT) khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; (2) Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật; (3) Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do BLTTHS quy định; (4) Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do; (5) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS; (6) Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; (7) Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố; (8) Khởi tố 9 vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; (9) Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án; (10) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của BLTTHS. Như vậy, chúng ta thấy, những hoạt động hoặc quyết định của VKS làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện pháp lý hình sự, hướng đến việc phát hiện tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự, truy tố, buộc tội là thuộc nội dung thực hành quyền công tố của VKS. Những quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát sử dụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát hoạt động tư pháp). Cụ thể, các hoạt động như: Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm trong hoạt động điều tra… là những hoạt động thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy nhiên giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra là hai chức năng có mối quan hệ đặc biệt, chặt chẽ, máu thịt, không thể tách rời, hỗ trợ cho nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát sử dụng 10 các biện pháp do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội, bảo đảm phát hiện và xử lý mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Để có thể đưa ra khái niệm về THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án xâm phạm quyền sở hữu, chúng ta cần tìm hiểu về nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Các tội xâm phạm quyền sở hữu được quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu”, bao gồm 13 tội, từ Điều 133 đến Điều 145 của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) quy định nhóm tội này tại chương XVI “Các tội xâm phạm sở hữu” gồm 13 tội sau đây: Điều 168. Tội cướp tài sản; Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản; Điều 171. Tội cướp giật tài sản; Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản; Điều 173. Tội trộm cắp tài sản; Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Điều 176. Tội chiếm giữ trái phép tài sản; Điều 177. Tội sử dụng trái phép tài sản; Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Điều 179. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Điều 180. Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Theo quy định của BLHS năm 2015, pháp nhân thương mại không phải chịu TNHS đối với các tội xâm phạm sở hữu nêu trên. Như vậy, chỉ người phạm tội (cá nhân) chịu TNHS về các tội xâm phạm sở hữu. Đặc điểm chung về cấu thành tội phạm của nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu: - Khách thể của tội phạm: là quyền sở hữu tài sản được Nhà nước bảo hộ và bị tội phạm xâm hại. Tài sản có quan hệ sở hữu là tài sản của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức hoặc của cá nhân. 11 - Mặt khách quan của tội phạm: là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản, bao gồm: 1) hành vi chiếm đoạt tài sản (trong các tội Cướp tài sản; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; Tội cưỡng đoạt tài sản; Tội cướp giật tài sản; Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản); 2) hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (trong Tội chiếm giữ trái phép tài sản); 3) hành vi sử dụng trái phép tài sản (trong Tội sử dụng trái phép tài sản); 4) Hành vi làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản ( trong tội cố ý làm hư hỏng hoặc hủy hoại tài sản); 5) hành vi thiếu trách nhiệm và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản (trong các tội: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản). - Mặt chủ quan của tội phạm: Các tội phạm thuộc nhóm tội này chủ yếu được thực hiện với lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Có một số tội, như các tội: Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được thực hiện với lỗi vô ý. - Chủ thể của tội phạm. Các tội xâm phạm sở hữu có chủ thể bình thường, thỏa mãn các điều kiện chung của chủ thể tội phạm. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có chủ thể đặc biệt, đó là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Với chức năng THQCT trong lĩnh vực hình sự thì tội phạm và người phạm tội trong các tội phạm hình sự nói chung và trong các tội xâm phạm quyền sở hữu nói riêng là đối tượng thực hành quyền công tố của VKS. THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu là việc VKS đại diện Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình được pháp luật quy định để truy cứu TNHS, buộc tội người phạm tội xâm 12 phạm quyền sở hữu. VKS thực hiện chức năng THQCT trong giai đoạn điều tra bằng việc đề ra yêu cầu điều tra đối với cơ quan điều tra, ban hành quyết định để phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT, trực tiếp ra các quyết định tố tụng, thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định tại Điều 165 BLTTHS năm 2015 để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu. THQCT của VKS hướng đến mục đích điều tra nhanh chóng tội phạm, truy cứu TNHS, buộc tội, xử lý nghiêm minh người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu như sau: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là việc Viện kiểm sát sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu, bảo đảm phát hiện nhanh chóng và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. 1.1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu có những đặc điểm chung của THQCT đối với các vụ án hình sự, đồng thời có những đặc điểm riêng của nhóm tội này. Nghiên cứu cho thấy, THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là việc thực hiện quyền lực Nhà nước Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, theo đó: “1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan 13 thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước để bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều 5 BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó, khoản 4, khoản 6 quy định: “Cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ”. THQCT trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm phạm quyền sở hữu nói riêng là quyền lực của Nhà nước, được Nhà nước trao cho VKSND thực hiện theo quy định của pháp luật để đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ Nhà nước, xã hội và con người. Những quyết định, hoạt động của VKSND trong THQCT trong điều tra các vụ án hình sự thể hiện tính quyền lực Nhà nước, có tính bắt buộc thực hiện đối với người phạm tội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội người phạm tội để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, 14 truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội. Do vậy những quyết định, hoạt động của VKSND trong THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là thể hiện quyền lực Nhà nước, các quyết định và hoạt động đó phải được các cơ quan Nhà Nước, các cơ quan tiến hành tố tụng, mọi tổ chức xã hội và công dân chấp hành nghiêm chỉnh. Thứ hai, THQCT trong điều tra các vụ án xâm phạm quyền sở hữu là chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng có của Viện kiểm sát nhân dân Theo quy định của pháp luật thì VKSND các cấp là cơ quan có chức năng THQCT trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm hạm quyền sở hữu tài sản nói riêng. Thông qua việc thực hiện chức năng này, VKSND góp phần thực hiện quyền lực Nhà nước, trực tiếp thực hiện quyền công tố góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. THQCT bảo đảm mọi tội phạm, mọi hành vi phạm tội phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật. VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao quyền công tố một cách độc lập, có nhiệm vụ quyền hạn truy cứu TNHS, buộc tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, thể hiện bằng việc phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện hoạt động điều tra, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật. Đồng thời, VKS có nhiệm vụ quyền hạn trực tiếp ban hành các quyết định tố tụng để truy cứu TNHS, buộc tội như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các quyết định tố tụng khác và trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Việc truy cứu TNHS như khởi tố vụ án có thể có nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện như CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án nhưng việc phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT, yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động tố tụng là thẩm 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan