Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết hồ biểu chánh trước ...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết hồ biểu chánh trước 1945

.PDF
146
283
119

Mô tả:

1 Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: Tiểu thuyết Việt Nam trong tiến trình hiện đại 10 hóa văn học dân tộc 1900-1945 1.1. Vấn đề hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX 10 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam 1900-1945 trong tiến trình hiện đại 16 hóa văn học dân tộc 1.3. Đóng góp của Hồ Biểu Chánh đối với nền tiểu thuyết Việt 32 Nam hiện đại Chƣơng 2: Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết Hồ 38 Biểu Chánh trƣớc 1945 về phƣơng diện nội dung 2.1. Hệ đề tài-chủ đề 38 2.1. Cảm hứng sáng tạo 44 2.3. Đặc điểm, tính cách nhân vật 56 Chƣơng 3: Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết Hồ 73 Biểu Chánh trƣớc 1945 về phƣơng diện nghệ thuật 3.1. Kết cấu 73 3.2. Xây dựng nhân vật 83 3.3. Ngôn ngữ 97 3.4. Mô phỏng tác phẩm văn học nước ngoài 113 Kết luận TÀI LIỆU THAM KHẢO Phụ lục 1. ảnh chân dung Hồ Biểu Chánh 2. Một số ký họa về Sài Gòn đầu thế kỷ XX, thời kỳ sống của các nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 3. Danh mục tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh 129 131 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ. Ông sáng tác trên nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, thơ, truyện thơ, ký…, trong đó, tiểu thuyết là thể loại mà nhà văn đạt được nhiều thành công hơn cả. Hồ Biểu Chánh được xem là một trong những người mở đường và có những đóng góp nhất định cho sự hình thành nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đã có nhiều công trình nghiên cứu với những cách tiếp cận riêng nhằm khám phá các giá trị của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Thế nhưng, việc làm này vẫn chưa thể hoàn tất và còn có nhiều hướng tìm hiểu khác nhau. Chọn nghiên cứu đề tài Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trước 1945, chúng tôi muốn góp phần vào việc đánh giá toàn diện hơn những cống hiến của nhà văn đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam. 1.2. Trong mấy thập kỷ gần đây, sự nghiệp văn học của Hồ Biểu Chánh được giảng dạy ở các trường trung học phổ thông, cao đẳng, đại học. Nhiều tiểu thuyết của ông được các nhà đạo diễn dựng thành phim truyền hình (Ngọn cỏ gió đùa, Con nhà nghèo, Nợ đời, Cay đắng mùi đời, Chúa tàu Kim Quy, Đại nghĩa diệt thân), được nhiều nhà xuất bản tổ chức in lại (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn học, Nhà xuất bản Phụ nữ…). Thậm chí có một website riêng cho nhà văn (http://www.hobieuchanh.com) được lập nên bởi các trí thức Việt kiều (Phan Tấn Tài, Trang Quan Sen…). Luận văn này được hoàn thành có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh, sinh viên, độc giả khi tìm hiểu văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX nói chung và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nói riêng. 1.3. Năm 2005, khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, đã tiến hành công trình Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ với mục đích khảo sát, sưu tầm, chỉnh lý, nghiên cứu toàn bộ tư liệu về văn học 3 quốc ngữ Nam Bộ, bao gồm cả thơ, văn xuôi, lý luận phê bình… để tiến tới biên soạn một bộ Tổng tập văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945. Với luận văn này, chúng tôi hy vọng góp một phần nhất định vào công việc rất ý nghĩa nói trên. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Thời kỳ trước năm 1945 Tiểu thuyết chữ quốc ngữ xuất hiện trước tiên ở Nam Bộ ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX và phát triển khá mạnh vào những năm đầu thế kỷ XX nhưng chưa được giới nghiên cứu văn học quan tâm nhiều. Thời kỳ này có một số công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam đáng chú ý: Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, Ba mươi năm văn học (1941) của Mộc Khuê, Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan, Việt Nam văn học sử yếu (1944) của Dương Quảng Hàm. Trong các công trình trên, chỉ có hai tác giả bàn đến Hồ Biểu Chánh là Thiếu Sơn và Vũ Ngọc Phan. Thiếu Sơn trong Phê bình và cảo luận với lối viết phê bình truyền thống và cách phân tích tổng hợp, khái quát của văn chính luận phương Tây đã kịp thời biểu dương, khích lệ những thành công cũng như những cái mới về tư tưởng và nghệ thuật của một số tác gia đầu thế kỷ. Thiếu Sơn đã có một thái độ trân trọng đặc biệt và đề cao công trạng của Hồ Biểu Chánh đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Ông có những nhận xét tinh tế về cách xây dựng nhân vật của Hồ Biểu Chánh. Thiếu Sơn cho rằng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thuộc phái “chiết trung”, phù hợp với thị hiếu của nhiều loại độc giả trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc. Theo ông, Hồ Biểu Chánh là người “có công với văn học nước nhà, nói riêng về lối văn tiểu thuyết”. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã khái quát, phân loại một đội ngũ sáng tác và một hệ thống tác phẩm phức tạp của bộ phận văn học Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Với cách viết sắc sảo, khen chê có căn cứ, có lý, có tình khi đi sâu phân tích tác 4 giả và tác phẩm, Vũ Ngọc Phan đã có những nhận xét chân xác về nghệ thuật viết tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Theo ông, “tiểu thuyết của họ Hồ thiên về tả việc và lời văn mạnh mẽ, giản dị, nhiều chỗ như lời nói thường… là những tiểu thuyết đầy động tác, việc nọ việc kia dồn dập, gây cho người đọc những cảm tưởng kỳ thú” [128, 367]. Ông đi sâu phân tích tác phẩm Cha con nghĩa nặng để nhận xét về văn, về cách dùng việc, về sự quan sát và lối kết cấu trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Vũ Ngọc Phan rút ra kết luận: “Nếu đã đọc các tiểu thuyết của các nhà văn đi tiên phong, từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận rằng từ Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu đến bước vững vàng” [128, 374]. Bên cạnh hai công trình nói trên, thời kỳ này cũng có một số bài viết nhận xét về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đăng trên các báo và tạp chí. Phạm Minh Kiên viết “Giải chỗ tưởng lầm” (1926) đăng trên Đông Pháp thời báo, số 468. Phan Khôi viết bài “Cái cười của con Rồng cháu Tiên, một cái cảm tưởng trong khi đọc Cay đắng mùi đời” (1931) đăng ở Phụ nữ Tân văn, số 84. Minh Quang viết “Bộ Tỉnh mộng của Hồ Biểu Chánh tiên sinh” (1931) in trên Lục tỉnh Tân văn, số 3916, 3918… Những bài viết này chỉ trình bày một số cảm nhận mang tính xã hội học về tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chưa đi sâu khám phá giá trị của tác phẩm. Các tác giả chủ yếu cho độc giả thấy sự quan tâm của công chúng đối với sáng tác của Hồ Biểu Chánh như sau: “Từ thành thị cho đến chốn thôn quê, từ già chí trẻ, nếu hỏi “Tiểu thuyết của ai là kiệt tác tả rõ thế thái nhơn tình?”. Tức thời họ đáp khảng khái rằng: Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh tiên sanh hay hơn cả” [3, 877]. 2.2. Thời kỳ từ 1945 đến 1975 Thời kỳ này, các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã trải qua sự kiểm nghiệm nhất định của thời gian. Các nhà nghiên cứu có nhiều điều kiện thuận lợi về mặt tư liệu nên đã viết nhiều công trình, chuyên khảo đi sâu khảo cứu về các tác giả văn học miền Nam nói chung và Hồ Biểu Chánh nói riêng. 5 Năm 1962, trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập IV, Nguyễn Đình Chú đã dành hẳn một chương để giới thiệu về Hồ Biểu Chánh. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một giáo trình giảng dạy ở đại học, Nguyễn Đình Chú mới chỉ đưa ra những nhận xét khá thận trọng và dè dặt về sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Năm 1965, Phạm Thế Ngũ cho xuất bản công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên. Ở tập III, phần Văn học Việt Nam hiện đại 18621945, ông dành hẳn chương V để viết về sự hình thành của tiểu thuyết mới, trong đó khi đánh giá về tiểu thuyết miền Nam, tác giả đi sâu nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh. Sau khi điểm qua nội dung một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phạm Thế Ngũ đi vào phân tích kỹ thuật viết tiểu thuyết của nhà văn. Theo ông, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có cốt truyện gay cấn, ly kỳ, hấp dẫn; cách thuật truyện chơn chất; câu văn giản dị, ngắn gọn. Phạm Thế Ngũ cho rằng tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã ghi lại được bức tranh xã hội đương thời và đi đến khẳng định Hồ Biểu Chánh là nhà văn đạo lý. Năm 1967, Thanh Lãng với Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Bùi Đức Tịnh với Văn học sử Việt Nam đã nhắc đến tác giả Hồ Biểu Chánh và đưa ra những nhận định có giá trị về sáng tác của nhà văn. Đặc biệt, tạp chí Văn, số 80, ngày 15/04/1967, đã dành hẳn một số đặc biệt viết về Hồ Biểu Chánh để đánh giá những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của tiểu thuyết quốc ngữ ở thời kỳ đầu phôi thai. Năm 1968, Huỳnh Phan Anh viết bài Ghi nhận về Hồ Biểu Chánh in trong Văn chương và kinh nghiệm hư vô đã khẳng định Hồ Biểu Chánh là nhà văn kể chuyện đời khá tiêu biểu trong số các cây bút viết tiểu thuyết ở Nam Bộ. Năm 1974, Nguyễn Khuê cho xuất bản công trình Chân dung Hồ Biểu Chánh. Đây là tập khảo cứu khá công phu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Biểu Chánh. Tác giả đi sâu phân tích những hoạt động báo chí, cũng như giới thiệu khá sâu sắc những công trình biên khảo, những tác phẩm thơ và tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Có thể nói, Chân dung Hồ Biểu Chánh là công trình đánh giá đóng góp của Hồ Biểu Chánh đối với văn học nước nhà một cách có hệ thống. Còn Bằng Giang trong Mảnh vụn văn học sử (1974) với lối 6 viết tìm tòi, nhặt nhạnh, cung cấp tư liệu đã đem đến cho độc giả một số nét cơ bản về quãng thời gian Hồ Biểu Chánh hoạt động cho Chính phủ Nam Kỳ tự trị và một “bí quyết” viết tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là để thoả mãn độc giả ở thôn quê rồi lần hồi ra thành thị và ngược lại. Cũng trong năm này, Phan Cự Đệ với công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại khi trình bày về những khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930 và những mầm mống đầu tiên của một nền tiểu thuyết mới đã dành nhiều trang nhận xét những mặt tích cực và chỉ ra một số hạn chế của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Phan Cự Đệ khẳng định tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những nét khá điển hình của hiện thực Nam Bộ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và khuynh hướng đạo lý giúp cho Hồ Biểu Chánh giữ được nhiều truyền thống tốt đẹp của tiểu thuyết Việt Nam cổ điển: giàu tính lý tưởng, giàu tinh thần dân chủ chống phong kiến. 2.3. Thời kỳ từ sau 1975 đến nay Năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng lợi đã đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, non sông thu về một mối, Nam Bắc sum họp một nhà. Các học giả có điều kiện nghiên cứu thuận lợi hơn trước, nguồn tư liệu cũng đầy đủ hơn. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục khám phá, đánh giá về những giá trị của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Trong Từ điển văn học (1983, 1984) gồm hai tập, các soạn giả chỉ trình bày duy nhất một mục từ về tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX là Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Huệ Chi đã tìm hiểu đóng góp của Hồ Biểu Chánh đối với sự hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại trên ba phương diện: nội dung đề tài, xây dựng nhân vật và kết cấu ngôn ngữ. Qua đó, tác giả kết luận Hồ Biểu Chánh đã góp phần chuẩn bị cho sự hình thành chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945. Hai tác giả Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng trong giáo trình Văn học Việt Nam 1900-1930 (1988) khẳng định Hồ Biểu Chánh là người viết tiểu thuyết nhiều nhất ở Việt Nam trước 1930. Hồ Biểu Chánh đã vượt các nhà 7 văn cùng thời về sự bề bộn của cuộc sống và sự đông đúc, đa dạng của thế giới nhân vật. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chịu ảnh hưởng của truyện thơ Nôm và tiểu thuyết Pháp, tiểu thuyết Trung Quốc. Trong sáng tác của ông nổi rõ con người và cảnh sắc Nam Kỳ, có ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói của đời thường, có những chỗ gặp gỡ với niềm tin của người đời vào quả báo, vào sự ở hiền gặp lành. Năm 1988, Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp trong sơ thảo Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX, sau khi khảo sát một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã đưa ra nhận xét khái quát: “Nói chung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có khuynh hướng luân lý, hầu hết các truyện của ông đều dẫn đến một kết cục có hậu, thiện bao giờ cũng thắng ác, nhằm mục đích răn đời. Ông lên án những kẻ giàu sang cậy thế lực ức hiếp người nghèo khổ, phụ tình bạc nghĩa, ca ngợi lòng thương người, sự rộng lượng, sự tu thân lập chí, sự hiếu hạnh, sự cải tà quy chánh của con người. Về văn chương ông dùng một lối văn bình dị, tự nhiên, có khi trơn tuột như lời nói thường, nhưng cũng có nhiều đoạn tả cảnh, tả người khá linh hoạt và khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật tinh tế và sắc sảo” [1, 128]. Cùng một hướng tiếp cận tiểu thuyết giống nhau, hai công trình Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945 (2001) do Vũ Tuấn Anh, Bích Thu chủ biên và Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Nguyễn Kim Anh chủ biên đã giới thiệu tóm tắt 13 tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền, Thầy thông ngôn, Ngọn cỏ gió đùa, Ai làm được, Chút phận linh đinh, Nhân tình ấm lạnh, Con nhà nghèo, Khóc thầm, Cha con nghĩa nặng, Tỉnh mộng, Vì nghĩa vì tình, Chúa tàu Kim Quy. Tuy vậy, những tóm tắt này đều có giá trị cao, vì ngoài việc bám sát nội dung, các tác giả còn đưa ra một số nhận xét, đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm. Đặc biệt, website htttp://hobieuchanh.com và công trình Hồ Biểu Chánh -Người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2006) do Trang Quan Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở biên soạn đã tập hợp những bài 8 viết khá súc tích của các nhà văn, học giả viết về Hồ Biểu Chánh với nhiều khuynh hướng khác nhau. Đánh giá chung về Hồ Biểu Chánh: Mấy suy nghĩ về nhà văn Hồ Biểu Chánh (Nguyễn Văn Y), Một vài cảm nghĩ nhân đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (Trần Hữu Tá), Hồ Biểu Chánh, cây cầu nối liền những giá trị cổ truyền với con người hiện đại (Hoài Anh), Hồ Biểu Chánh, ngòi bút Nam Bộ tinh tế (Vĩnh Vân), Hồ Biểu Chánh với tiến trình tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Nguyễn Q. Thắng), Hồ Biểu Chánh, người mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, vừa đúng 120 tuổi (Trang Quan Sen)… Phân tích một số tiểu thuyết cụ thể: Đọc tiểu thuyết Ai làm được của Hồ Biểu Chánh (Nguyễn Thanh Liêm), Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết Tiền bạc bạc tiền (Phạm Ngọc Lan), Les Misérables của Victor Hugo và Ngọn cỏ gió đùa (Nguyễn Văn Trung)… Tìm hiểu ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: Một vài suy nghĩ về ngôn ngữ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (Cù Đình Tú), Ngôn ngữ của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh (Nguyễn Vy Khanh), Ghi nhận về Hồ Biểu Chánh (Huỳnh Phan Anh), Vài nét về phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh (Huỳnh Thị Lan Phương, Nguyễn Văn Nở)… Những vấn đề khác: Từ những ảnh hưởng của thể loại truyện Nôm đến những cách tân theo hướng hiện đại của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ở thời kỳ đầu (Đinh Trí Dũng), Con đường đến với tiểu thuyết hiện đại của hai nhà văn tiên phong Nam Bộ (Võ Văn Nhơn), Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam Kỳ (J.C. Shaffer, Thế Uyên), Sài Gòn xưa dưới ngòi bút nhà văn Hồ Biểu Chánh (Trần Vĩnh An), Xã hội văn hóa Việt Nam trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (Nguyễn Thanh Liêm), Cuộc sống ở nông thôn Nam Bộ trong một số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (Huỳnh Thị Lan Phương), Vấn đề hiện thực trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh (Huỳnh Thị Lan Phương), Hội thảo khoa học về Hồ Biểu Chánh (Hoài Anh)… Những bài viết trên đã đi sâu tìm hiểu, phân tích, khám phá, lý giải, đánh giá những giá trị của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, qua đó, các tác giả chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà văn đối với sự hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX. 9 Trên đây, chúng tôi đã trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu thân thế và sự nghiệp văn học của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Từ thực tế nghiên cứu này, có thể thấy việc nghiên cứu về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã được quam tâm nhưng chưa đầy đủ. Một số công trình, bài viết chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra những nhận định khái quát rất chung và sơ lược về sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Ngoài Chân dung Hồ Biểu Chánh của Nguyễn Khuê thì còn thiếu những công trình ở cấp vĩ mô theo hướng chuyên luận có hệ thống nhằm tìm ra các đặc điểm, những giá trị nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Do có những vấn đề còn để ngỏ như trên, việc nghiên cứu về sự nghiệp văn học của Hồ Biểu Chánh vẫn còn phải được tiếp tục trên một quy mô lớn hơn. Kết quả nghiên cứu của những người đi trước đã cho chúng tôi nhiều gợi ý bổ ích khi thực hiện đề tài Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước 1945 và cho thấy sự lựa chọn đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là có cơ sở. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Trình bày quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc 1900-1945. 3.2. Chỉ ra sự kế thừa truyền thống và những cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước 1945 về phương diện nội dung. 3.3. Chỉ ra sự kế thừa truyền thống và những cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước 1945 về phương diện nghệ thuật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp so sánh, đối chiếu. 5. Đóng góp mới của luận văn 10 Lần đầu tiên đi sâu phân tích, lý giải sự kế thừa truyền thống và những cách tân trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, từ đó chỉ ra đóng góp của nhà văn Hồ Biểu Chánh cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trước 1945. 6. Cấu trúc luận văn Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung của luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: Tiểu thuyết Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc 1900-1945. Chương 2: Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước 1945 về phương diện nội dung. Chương 3: Truyền thống và cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh trước 1945 về phương diện nghệ thuật. Sau cùng là thư mục Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục. 11 Chƣơng 1 TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC DÂN TỘC 1900-1945 1.1. Vấn đề hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX 1.1.1. Hiện đại hóa văn học Việt Nam là một yêu cầu tất yếu khách quan Văn học là một hiện tượng xã hội-thẩm mỹ được hình thành và tồn tại trong đời sống xã hội và là sản phẩm của các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa nhất định. Sự phát triển của văn học chịu sự chi phối của thời đại, và ngược lại, văn học phản ánh thời đại. Trong hoàn cảnh xã hội nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sự kiện nổi bật nhất là sự xâm lược của thực dân Pháp và cuộc chiến đấu chống xâm lược của nhân dân ta. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1897-1913 và 1918-1929), Việt Nam đã chuyển từ chế độ phong kiến trung đại sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Ngoài hai giai cấp là địa chủ phong kiến và nông dân còn xuất hiện thêm ba giai cấp mới là công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Các giai cấp này không ngừng tăng lên về số lượng, trưởng thành về chính trị và phân hóa ngày càng sâu sắc. Xã hội Việt Nam từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu chuyển sang một xã hội công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa. Trung tâm kinh tế-xã hội từ nông thôn, làng xã chuyển dần lên các đô thị. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu xã hội, 12 ảnh hưởng đến tâm lý sống, cách sống của toàn xã hội. Sự biến đổi đó dẫn đến sự đổi mới trong văn học là điều tất yếu để phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đổi mới văn học Việt Nam là cả một quá trình chuyển đổi nền văn học dân tộc từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại. Đây là một sự thay đổi sâu sắc, toàn diện từ đề tài, cảm hứng, quan điểm thẩm mỹ đến thể loại, ngôn ngữ, đội ngũ sáng tác, công chúng… Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XX nhưng những dấu hiệu hiện đại thì đã xuất hiện ở những thế kỷ trước đó. Ở nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, văn học Việt Nam đã có một số thay đổi. Ý thức cá nhân xuất hiện làm cho cá tính sáng tạo của nhà văn có những bước đột phá nhất định để vượt qua những quy định khắt khe của thi pháp văn học trung đại nhằm phát hiện đề cao những giá trị mới của con người và cuộc sống. Các sáng tác của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du… đã thể hiện điều đó. Tuy nhiên, do thiếu những cơ sở tư tưởng xã hội và văn hóa cần thiết mà họ chưa tạo ra được một cuộc cách tân hiện đại văn hóa văn học. Trước thế kỷ XX, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Trung Quốc, lực lượng sáng tác của văn học viết thời trung đại chủ yếu là nhà nho, trí thức phong kiến. Họ chịu sự chi phối của hệ tư tưởng Nho-PhậtLão. Quan niệm sáng tác phổ biến của nhà Nho là “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. Văn học trung đại Việt Nam tuy là sản phẩm của những cá nhân riêng lẻ nhưng vẫn mang một đặc trưng chung, bởi nó chịu sự chi phối của một phương thức tư duy nghệ thuật chung, thể hiện qua một số yếu tố: ngôn ngữ, thể loại, kết cấu, nhân vật. Đầu thế kỷ XX, nền văn hóa phương Tây du nhập đến Việt Nam, đời sống văn hóa, tư tưởng của người Việt có sự thay đổi. Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam gắn liền với quá trình giao tiếp với văn hóa, văn học phương Tây. Nhà Nho không còn là lực lượng sáng tác chính. Bên cạnh họ xuất hiện một lực lượng sáng tác mới. Đó là những trí thức Tây học được đào tạo từ các trường Pháp-Việt. Phần lớn trong số họ khởi đầu sự nghiệp từ hoạt 13 động báo chí rồi sau đó mới chuyển sang viết truyện ngắn, kịch. Nhìn chung, họ là những người mạnh dạn đến với cái mới. Quan niệm sáng tác cũng có những đổi mới. Người sáng tác có nhu cầu phá bỏ cái quy phạm cũ. Một số người thuộc lực lượng trí thức tân học đã chọn con đường học theo phương Tây để sáng tác. Họ bắt đầu từ công việc dịch thuật, qua phóng tác và cuối cùng là sáng tác. Những thay đổi nói trên là một quy luật tất yếu khách quan của quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Đây được xem như là một cuộc cách mạng đưa văn học Việt Nam từ văn học trung đại phong kiến mang tính chất khu vực sang nền văn học hiện đại mang tính chất hội nhập quốc tế, đi vào quỹ đạo của văn học thế giới. 1.1.2. Những điều kiện của công cuộc hiện đại hóa văn học Yếu tố đầu tiên quan trọng tác động đến sự phát triển văn học là sự xuất hiện của chữ quốc ngữ. Những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp muốn loại bỏ chữ Hán và chế độ thi cử Nho học đã ép người Việt Nam học chữ cái La tinh, thứ chữ được các giáo sĩ phương Tây sáng chế và truyền bá vào nước ta từ cuối thế kỷ XVII. Lúc đầu, các nhà Nho Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với chữ Hán, “chữ của thánh hiền”, đã có thái độ bài xích chữ quốc ngữ, “chữ của các cố đạo” của bọn xâm lược. Tuy nhiên, sang những năm đầu thế kỷ XX, các nhà Nho đã nhìn thấy chữ Hán là vật cản con đường duy tân đất nước nên đã cổ súy dùng chữ quốc ngữ, xây dựng một ngôn ngữ viết mới dễ đọc, dễ hiểu với mọi người, tạo điều kiện nâng cao dân trí, tăng thêm lòng tự hào dân tộc. Khi chữ quốc ngữ được sử dụng rộng rãi thì công chúng văn học thực sự tăng nhanh, và để thoả mãn yêu cầu đa dạng của tầng lớp công chúng này, công việc viết báo, viết sách, dịch sách được đẩy mạnh. Có thể nói, chữ quốc ngữ đã chắp cánh cho nền văn học mới, thúc đẩy các thể loại văn học mới hình thành và phát triển như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch… Để hiện đại hóa văn học không thể không kể đến vai trò của những cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết phục vụ cho sự phát triển của văn học như nhà in, nhà xuất bản, báo chí… Thực dân Pháp trong quá trình đô hộ nước ta đã đưa máy in sang làm công cụ để tuyên truyền chính sách nô dịch của chúng. 14 Các nhà in, nhà xuất bản, các báo quán, thư quán lần lượt xây dựng ở Sài Gòn, Hà Nội và các thành phố khác. Nghề in đã tạo ra không khí sáng tác, truyền bá văn chương sôi nổi, khẩn trương, thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Báo chí là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần, một phương tiện thông tin đại chúng hiện đại được đưa vào Việt Nam cùng với quá trình chinh phục nước ta của Pháp. Hầu hết báo chí thời kỳ đầu đều có tính chất công báo hoặc bán công báo, chủ yếu để phổ biến tin tức, truyền đạt mệnh lệnh của thực dân Pháp, ảnh hưởng trên phạm vi nhỏ hẹp. Sang đầu thế kỷ XX, báo chí đã phát triển về số lượng và chất lượng. Tính đến năm 1929, ở Việt Nam có 150 loại báo được in bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ. Các tờ báo tiêu biểu là: Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đại Việt tân báo, Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí, An Nam tạp chí, Phụ nữ tân văn, Trung Bắc tân văn, Hà thành ngọ báo… Báo chí được ví như “bà đỡ” cho sáng tác văn học. Phần lớn các tác phẩm văn học trước khi in thành sách đã được công bố trên báo và tạp chí. Báo chí góp phần đổi mới câu văn tiếng Việt, là nơi lưu giữ những di tích của quá trình hình thành văn học Việt Nam hiện đại. Những luồng tư tưởng, những quan niệm khác nhau về hàng loạt vấn đề của văn học và hiện đại hóa văn học đã được các tác giả trình bày trên báo chí. Văn học đi vào hiện đại hóa thì vấn đề dịch thuật có ý nghĩa rất đặc biệt. Dịch thuật cung cấp cho người viết những kiến thức mới về văn học cổ kim phương Đông và phương Tây, những trào lưu văn học, nhất là của văn học Pháp. Qua đó, các nhà văn đã thay đổi cách cảm, cách nghĩ, học tập những kiểu, loại mới dựa vào những mô típ, chủ đề, cốt truyện có sẵn để sáng tác. Một số nhà văn khởi đầu sự nghiệp là dịch thuật, qua tiếp thu văn học nước ngoài mà tìm hướng đi mới cho sáng tác. Dịch thuật làm thay đổi dần thị hiếu thẩm mỹ của độc giả, giúp người đọc thích nghi với những tác phẩm bản địa đang trong quá trình hiện đại hóa cả về nội dung và hình thức. Việc phiên dịch buộc nhà văn vay mượn, sáng tạo để làm cho tiếng Việt thêm phong phú. Đi đầu trong việc dịch thuật, giới thiệu văn học phương Tây là tờ Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí và tủ sách Âu Tây tư tưởng… 15 Đi đôi với phiên dịch là việc nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học. Đội ngũ các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình xuất hiện ngày càng nhiều. Các tác giả đã thể hiện thái độ, quan niệm, bày tỏ quan điểm lập trường, tranh luận ý thức hệ, tranh giành ảnh hưởng, lôi kéo độc giả. Lý luận phê bình đã tạo ra môi trường cần thiết để văn học Việt Nam đi vào con đường hiện đại hóa. Một điều kiện khác cũng tác động không nhỏ đến quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam chính là sự xuất hiện của lớp công chúng mới và sự hình thành đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương, diện mạo bên ngoài cũng như cấu trúc bên trong của xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Từ Nam ra Bắc, thành thị phát triển rất nhanh. Các tầng lớp thị dân ra đời và ngày càng phát triển về số lượng. Họ tạo thành một lớp công chúng văn học đông đảo. Lớp công chúng mới này chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu cầu thị hiếu mới, đòi hỏi sự đổi mới của văn học. Và từ trong công chúng mới ấy đã xuất hiện một lớp nhà văn bước đầu đi vào con đường chuyên nghiệp. Viết văn đã trở thành một nghề để các nhà văn mưu sinh. Tác phẩm văn học trở thành hàng hóa, chịu sự chi phối của quy luật kinh tế thị trường. Sự sáng tạo của nhà văn, ngoài việc thể hiện tâm trạng và tư tưởng của mình thì còn phải đáp ứng nguyện vọng, thị hiếu của công chúng tiếp nhận. Nhà văn phải thích ứng nhanh với yêu cầu của người đọc ở nhiều lứa tuổi, nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề khác nhau, đặt ra cho họ nhiệm vụ phải thay đổi quan niệm sáng tác, phương pháp sáng tác để tạo cho công chúng những món ăn tinh thần thú vị hơn, phù hợp với thời đại mới. 1.1.3. Các chặng đường hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 Hiện đại hóa văn học là một sự nghiệp đầy khó khăn, không thể chỉ uỷ thác cho một vài cá nhân kiệt xuất hay cho một thế hệ nào đó. Nó phải được thúc đẩy bởi công sức của rất nhiều người trong một cuộc chạy tiếp sức khẩn 16 trương, bền bỉ. Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 có thể chia làm ba chặng đường kế tiếp nhau. Chặng thứ nhất bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến khoảng 1920. Ở giai đoạn này, văn học đã đổi mới về nội dung. Các vấn đề thuộc về ý thức hệ, lý tưởng chính trị-xã hội… là những vấn đề mà chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng. Về mặt nghệ thuật, chặng đường này chưa có những đổi mới đáng kể. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức nghệ thuật cũ. Chẳng hạn, Phan Bội Châu khi sáng tác văn học đã huy động mọi thể loại văn học, từ các thể loại bác học đến các thể loại bình dân như truyện ký danh nhân, tiểu thuyết chương hồi, thơ, phú, tuồng… để tuyên truyền cổ động cứu nước. Nhìn chung, đội ngũ nhà văn, nhà thơ còn ít dùng chữ quốc ngữ để sáng tác, chưa bỏ được lối văn biền ngẫu. Thơ vẫn là một thể loại được ưa chuộng; ngôn ngữ còn mang tính chất cầu kỳ, bóng bẩy. Sự đổi mới văn học ở giai đoạn này trên phương diện nghệ thuật chủ yếu gắn liền với văn học Nam Bộ với những sáng tác văn xuôi quốc ngữ của hàng loạt cây bút như Trần Chánh Chiếu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu… Song nhìn toàn bộ nền văn học nước nhà thì dòng chủ lưu vẫn gắn với tên tuổi của những cây bút trong phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, có thể kể đến như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền… Đây là lớp trí thức đã giác ngộ lý tưởng cách mạng du nhập từ phương Tây nhờ các sách Tân Thư của Trung Quốc. Họ có tư tưởng cách tân, muốn đẩy nhanh bánh xe lịch sử của dân tộc tiến lên cho kịp với thời buổi “mưa Âu gió Mỹ”. Họ tạo ra một phong trào sáng tác thơ văn tuyên truyền, cổ động cách mạng có nội dung chính trị mới mẻ, mang hơi thở của thời đại. Tuy nhiên, những sáng tác của họ vẫn chưa có sự đổi mới về tư tưởng thẩm mỹ, thi pháp và văn tự. Chặng đường thứ hai từ đầu những năm 1920 đến khoảng 1930. Văn học ở giai đoạn này có nhiều đổi mới về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời, nhiều tác giả khẳng định được tài năng 17 và sức sáng tạo của mình. Về truyện ngắn, nổi hơn cả là tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học… Về tiểu thuyết, phải kể đến các cây bút như Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Trọng Thuật, Trọng Khiêm… Về thể bút ký, tùy bút thì có sáng tác của Tương Phố, Đông Hồ, Phạm Qùynh… Thơ thì có Tản Đà, Trần Tuấn Khải… Kịch lần đầu tiên xuất hiện với các tác giả Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Nam Xương… Ở chặng này, những sáng tác có xu hướng hiện đại hóa tạo thành dòng chính của nền văn học. Tuy vậy, nhiều yếu tố của văn học trung đại còn tồn tại như tiểu thuyết chương hồi, câu văn biền ngẫu, sử dụng chữ Hán… Nền văn học tiến mạnh hơn trên con đường hiện đại hóa với nhiều thành tựu đáng kể, nhưng vẫn chưa đổi mới toàn diện và sâu sắc. Chặng thứ ba từ đầu những năm 1930 đến 1945. Văn học giai đoạn này thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại. Đây là quá trình không hề đơn giản bởi nó đã phá bỏ một hệ thống thi pháp đã tồn tại và được khẳng định bằng nhiều kiệt tác. Giai đoạn này, quá trình hiện đại hóa văn học diễn ra mạnh mẽ, toàn diện với nhiều cuộc cách tân sâu sắc ở hầu hết các thể loại. Về tiểu thuyết, phải kể đến sự xuất hiện của nhóm Tự lực văn đoàn với những tiểu thuyết thật sự hiện đại. Bên cạnh đó là các sáng tác của nhiều nhà văn hiện thực phê phán như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố. Truyện ngắn có nhiều thành tựu đáng chú ý với tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… Các thể loại khác như phóng sự, bút ký, tùy bút, kịch… cũng đạt được những bước tiến đáng kể. Về thơ, phong trào Thơ mới được khởi xướng từ năm 1932 đã đóng vai trò quyết định trong công cuộc hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Cá tính sáng tạo của nghệ sỹ được giải phóng, hàng loạt cây bút tài năng đã xuất hiện với nhiều màu sắc khác nhau: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử… Mảng thơ ca cách mạng với các sáng tác của Tố Hữu, Sóng Hồng, Hồ Chí Minh… cũng có nhiều đóng góp vào nền thơ ca dân tộc cả về tư tưởng và nghệ thuật. Như vậy, có thể khẳng định văn học Việt Nam 1900-1945 đã thu được những thành quả quan trọng, tạo cơ sở vững chắc cho văn học Việt Nam phát 18 triển rực rỡ ở những thời kỳ sau đó. Nó đã đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa văn học bằng sự đổi mới thi pháp văn học từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại. Công cuộc hiện đại hóa văn học giai đoạn này đã đưa văn học Việt Nam đi vào quỹ đạo của văn học thế giới. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam 1900-1945 trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc 1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết Đưa ra một định nghĩa có tính chất phổ quát đối với thể loại tiểu thuyết là một điều rất khó. Các nhà nghiên cứu văn học, nhà văn đã trình bày rất nhiều cách hiểu về thể loại này. Mỗi định nghĩa được đưa ra chỉ phù hợp với một mô hình thể loại trong giai đoạn lịch sử nhất định. M. Bakhtin (18851975) đã cho rằng: “Việc nghiên cứu tiểu thuyết với tư cách một thể loại vấp phải những khó khăn đặc biệt. Đó là do tính đặc thù của bản thân khách thể này: tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng ta: thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó” [13, 21]. Năm 1961, nhà văn Tô Hoài đã phát biểu: “Không thể cho tiểu thuyết một định nghĩa cố định. Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng tung hoành không bờ” [65, 19]. Vì thế, chúng tôi không có ý định trình bày một định nghĩa về tiểu thuyết mà chỉ đưa ra một cách hiểu cần thiết cho việc tiến hành luận văn. Trên cơ sở tìm hiểu những quan niệm về thể loại tiểu thuyết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, kết hợp với những lời bàn (chủ yếu thông qua lời nói đầu, tự, tựa, lời bạt, tiểu dẫn) về tiểu thuyết từ đầu thế kỷ XX đến 1945 của các nhà văn, chúng tôi xác định rằng tiểu thuyết là một loại hình tự sự được viết bằng văn xuôi (hoặc văn vần) để phản ánh hiện thực đời sống trong mọi không gian và thời gian, có thể tập trung phản ánh số phận của 19 một cá nhân hay nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng, có dung lượng tương đối dài, có kết cấu, tình tiết phù hợp với nội dung câu chuyện nhằm gây hứng thú cho người đọc. Về dung lượng của tiểu thuyết cũng cần được hiểu rất linh hoạt, tùy theo quan niệm của mỗi thời. Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà văn thường không phân biệt rạch ròi giữa truyện ngắn, truyện dài và truyện vừa. Chẳng hạn Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản chỉ dài 32 trang nhưng nhiều nhà văn thời kỳ này đều xem là tiểu thuyết. Những tác phẩm của Phú Đức, Trương Duy Toản, Trần Thiên Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh dung lượng chỉ đủ mức truyện vừa nhưng vẫn được gọi là tiểu thuyết. Cá biệt, tác phẩm Người đờn bà nguy hiểm (1925) của Nguyễn Văn Kiểm chỉ là một truyện ngắn 8 trang song tác giả lại ghi là tiểu thuyết. Do vậy, khái niệm tiểu thuyết trong thời kỳ đầu của sự hình thành thể loại cần được hiểu một cách tương đối mềm dẻo và uyển chuyển, theo quan điểm lịch sử cụ thể. 1.2.2. Thể loại tiểu thuyết trong lịch sử văn học dân tộc trước thế kỷ XX Với những ưu thế của mình so với các thể loại khác, từ trước đến nay, tiểu thuyết luôn là thể loại chiếm địa vị quan trọng trong hệ thống thể loại văn học cận đại, hiện đại của nền văn học các quốc gia trên thế giới. Ở châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã và văn học cổ đại suy tàn. Cá nhân lúc này không còn cảm thấy lợi ích và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại, nhiều vấn đề của đời sống riêng tư được đặt ra gay gắt. Đề tài chủ yếu của những cuốn tiểu thuyết cổ là phản ánh tình yêu của các đôi thanh niên nam nữ, tình yêu của họ thường gặp nhiều trở ngại, phải vượt qua nhiều thử thách, trải qua những cuộc phiêu lưu, mạo hiểm rồi mới đi đến hạnh phúc. Thời kỳ này, ở các nước phương Tây đã hình thành những tiểu thuyết nghĩa hiệp được xây dựng trên cơ sở những truyền thống 20 hiệp sỹ và thần thoại, phản ánh đời sống của quý tộc phong kiến, quan hệ giữa lãnh chúa và võ sĩ thị thần, quan hệ giữa võ sĩ và thần thánh; đề cao vai trò trung thành, hào hiệp, tài múa kiếm, đâm thương của các hiệp sỹ. Bước phát triển mới của tiểu thuyết bắt đầu từ thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XIV-XVI), khi xảy ra quá trình giải phóng con người khỏi thần quyền của nhà thờ, khi con người bắt đầu được ý thức như một thực thể xã hội, lý tưởng nhân văn được khẳng định, sự miêu tả rộng lớn các quan hệ cá nhân và xã hội gắn liền với ý thức phê phán hoàn cảnh làm cho tiểu thuyết có bộ mặt khác so với trước. Chi tiết sinh hoạt, chi tiết lịch sử, phong tục tăng lên, kết cấu mở rộng. Yếu tố phiêu lưu mang một chức năng mới: mở rộng diện quan sát, nghiên cứu và phê phán hiện thực. Tác phẩm Gargantua và Pantagruel của F. Rabelais đã phản ánh trung thành “cuộc đảo lộn tiến bộ lớn nhất mà từ xưa đến nay nhân loại chưa từng thấy” (F. Engels). Dưới hình thức phóng đại để châm biếm, F. Rabelais lên án hệ thống chính trị, tôn giáo, giáo dục, phong tục của xã hội phong kiến, xác định nhu cầu sinh hoạt cá nhân dưới sự chỉ đạo của lý trí (chứ không phải của uy quyền nhà thờ, kinh viện, thói quen…) đã đòi hỏi hòa bình và đả phá chiến tranh, vạch ra một đường lối sống nhân đạo chủ nghĩa. Hay như tiểu thuyết Gulliver’s travels của J. Swift cũng là một tác phẩm dùng cách phóng đại để ngụ ý châm biếm, đả kích chế độ đại nghị đương thời ở Anh. J. Swift đã cho nhân vật Gulliver tới nước người tí hon, nước người khổng lồ và nước ngựa… để trào phúng phong tục, tập quán, chế độ đề bạt nhân tài… Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết Don Quijote của M. Cervantes, một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thời đại Phục hưng đã phê phán những tàn dư của lý tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, đả kích một thị hiếu tầm thường và phổ biến trong công chúng. M. Cervantes có công phá tan những điều không tưởng của thế giới phong kiến, nhìn thấy được những lệch lạc, bỉ ổi của thế giới tư bản đang phát triển và lên tiếng phê bình nó. Đến nửa sau thế kỷ XVIII và nhất là ở thế kỷ XIX, sự xuất hiện của các nhà văn bậc thầy như H. Balzăc, W. Thackeray, C. Dickens, H. Gogol, F. Dostoievski, L. Tolstoy, A. Pushkin, M. Lermontov… đã đưa tiểu thuyết lên thành một thể loại chính trong văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan