Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn ths. văn học quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ huy cận...

Tài liệu Luận văn ths. văn học quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ huy cận

.PDF
93
820
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------- PHÙNG THU HẰNG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG THƠ HUY CẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lý Luận văn học Hà Nội - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------- PHÙNG THU HẰNG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG THƠ HUY CẬN Chuyên ngành: Lý Luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Khánh Thành Hà Nội - 2014 2 LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Trần Khánh Thành - người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn- Đại học Quốc Gia Hà Nội đã giúp em trang bị tri thức, tạo môi trường điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập. Xin cám ơn phòng Sau đại học, thư viện trường ĐH KHXH &NV- Đại học Quốc Gia Hà Nội đã giúp đỡ, hướng dẫn, cung cấp tư liệu cho em. Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã hỗ trợ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Phùng Thu Hằng 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực. Luận văn này chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu lời cam đoan trên là sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Phùng Thu Hằng 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 2 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................... 7 3. Mục đích và nhiệm vụ ........................................................................................ 5 4. Phạm vi khảo sát, đối tượng nghiên cứu ......................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................10 6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................... 6 7. Cấu trúc của luận văn. ........................................................................................ 7 NỘI DUNG ................................................................................................................... 8 CHƢƠNG 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA HUY CẬN VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI .......................................................... 8 1.1.Hành trình sáng tạo của Huy Cận ................................................................... 8 1.1.1. Trước Cách mạng ..................................................................................... 8 1.1.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1975...................................13 1.1.3. Từ năm 1975 đến năm 2005 ................................................................19 1.2 . Quan niệm nghệ thuật về con người ..........................................................26 CHƢƠNG 2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG THƠ HUY CẬN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 .....35 2.1. Con người với nỗi buồn, sự cô đơn bế tắc .................................................37 2.2. Con người hướng về cõi mộng, trời xưa và thế giới tâm linh ................44 Chƣơng 3. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI TRONG THƠ HUY CẬN SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 .....................59 3.1 Con người lao động sáng tạo, xây dựng cuộc sống mới. .........................59 3.2. Con người đấu tranh, nhập cuộc cùng thời đại .........................................65 KẾT LUẬN ................................................................................................................85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................88 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Huy Cận (1919- 2005) là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới, với tập thơ nổi tiếng Lửa thiêng (1940), ông đã góp phần tạo nên tiếng nói đa dạng phong phú của một thời đại trong thi ca. Sau Cách mạng, Huy Cận tiếp tục cho ra đời nhiều tập thơ có giá trị như Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967), Những năm sáu mươi (1968), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984). Đánh giá cao những thành tựu thơ ca của Huy Cận, các tác giả biên soạn sách đã đưa một số bài thơ tiêu biểu của Huy Cận đã được đưa vào chương trình Ngữ văn ở các bậc phổ thông cơ sở và phổ thông trung học. 1.2. Nghiên cứu một tác giả lớn, có phong cách nghệ thuật độc đáo như Huy Cận trước hết là khám phá một thế giới nghệ thuật phong phú hấp dẫn và sau đó là ghi nhận những đóng góp của ông trên hành trình thơ Việt Nam hiện đại. Đến với thế giới nghệ thuât thơ Huy Cận, người nghiên cứu phải khám phá thế giới tư tưởng - tình cảm của nhà thơ qua quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới , qua cách cảm thụ và tổ chức không gian - thời gian nghệ thuật, qua cách sử dụng thể loại, kết cấu và ngôn từ... Từ những vấn đề cơ bản đó nhằm xác định, phong cách nghệ thuật của nhà thơ với tư cách là một chính thể nghệ thuật độc đáo. Và một trong những vấn đề quan trọng nhất trong thế giới thơ Huy Cận là quan niệm nghệ thuật về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố cơ bản nhất, then chốt nhất của một chỉnh thể nghệ thuật chi phối toàn bộ tính độc đáo và hệ thống nghệ thuật của chỉnh thể ấy. Khi quan niệm nghệ thuật về con người thay đổi thì nó sẽ kéo theo sự thay đổi của toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật. Cho nên khi nghiên cứu tác phẩm chúng 6 ta phải nghiên cứu quan niệm nghệ thuật con người trong tác phẩm đó để khám phá phong cách nghệ thuật của nhà thơ. 1.3. Với khuôn khổ một luận văn và với khả năng của một giáo viên phổ thông, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ của Huy Cận một mặt là để hiểu thêm về tư tưởng nghệ thuật đặc sắc của tác giả, mặt khác để hiểu cách cảm nhận, cách cắt nghĩa của nhà thơ về con người và cuộc đời trong các tác phẩm thơ được giảng dạy trong trường. 2. Lịch sử vấn đề Huy Cận đã đi qua một chặng đường thơ dài hơn sáu thập kỷ. Thời kỳ nào thơ Huy Cận cũng thu hút được sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu và đông đảo bạn đọc. Trong gần bảy thập kỷ qua đã có hàng trăm bài tiểu luận, chuyên luận viết về thơ Huy Cận từ nhiều góc độ khác nhau. Các nhà thơ, các nhà phê bình nghiên cứu văn học như Xuân Diệu, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Trinh Đường, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Xuân Nam, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Long, Ngô Quân Miện, Vũ Quần Phương, Đỗ Lai Thuý, Bế Kiến Quốc, Trần Mạnh Hảo..., đều có những bài tiểu luận sâu sắc về Huy Cận. Các nhà thơ, các nhà nghiên cứu đều trân trọng những đóng góp của Huy Cận trên cả hai chặng đường thơ, trước và sau Cách mạng. Nhiều ý kiến đã lý giải được quá trình vận động cảm hứng sáng tạo của Huy Cận qua các tập thơ, phác thảo được những đặc điểm cơ bản phong cách thơ Huy Cận như tình yêu sự số ng, nỗi khắc khoải không gian, giọng điệu trầm lắng, giàu chất suy tưởng, bản sắc dân tộc đậm nét, phong vị Đường thi... Đáng chú ý nhất là tập tiểu luận Thế giới thơ Huy Cận của Xuân Diệu. Tập sách được in năm 1987, khi nhà thơ Xuân Diệu đã về nơi yên tịnh nhưng tình Huy Cận là một trong những tác giả thu hút được rất nhiều sự chú ý mạnh mẽ 7 của giới nghiên cứu, phê bình, sáng tác cũng như công chúng yêu văn học trong và ngoài nước. Trong lời giới thiệu tập thơ Lửa thiêng (1940), Xuân Diệu đã chỉ ra nét độc đáo nhất của Huy Cận khả năng cảm nghe tinh tế những âm vang của đất trời và lòng người. Nhờ thế Huy Cận đã cảm được nỗi buồn vũ trụ và nỗi sầu nhân gian. Sự cảm nghe tinh tế ấy cũng được nhà phê bình văn học Hoài Thanh phân tích trong Thi nhân Việt Nam: “Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. 36, tr. 127 Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng viết về thơ Huy Cận nhưng cũng dành nhiều câu chữ cho việc đánh giá Lửa thiêng. Ông nhận xét Lửa thiêng có phần khắt khe hơn. Ông nhận xét thơ tả cảnh của Huy Cận vẫn còn mang nét chung “cái cảm giác loài người từ thiên cổ mà thi nhân bao lần ca ngợi. Huy Cận nghệ sĩ ở chỗ đó nhưng cũng thiếu cái đặc sắc ở chỗ đó; Vũ Ngọc Phan cũng cho rằng thơ tả tình của Huy Cận không có những câu “nồng nàn, tha thiết, nóng bỏng như thơ Xuân Diệu”, “không nhớ nhung đắm đuối như thơ Lưu Trọng Lư”, lời tình tự của Huy Cận “rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật không phải những lời tha thiết tự tâm can” Nhà phê bình văn học Hà Minh Đức cũng có rất nhiều bài viết về tác giả Huy Cận nhưng ông cũng dành nhiều thời gian để nghiên cứu Ngọn lửa thiêng trong đời và trong thơ. Ông cho rằng “ Thơ Huy Cận buồn, căn bệnh tinh thần của một thế hệ không dễ thay đổi; nhưng nỗi buồn của Lửa thiêng không mang nhiều nỗi riêng tư, không gắn với dục vọng, đam mê để rồi chán chường tuyệt vọng. Vẫn có một mạch tình cảm trong trẻo, thiết tha gắn bó ân cần với cuộc sống và nói như cách nói của tác giả sau này, đó là tâm trạng yêu đời nên đau đời” (Một thời đại trong thi ca (Nxb Khoa học xã hội, HN, 1997). 8 Ngoài ra người viết còn nhận thấy rất nhiều các bài nghiên cứu, đánh giá cuộc đời, sự nghiệp hay hồi ức và kỉ niệm về Huy Cận – một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, sau khi ông qua đời (2005). Đó là các bài báo của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Mai Quốc Liên, Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo.... Người tập trung nghiên cứu nhiều về Huy Cận là Trần Khánh Thành. Từ năm 2002 ông cho ra đời chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận (Nxb Văn học, HN). Đây là một công trình nghiên cứu công phu những tác phẩm từ tập Lửa thiêng đến những tập thơ sáng tác sau Cách mạng tháng Tám. Dưới góc độ thi pháp học, ông phân tích quan niệm nghệ thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các phương thức biểu hiện và cái tôi trữ tình với nhiều đối cực trong thơ Huy Cận. Tác giả đã mô tả và chứng minh cái tôi trữ tình luôn hài hòa và vận động giữa nhiều đối cực xuyên suốt, so sánh với giai đoạn sáng tác thơ là tìm đến cái đẹp hài hòa giữa cuộc đời và vũ trụ, giữa cuộc đời riêng và cuộc đời chung, giữa cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực, giữa cảm xúc tươi tắn và tầm cao trí tuệ. Chúng tôi kế thừa được khá nhiều luận điểm từ công trình này 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn này được viết ra nhằm khẳng định những đóng góp của Huy Cận thông qua thực tiễn sáng tạo. Mặt khác nhằm khẳng định vị trí của Huy Cận trong tiến trình văn học Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Toàn bộ các sáng tác của Huy Cận đặc biệt là các tập thơ được sáng tác trong hơn nửa thế kỷ từ Lửa thiêng đến Hạt lại gieo Luận văn tập trung nghiên cứu những quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Huy Cận thông qua việc khảo sát thực tiễn sáng tạo thơ ca của ông 9 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu với đề tài đã lựa chọn chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: 5.1. Phương pháp so sánh văn học Phương pháp này nhằm đối chiếu các sáng tác của ông trong từng giai đoạn khác nhau và với các tác giả khác cùng thời. 5.2. Phương pháp thống kê Phương pháp này nhằm thống kê khảo sát những đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong thơ Huy Cận. 5.3. Phương pháp loại hình Phương pháp này nhằm giúp nghiên cứu, khảo sát các tác phẩm theo đúng đặc trưng loại hình của tác phẩm, loại hình tác giả 5.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học Giải mã các yếu tố hình thức trong quan hệ với nội dung, tìm ra quy luật tạo hình thức trong tác phẩm, chỉ ra sự thay đối quan niệm nghệ thuật dẫn đến sự thay đổi quan niệm về phương thức thể hiện. 6. Đóng góp của luận văn 6.1 Về mặt lý luận Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống quan niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác của Huy Cận trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó, nó cho thấy tầm quan trọng của quan niệm nghệ thuật về con người - con người đóng vai trò trung tâm, không thể vắng mặt trong tác phẩm nghệ thuật. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con người, ta sẽ hiểu rõ ý đồ mà nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm và thông qua tác phẩm ta biết được tư tưởng nhà văn. 10 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn các sáng tác của Huy Cận. Nó là tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy chuyên đề văn học Việt Nam trong các trường trung học, cao đẳng và đại học. 7. Cấu trúc của luận văn. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Hành trình sáng tạo của Huy Cận và quan niệm nghệ thuật về con người Chương 2: Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Chương 3: Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 11 NỘI DUNG Chƣơng 1 HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA HUY CẬN VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI 1.1.Hành trình sáng tạo của Huy Cận 1.1.1. Trước Cách mạng Huy Cận đến với thi đàn lần đầu tiên vào năm 1938 bằng bài thơ Chiều xưa đăng trên báo Ngày nay. Lúc bấy giờ tên tuổi của chàng thanh niên Huy Cận còn khá mới mẻ, lạ lẫm, chưa được mong chờ đón nhận như người bạn tri kỉ của ông là Xuân Diệu. Thế nhưng sự xuất hiện của Chiều xưa bên cạnh bài thơ Cảm xúc của tác giả đã thành danh lại mang đến cho người đọc sự sửng sốt, bất ngờ. Với sự đón nhận nồng nhiệt của khán giả và đặc biệt là sự trân trọng của bạn thơ Xuân Diệu mà hai năm sau, tức mùa hè năm 1940 Huy Cận cho ra mắt tập thơ đầu Lửa thiêng mà âm hưởng của nó đã lan tỏa “một thời đại trong thi ca”. Với Lửa thiêng, Huy Cận đã “nghe”, đã “cảm” được mạch “sầu vũ trụ” và nỗi buồn nhân gian; Đời mất về đâu, hới tháng năm? Xuân không mọc nữa với trăng rằm! Chẳng bao lâu ngủ sầu trong đất, Vĩnh viễn mùa đông lạnh chỗ nằm (Buồn) Nhưng đó là nỗi buồn không mang tính riêng tư, không gắn với chán chường, tuyệt vọng. Vẫn có một tình cảm trong trẻo, thiết tha gắn bó ân cần với cuộc sống và đó là một tâm trạng “yêu đời nên đau đời”. Nó có cái gốc từ lòng yêu đời, từ tình yêu quê hương đất nước. Sâu thẳm trong tâm hồn thi sĩ vẫn là cảm xúc yêu đương, yêu đời của tuổi trẻ. 12 Lửa thiêng trước hết là một tập thơ của tuổi trẻ. Hoài Thanh đã cảm nhận rất tinh tế khi thấy rằng dưới những câu thơ, bài thơ có vẻ già, nhà phê bình nhận ra đó là “thơ của tuổi hai mươi”. Trong Lủa thiêng có một mảng thơ gần như bao trùm được hết cảm xúc một thời hoa niên đẹp đẽ, trong trẻo với tuổi trẻ lãng mạn, đầy mộng mơ và cũng đầy đau khổ, còn có cả hình ảnh khu vườn với chiếc lá thu, với những chàng học sinh đầy lãng mạn. Huy Cận, một “chàng thơ” hay “tủi nắng, sầu mưa” nhưng trong tình yêu lại hết sức lãng mạn thiết tha. Cảm xúc trong ngôn từ tình yêu đôi khi rất trừu tượng qua hồn - “nhân vật trữ tình” Hồn hay người? Đời thực hay cõi mơ? Thế giới mộng và thực dường như hòa quyện lạ lùng. Sau nhiều năm trôi qua, các nhà nghiên cứu càng thấy ánh sáng kì diệu của Lửa thiêng. Tuy bị ràng buộc bởi cách nhìn có phần khắt khe của một giai đoạn lịch sử nhưng các nhà nghiên cứu đều chỉ ra lòng yêu đời, tình yêu tiếng Việt và vẻ đẹp trong trẻo của hồn thơ Huy Cận. Từ năm 1985 đến nay, Lửa thiêng càng được khẳng định và khai thác từ nhiều phương diện khác nhau. Trong chuyên luận Thơ mới, những bước thăng trầm Lê Đình Kỵ đặc biệt nhấn mạnh nguồn mạch truyền thống chảy dào dạt trong những vần thơ Lửa thiêng. Còn nhà thơ Trinh Đường trong tiểu luận Huy Cận và Lửa thiêng đã cảm nhận sâu sắc nỗi buồn thương của Huy Cận về quê hương đất nước, về kiếp người đau khổ và lòng yêu đời tha thiết của thi nhân. Đỗ Lai Thúy trong tiểu luận Huy Cận và sự khắc khoải không gian đã chỉ ra được những đặc điểm cơ bản của không gian nghệ thuật Lửa thiêng. Đó là không gian “ hóa thân của thiên đường, của sự hòa đồng nguyên thủy thủa xưa”. Nó không hề khép kín mà mở về phía trần thế để có sự tương giao giữa con người và không gian. Trong tập tiểu luận Một thời đại trong thi ca Hà Minh Đức đã có những kiến giải mới mẻ về Ngọn lửa thiêng trong đời và trong thơ của Huy Cận. Ông cho rằng thế giới tâm linh kết thành ngọn lửa thiêng trong thơ Huy Cận. 13 Đó là thế giới tâm linh soi rọi như ánh sáng, như niềm tin vào lương tri của con người. Nhờ có nguồn sáng ấy mà Huy Cận nhìn thấy được bóng dáng xưa của ngọn nguồn dân tộc, cảm nhận được nhịp sầu vũ trụ và nỗi buồn nhân gian và nhận ra bản thể của con người trong sự sống của thiên nhiên. Huy Cận bước tới thi đàn bằng một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Với tập thơ đầu tay này, Huy Cận đã có những nỗi buồn nghiệp dĩ, nhưng thực ra nỗi buồn ấy có nguyên cớ từ đặc điểm tâm hồn, từ đời sống xã hội. Nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn thời cuộc, nỗi buồn của người dân mất tự do, của đất nước bị mất độc lập chủ quyền. Nỗi buồn ấy như là hệ quả tất yếu khi nhà thơ ý thức sâu sắc về cảnh ngộ đất nước và thân phận của con người. Nhà thơ buồn vì kiếp người nô lệ đau khổ cũng chỉ vì nhà thơ rất thiết tha với cuộc sống tự do và niềm hạnh phúc của con người. Tình cảm yêu đời của thi nhân biểu hiện ngược thành nỗi đau quằn quại. Bởi thế, nỗi buồn ấy không chán chường bi lụy mà trong trẻo, dễ cảm thông. Tình cảm yêu đời của tác giả không chi biểu hiện qua nỗi buồn mà còn thể hiện qua niềm vui. Trong tâm hồn Huy Cận có một mảng rất hồn nhiên, tươi trẻ thường hướng về những gì non tơ, trong trắng, thơ mộng. Nhờ thế Huy Cận viết thành công về tuổi học trò, tuổi mười bốn, mười lăm của thời áo trắng. Với đôi mắt trong trẻo và tâm hồn nhạy cảm, Huy Cận đã nhập vào thế giới hồn nhiên thơ mộng. Nhà thơ tinh tế ghi lại tâm trạng náo nức, cái vẻ ngập ngừng, rụt rè thật đáng yêu của “những chàng trai mười lăm tuổi vào trường, quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ”. Khi viết về tuổi thơ hay hạnh phúc tình yêu, Huy Cận đều tạo dựng một thế giới thơ mộng. Đó là một không gian mang tính thẩm mĩ, là bầu khí quyển đặc biệt để những tâm hồn giao hòa, giao cảm với nhau. Trong thế giới ấy, những tâm hồn đã tìm được hạnh phúc thần tiên. Để rồi từ cảnh thực, nhà thơ đã ảo hóa để biến thành cõi mộng. Sợi buồn dệt thành thế giới chiếc võng tâm trạng, chiếc quạt mang gió mát của tình yêu pha lẫn ngậm ngùi nuối 14 tiếc. Không phải Huy Cận tìm thấy lòng mình trong cảnh mà lòng thi nhân đã hóa cảnh để chờ đón những ngọn gió trong đời, nhà thơ tự phơi trải lòng mình để tìm miền đồng cảm. Vì thế trong Lửa thiêng không gian nội tâm tương thông với không gian ngoại cảnh, tạo nên sự hòa quyện giữa thực và ảo, ngoại cảnh và nội tâm. Huy Cận luôn mang nỗi khắc khoải không gian. Chủ thể trữ tình xuất hiện giữa không gian trần thế, bị đóng khung trong những giới hạn chật chội nên luôn khát vọng giao tiếp, khát vọng chiếm lĩnh không gian trên cao. Trong hành trình chiếm lĩnh không gian ấy Huy Cận cảm nhận không gian rộng lớn trên nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều lớp. Nhưng cũng trong hành trình ấy tâm hồn Huy Cận chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Nhà thơ vừa khao khát cái xa xôi lại vừa sợ cái xa xôi. Muốn thoát khỏi cái nhỏ hẹp nhưng khi đối diện với cái rộng lớn vô hạn lại cảm thấy cô đơn, bé nhỏ. Trong nhiều bài thơ của tập thơ này không gian vĩ mô và vi mô bị phân hóa, trở thành tương phản. Lúc ấy nhà thơ tự nhận ra cái tôi cô đơn của mình trước vũ trụ bao la. Cảm thức ấy khác với thi sĩ xưa, bởi Huy Cận là nhà thơ mới, một nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn. Bằng năng lực cảm nhận tinh tế và khả năng phân tích sắc sảo, Xuân Diệu đã nói lên được những đặc điểm cơ bản của hồn thơ Huy Cận, một hồn thơ “ mang linh hồn trời đất” và mang nặng tình đời, tình người, tình yêu sự sống. Trong thi nhân Việt Nam, vị trí của Huy Cận được Hoài Thanh – Hoài Chân khẳng định: Trong số 46 nhà thơ được đưa và tuyển tập này, Huy Cận có số lượng bài thơ được tuyển vào loại nhiều nhất. Ở phần giới thiệu nhà phê bình Hoài Thanh đã nói lên khả năng cảm nghe tinh tế của nhà thơ Huy Cận : “ Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Thơ Huy Cận “nhiều tình mà ít chuyện”, ông có khả năng tìm ra thơ trong 15 những chốn ta tưởng không còn thơ nữa. Từ những nhận xét xác đáng ấy, Hoài Thanh đã kịp thời ghi nhận một việc làm táo bạo của Huy Cận: “Tìm về những cảnh xưa, nơi bao nhiêu người đã sa lầy”. Với hướng đi ấy, Huy Cận “đã gợi dậy hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn nắm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. [36, tr 126 -127] Từ đó Huy Cận càng có khuynh hướng siêu thoát vào không gian vũ trụ xa vời. Điều này được thể hiện rất rõ qua tập thơ Vũ trụ ca. Tập thơ này được in rải rác trên nhiều tờ báo, đến nay vẫn chưa in thành sách. Trong Vũ trụ ca không gian trở thành nơi trú ngụ của một linh hồn trong trẻo. Cái cảm giác chật chội trong Lửa thiêng nhường chỗ cho cảm giác thoải mái bay lượn trong không gian rộng lớn của Vũ trụ ca. Trong tập thơ này hầu hết các bài thơ đều thể hiện niềm vui của con người và đất trời. Niềm vui của con người là là niềm vui nhờ nguôi quên cuộc đời, là niềm vui của một người có ảo tưởng đã vượt lên ràng buộc xã hội được phiêu diêu trong cõi vô định, được tự do tuyệt đối về tinh thần. Quan niệm về con người tự do vượt thoát trong Vũ trụ ca đã thể hiện thái độ phủ nhận hiện thực và thể hiện niềm khát vọng vươn tới tự do nhưng đây là quan niệm mang đậm triết lí Đạo gia mà mang tính chất ảo tưởng. Chiếc võng thơ Huy Cận nếu một đầu mang nặng tình người, tình đời thì đầu kia mang nặng một tấm lòng vũ trụ. Đây là quan niệm của nhà thơ, “Thơ như chiếc võng ta treo – Đầu theo vũ trụ, đầu theo loài người” và cũng là những gì mà các nhà nghiên cứu nhận thấy trong thơ ông. Ông quan niệm: Con người sống trong vũ trụ và sống trong xã hội. Sống với vũ trụ và sống với xã hội. Một thành viên của vũ trụ và một thành viên của loài người. Mỗi con người trong bản thân mình sống cả quy luật của vũ trụ và quy luật của loài người. Hai cực của cuộc sống, hai cực của tư tưởng, hai cực của nghệ thuật, của thơ 16 Bên cạnh hai tập thơ Lửa thiêng và Vũ trụ ca năm 1942 Huy Cận còn có tập văn xuôi triết lý Kinh cầu tự. Kinh cầu tự là lời cầu sự sống cho con người và vạn vật. Chính tình yêu thiết tha sự sống, chính tình yêu đời đã kết thành những lời cầu nguyện của nhà thơ. Những lời nguyện cầu, những câu triết lý của Huy Cận mang mầu sắc tôn giáo nhưng lại chứa đựng một quan điểm nhân sinh tích cực. Huy Cận luôn hướng về cuộc đời, hướng về sự sống, nhà thơ cắt nghĩa cội nguồn của vạn vật từ sự sống. Nhà thơ nhìn mọi quan hệ tình cảm từ sự sống và tâm trạng của con người như là những biến thái của sự sống mà thôi. Quan niệm đó đã tạo thành kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo chi phối cách nhìn, cách cảm và thế giới nghệ thuật thơ Huy Cận. Qua tác phẩm này, người đọc càng thấm thía hơn những quan niệm của tác giả. Muốn siêu thoát, muốn vẫy vùng trong biển trời rộng lớn kia nhưng thực ra trong sâu thẳm tác giả luôn hướng về cuộc đời, hướng về sự sống về con người. Con người mới là trung tâm của vạn vật. Điều này đã hình thành quan niệm độc đáo về con người thể hiện trong thơ ông. 1.1.2. Từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1975 Sau khi Lửa Thiêng ra đời một năm, Huy Cận tìm đến với Cách mạng (hoạt động trong mặt trận Việt Minh). Chính trong thời gian này, ánh sáng của lý tưởng Cộng sản đã hiện hữu rõ ràng hơn trong hồn thơ mang mang thiên cổ sầu ấy. Và sự đổi đời tháng Tám có ý nghĩa như một bước ngoặt lịch sử, đưa trang thơ Huy Cận vượt khỏi những ám ảnh, những giới hạn chật hẹp do mặc cảm nặng nề về thân phận nô lệ tạo nên. Như đa số các nhà thơ Mới, Huy Cận rưng rưng chân thành trở về hòa nhập với cuộc sống. Quan điểm nghệ thuật, lập trường tư tưởng đã thay đổi căn bản; nhưng như thế vẫn chưa thể có thơ hay. Cần một khoảng thời gian nhất định - tùy tình trạng tâm tưởng của mỗi nghệ sĩ - để những rung động ban đầu được nung, được nén lại thành cảm xúc nghệ thuật. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều 17 cần được thử thách qua thực tế. Thơ Huy Cận sau 1945 thể hiện rõ quá trình đấu tranh tự khẳng định sự góp mặt của một nhà thơ lớp trước, vào cuộc sống mới. Phải mất hơn mười năm trăn trở, phấn đấu không ngừng tự vượt lên thoát khỏi ám ảnh cũ, hồn thơ Huy Cận mới hồi sinh và khởi sắc. Vốn quen quanh quẩn sống bằng ảo vọng, thích phiêu diêu vô định lánh đời trong vũ trụ, giờ bừng mắt giữa cuộc đời thực; vui đấy, nhưng không khỏi ngỡ ngàng, mặc cảm. Ngập ngừng, dè dặt khoác ba lô lên vai, Huy Cận đi vào kháng chiến. Hồn thơ ông thắm hồng da thịt trở lại cùng với sự hồi sinh vĩ đại của cả dân tộc. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Huy Cận không xuất hiện trên thi đàn nhưng sự im lặng này chính là khoảng lặng cho những tìm tòi, suy tư, trải nghiệm để đến với nền nghệ thuật cách mạng trọn vẹn hơn. Vì thế đến tận năm 1958, 1960, 1963 Huy Cận đã cho ra đời một mùa thơ mới đầy sảng khoái với Trời mỗi ngày lại sáng. Thế giới thơ Huy Cận trước kia hầu như thiếu hơi người, vắng những sắc màu âm thanh bình thường của sự sống, nên hoang sơ cô tịch. Chỉ còn một mình nhà thơ rợn ngợp giữa không gian, chìm khuất trong nỗi mang mang thiên cổ sầu. Giờ đây, nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào. Vẫn còn đó năng lực cảm nghe tinh tế mạch đời bền bỉ, vẫn không nguôi niềm khắc khoải không gian, nhưng giữa con người với thiên nhiên đã có mối giao hòa kỳ diệu: Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời. Ở những tập thơ này tác giả nói nhiều đến những con người, những số phận cụ thể đang lớn lên trong cuộc đời chung. Những tập thơ này cũng chỉ ra dấu hiệu mới mẻ của Huy Cận trên chặng đường thơ cách mạng. Đó là niềm tin yêu mạnh vào cuộc sống mới, là thái độ khẳng định chế độ mới, đó là sự phong phú của chất liệu cuộc sống và những suy nghĩ nghiêm túc về cuộc đời. 18 Huy Cận phát huy sở trường bằng việc phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú trong đời thường. Dường như mọi biểu hiện của cuộc sống bình dị - qua cái nhìn của nhà thơ - đều nên nhạc, nên thơ. Ông say sưa ngợi ca một khu nhà mới, đoàn thuyền đánh cá, những ngày hội mùa xuân,...Con người mới trong lao động xây dựng đất nước thành hình tượng thật khỏe khoắn, lạc quan, chan chứa nghĩa tình. Thơ Huy Cận trước và sau Cách mạng bộc lộ rõ sự thay đổi trong quan niệm về con người và cuộc đời. Nếu như trước Cách Mạng, con người trong thơ ông là những người cô đơn, luôn đau thương, khao khát tình yêu, con người đi vào cõi mộng bằng tấm lòng, con người đánh mất ý niệm về không gian, thời gian, bơ vơ lạc lõng, khát khao tìm sự hòa hợp nơi cõi mộng thì đến sau Cách mạng con người đã có sự biến chuyển lớn lao. Đó là những con người tìm thấy niềm vui, sự hòa hợp trong xã hội, con người gắn bó với cuộc sống lao động mới, một con người tự do, hạnh phúc và tin yêu. Chính các mối quan hệ xã hội đã tạo nên sự chuyển hóa từ con người cá nhân đến con người tập thể, từ con người cô đơn đến con người hòa hợp tình yêu. Hình tượng con người lao động trở thành hình tượng trung tâm trong các bài thơ của Huy Cận viết về cuộc sống mới, con người mới. Họ đang vươn lên làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, tự khẳng định vị trí chủ nhân của mình bằng lao động sáng tạo. Họ đến với cuộc đời bằng lời ca tiếng nhạc. Tiếng hát không chỉ biểu hiện niềm vui của con người mà còn biểu hiện sự thống nhất tình cảm con người trong cộng đồng xã hội tươi đẹp, nhân ái. Trong xã hội mới con người không tồn tại riêng lẻ, tách biệt mà gắn kết với cộng đồng, tìm thấy sức mạnh của mình trong tập thể. Sự hài hòa giữa cuộc đời riêng và cuộc đời chung là vẻ đẹp của xã hội mới. Nhà thơ Huy Cận luôn khát khao hướng tới vẻ đẹp hài hòa. Trước đây nhà thơ không tìm được sự hòa hợp của con người trong đời đành phải tìm sự hòa hợp của con người trong cõi mộng, trong thế giới thiên 19 nhiên tươi thắm huy hoàng. Giờ đây, Huy Cận đã tìm thấy vẻ đẹp hài hòa trong đời, cảm nhận sâu sắc sự hòa hợp giữa người với người trong xã hội. Chính nhờ hút nhụy từ đời sống xanh tươi, hồn thơ Huy Cận có được nguồn sinh lực mới. Cuộc sống mới giúp nhà thơ nhận ra giá trị của lao động và vẻ đẹp chân chính của người lao động. Thiên nhiên tạo vật không còn đối lập với con người mà cùng con người hợp thành bức tranh hoành tráng chói chang, rạng rỡ (Ðoàn thuyền đánh cá). Thời kỳ này đánh dấu một bước chuyển biến mới của hồn thơ Huy Cận. Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn, tự vượt lên để khẳng định sự góp mặt vào cuộc đời mới. Với ý nghĩa đó, thơ Huy Cận còn củng cố nhận thức về cuộc đổi đời lịch sử và bồi đắp những tình cảm trong sáng, lành mạnh. Sau giai đoạn kháng chiến chống Pháp, cả dân tộc lại bước vào thời kì chống Mỹ gian khổ. Trong giai đoạn quyết liệt và hào hùng đó, Huy Cận đã làm tròn trách nhiệm của một người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Với các tập thơ: Những năm sáu mươi ( 1968); Chiến trường gần đến chiến trường xa ( 1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), tác giả đã khẳng định được tầm vóc của dân tộc ta trên con đường đấu tranh giành lại độc lập, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta, khẳng định tầm vóc lớn lao của dân tộc ta trên tuyến đầu chống Mỹ. Ngay sau khi tập thơ Những năm sáu mươi vừa mới ra mắt độc giả, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nhìn thấy những tìm tòi mới mẻ của Huy Cận về sự sống bất diệt giữa chiến tranh và cội nguồn văn hóa dân tộc, về tình quê đằm thắm mặn mà. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong bài viết Thơ Huy Cận trong những năm chống Mỹ đã ghi nhận hướng phát triển mới trong thơ Huy Cận đó là Huy Cận luôn có ý thức phát hiện ở từng hiện tượng xã hội ý nghĩa chính trị và chiều sâu triết lý. Qua thời gian nghĩ về chân lý, qua hình ảnh dòng sông liên tưởng đến sức sống dân tộc, những liên tưởng ấy đều có căn cứ và nội dung triết lý. Nguyễn Văn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan