Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH (QUA SÁCH ...

Tài liệu LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH (QUA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ)

.PDF
113
81
149

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------***--------------- LA THỊ THU THƯƠNG VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH (QUA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ) LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------***--------------- LA THỊ THU THƯƠNG VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH (QUA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC Mã số: 60. 22. 03. 01 Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THANH BÌNH Hà Nội - 2012 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 4 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .............................................. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 8 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 9 5. Đóng góp của luận văn ........................................................................... 9 6. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 9 NỘI DUNG .........................................................................................................10 Chương 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ ....................................................10 1.1. Hoàn cảnh ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử ....................... 10 1.2. Quan niệm về bản tính và vai trò của con người trong Nho giáo Khổng – Mạnh là một trong những căn cứ chủ yếu của vấn đề tu thân ....................... 17 1.3. Kết cấu và đặc điểm của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử .................. 39 Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG TU THÂN CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH (QUA SÁCH LUẬN NGỮ ..46 VÀ SÁCH MẠNH TỬ) ......................................................................................46 2.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về vai trò, mục đích của tu thân ........................................................................................................... 46 2.2. Các phương diện chủ yếu của tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh 62 2.3. Phương pháp tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh ......................... 90 2.4. Những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong vấn đề tu thân của Nho giáo Khổng – Mạnh ................................................................................ 100 KẾT LUẬN .......................................................................................................106 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................108 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nho giáo, trong đó có học thuyết đạo đức xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại. Và từ đó đến nay, Nho giáo đã có lịch sử tồn tại và phát triển hơn 2000 năm. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã để lại dấu ấn của mình không chỉ trong sách vở mà cả trong văn hóa, trong đời sống tinh thần, đời sống đạo đức, trong phong tục, tập quán của nhiều thế hệ người Trung Quốc nói riêng và một số nước châu Á nói chung, trong đó có Việt Nam. Nho giáo trong thời gian dài là hệ tư tưởng thống trị, là bộ phận chủ yếu trong kiến trúc thượng tầng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, Nho giáo có lúc được đề cao, tôn sùng, được xem là quốc giáo, nhưng cũng có khi Nho giáo bị mạt sát đến thậm tệ, thậm chí bị phủ định sạch trơn. Mặc dù vậy, cho đến ngày nay, Nho giáo và nhất là học thuyết đạo đức của Nho giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng khá sâu đậm đến đời sống văn hóa tinh thần của nhiều nước phương Đông. Những giá trị và ý nghĩa tích cực của nó vẫn tồn tại mãi mãi với thời gian và sự phát triển của lịch sử tư tưởng, lịch sử của nhân loại. Với tư cách là một học thuyết có hệ thống, nội dung của Nho giáo chủ yếu đề cập tới lĩnh vực chính trị và đạo đức. Việc kế thừa và vận dụng những yếu tố hợp lý, những giá trị tiến bộ trong học thuyết đạo đức của Nho giáo, đặc biệt là quan niệm về tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh1 có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng, bồi dưỡng đạo đức mới cho con người Việt Nam nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là khi nước ta đang trong thời kỳ mở rộng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. 1 Trong lịch sử Nho giáo Trung quốc, Nho giáo Khổng – Mạnh theo nhiều nhà nghiên cứu, là hình thái (giai đoạn) đầu tiên của Nho giáo với tư cách là học thuyết, hay còn gọi là Nho giáo nguyên thủy, Nho giáo tiên Tần, để phân biệt với các hình thái (giai đoạn) Nho giáo sau này. Tất nhiên, nội dung chủ yếu của hình thái Nho giáo nay là tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử. 4 Từ trước tới nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây, trên thế giới và ở Việt Nam có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều chuyên khảo, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí đã luận bàn và đánh giá sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội, con người trong lịch sử và hiện nay. Tuy có không ít sự nhìn nhận và có nhiều ý kiến còn trái ngược nhau, song phần lớn các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố, những giá trị và ý nghĩa tích cực của Nho giáo, của đạo đức Nho giáo; coi những chuẩn mực, quy phạm đạo đức mà các nhà Nho đưa ra là những yêu cầu và là những phẩm chất đạo đức cơ bản để cho con người hoàn thiện phẩm chất đạo đức, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cá nhân trong mối quan hệ giữa cá nhân với gia đình và với xã hội. Đúng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nói: “Người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện về mặt tinh thần, bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, về mặt cách mạng thì đọc tác phẩm của Lênin” [10, tr.1]2. Nghiên cứu về học thuyết đạo đức của Nho giáo nói chung và tư tưởng về tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến từ nhiều góc độ tiếp cận, với những nội dung và phạm vi nghiên cứu khác nhau, trong đó có không ít công trình đã được xuất bản. Kế thừa những thành quả nghiên cứu trước đó và từ góc độ tiếp cận triết học, chúng tôi chọn: “Vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh (qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học của mình. Bằng việc nghiên cứu vấn đề này, luận văn sẽ góp phần hiểu đúng đắn và đầy đủ hơn những mặt tích cực và hạn chế của học thuyết đạo đức Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng và Nho giáo nói chung, đồng thời cũng qua đó, để hiểu sâu sắc hơn tính nhân đạo, tính cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. 2 Từ đây, những chú thích trong luận văn, số đầu là số thự tự tương ứng với mục tài liệu tham khảo, số sau là số trang của tài liệu ấy. 5 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả từ phương Tây tìm về phương Đông, với phương châm và mục đích là từ hiện tại trở về quá khứ để tìm hiểu tư tưởng và giá trị của Nho giáo. Vấn đề đặt ra là, phương Đông cổ đại với các hiền triết, đặc biệt là Khổng Tử và Mạnh Tử có thể đóng góp gì vào sự thiếu hụt của các nước phương Tây nói riêng và xã hội loài người nói chung hay không? Nho giáo Khổng – Mạnh đã bàn khá nhiều về vấn đề tu thân của con người, nhưng chủ yếu là trên phương diện đạo đức và chính trị. Các nhà Nho này đã đưa ra nội dung của tu thân, vai trò của tu thân đối với việc “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Trên cơ sở những nội dung và nguyên lý của tu thân, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo Khổng – Mạnh. Liên quan đến đề tài luận văn, có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu ở một vài công trình tiêu biểu sau đây: Phan Bội Châu trong cuốn Khổng học đăng đã chỉ ra một cách khái quát nhất thực chất và mục đích trong quan niệm tu thân của Nho giáo Khổng – Mạnh: “Hễ muốn tu thân mà cho đúng với đạo, trước tất phải tu cho đến đạo; nhưng mà muốn tu cho nên đạo, tất phải có chỗ mục-đích-đạo. Mục-đích-đạo là gì? Chính là đức nhân ở trong lòng người ta. Chữ “nhân” ở đây tức là chữ “chí thiện” ở sách Đại học. Tu đạo mà cốt cho được “chỉ ư chí thiện”, tất phải thực hành cho được đức nhân. Nên nói rằng: “tu đạo dĩ nhân” [11, tr.356]. Hồ Chí Minh đã hiểu rất sâu sắc về Nho giáo Khổng – Mạnh và đã vận dụng nhuần nhuyễn nhiều luận điểm của nó để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người đã phát hiện rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Trong lời bế mạc lớp chỉnh huấn của cán bộ trí thức năm 1953, Người nói: “Chúng ta phải lấy câu “chính tâm tu thân” để “trị quốc, bình thiên hạ”. 6 Một học giả phương Tây là Will Durat, trong cuốn Lịch sử văn minh Trung Quốc đã có những nhận xét khá tinh tế về nguyên lý tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh: “Khổng Tử bảo thiên hạ loạn vì đất nước không được khéo trị, mà nước không được khéo trị vì luật pháp dù nhiều đến đâu cũng không thay thế được trật tự tự nhiên, xã hội, trật tự này được đặt cơ sở trên gia đình. Gia đình bê bối, không làm được nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội kể trên là vì người ta quên rằng nếu mình không sửa được mình (tu thân) thì không thể tề gia được. Họ không tu thân được vì lòng họ bất chính, không gột được hết những dục vọng hỗn độn trong tâm hồn” [54, tr.5]. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu về Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng, trong đó có không ít công trình đã đề cập đến không ít vấn đề mà luận văn quan tâm như: Nho giáo của Trần Trọng Kim đã luận giải về khái niệm tu thân, do ông đã triết tự chữ Hán và tư tưởng Khổng – Mạnh. Trong hai cuốn sách Nho giáo và đạo đức và Nho giáo xưa và nay (đều do Vũ Khiêu chủ biên), với rất nhiều bài viết, những nhận định, đánh giá những giá trị của Nho giáo Khổng – Mạnh. Trong cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, tác giả đã luận giải rất nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề tu thân được tác giả đặt trong mối quan hệ với “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài này, như Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, Khổng Tử của Nguyễn Hiến Lê, Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với người Việt Nam hiện nay do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Vừa qua, tác giả Nguyễn Thanh Bình có Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX). Trong cuốn sách này, tác giả đã bàn nhiều vấn đề liên quan đến nội dung của luận văn như: Quan điểm của Nho giáo về con người, Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng và Quan điểm của Nho giáo về đức trị. 7 Liên quan đến đề tài trong luận văn của chúng tôi còn có một số luận án đã được bảo vệ như: Trần Đình Thảo với “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người qua mối quan hệ thân - nhà nước - thiên hạ”; Nguyễn Thị Tuyết Mai với “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người”. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết khá công phu và có giá trị có liên quan đến nội dung luận văn của chúng tôi mà do dung lượng và thời gian, chúng tôi chưa đề cập tới được. Dù rằng, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và về Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng liên quan đến vấn đề tu thân, nhưng có lẽ, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về tư tưởng tu thân của Nho giáo Khổng – Mạnh. Tuy nhiên, trên cơ sở tham khảo, những công trình nghiên cứu ấy đã giúp chúng tôi tìm hiểu đầy đủ, sâu sắc và có hệ thống hơn về vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Thông qua việc nghiên cứu hai tác phẩm Luận ngữ và Mạnh tử, luận văn từ việc trình bày những nội dung chủ yếu trong vấn đề tu thân của Nho giáo Khổng – Mạnh để từ đó chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu của nó. 3.2. Nhiệm vụ Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là phải giải quyết các nội dung sau: - Trình bày những cơ sở chính trị - xã hội và tiền đề cho sự ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử, kết cấu và đặc điểm của hai cuốn sách này. - Trình bày và phân tích một số nội dung cơ bản của vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh qua hai cuốn Luận ngữ và Mạnh tử. - Nêu ra và phân tích một số giá trị nổi bật và hạn chế trong vấn đề tu thân của Nho giáo Khổng – Mạnh. 8 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn chủ yếu dựa vào sách Luận ngữ và sách Mạnh tử và những công trình nghiên cứu liên quan đến luận văn trong những năm gần đây. Cở sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và xã hội. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài là phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích và tổng hợp, logíc với lịch sử, so sánh và đối chiếu, quy nạp và diễn dịch, v.v.. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh (qua hai cuốn Luận ngữ và Mạnh tử). Vì vậy mà, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập Nho giáo nói chung và học thuyết về đạo đức Nho giáo nói riêng. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn gồm 2 chương với 7 tiết. Chương 1: Hoàn cảnh ra đời, kết cấu và nội dung khái quát của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử, với 3 tiết. Chương 2: Nội dung của vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh (qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử), với 4 tiết. 9 NỘI DUNG Chương 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ 1.1. Hoàn cảnh ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử Theo nhiều nguồn sử liệu, vào năm 770TCN, do bị các thế lực phía Tây là Nhung và Địch tấn công, vua Tây Chu là Chu Bình Vương buộc phải rời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông, bắt đầu giai đoạn thứ hai của nhà Chu là Đông Chu. Giai đoạn Đông Chu tương ứng với hai thời kỳ là Xuân Thu (722 – 479TCN) và Chiến Quốc (478 – 221TCN). Sự phân chia này chỉ dựa trên một bộ sử biên niên của Khổng tử là bộ Xuân Thu. Bộ sách này chép sử nước Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ân Công (721TCN) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (481TCN). Chữ Xuân Thu mới đầu chỉ một năm, rồi chỉ những bộ sử chép từng năm (vì vậy mà ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử còn nhiều bộ sử khác như của Tả Khâu Minh, Công Dương, Cốc Lương… cũng gọi là Xuân Thu). Nhưng nhiều học giả cho rằng, năm 721TCN và năm 481TCN không đánh dấu một biến cố lớn lao nào trong lịch sử nên đã chia lại như sau: Thời Xuân Thu từ 770 – 403TCN, bắt đầu từ đời Chu Bình Vương đến cuối đời Chu Uy liệt vương. Thời Chiến Quốc từ 403 – 221TCN, bắt đầu từ đời Chu An Vương đến khi nước Tần diệt được nước Tề và thống nhất Trung Quốc. Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ lịch sử với nhiều biến động, với nhiều chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện trong đời sống của con người và xã hội Trung Quốc. Đây là thời kỳ có nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện dồn dập, nhiều học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời, xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, văn hóa tài ba có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử Trung Quốc và lịch sử nhân loại. Trong các học thuyết đó phải nói đến Nho giáo, trong những nhà tư tưởng ấy phải nói tới Khổng Tử và Mạnh Tử với hai tác phẩm Luận ngữ và Mạnh tử. 10 1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu và Chiến Quốc – cở sở ra đời sách Luận ngữ và sách Mạnh tử Ở Trung Quốc, đến thời kỳ Tây Chu (từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII TCN), công cụ sản xuất làm bằng đồng thau đã ra đời và tuy có tiện lợi hơn công cụ lao động bằng gỗ, bằng đá nhưng chưa có nhiều để trở thành thứ công cụ được sử dụng phổ biến trong sản xuất. Trong khi đó, số nhân khẩu tăng nhanh, nhu cầu xã hội đặt ra lúc này là cần phải đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều của cải hơn nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất ngày càng nhiều hơn cho người dân. Trước yêu cầu thực tiễn đó, đến đời Đông Chu, với sự xuất hiện và sử dụng khá phổ biến công cụ lao động bằng sắt đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong sản xuất nói riêng và trong lịch sử nền văn minh Trung Hoa nói chung. Việc phát minh đồ sắt đã mang lại những tiến bộ mới trong việc chế tạo, cải tiến và sử dụng công cụ lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Việc dùng trâu, bò, ngựa kéo thay cho sức người đã trở thành phổ biến; kỹ thuật trồng trọt cũng được cải tiến. Do đó, diện tích đất canh tác ngày càng được mở rộng, năng suất lao động ngày càng tăng, sức sản xuất (lực lượng sản xuất) ngày càng phát triển. Nhờ công cụ sản xuất phát triển mà ruộng đất do nông nô vỡ hoang biến thành ruộng tư ngày một nhiều. Tầng lớp quý tộc do có quyền thế cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã và được thay thế bằng chế độ tư hữu về ruộng đất và chế độ tư hữu này còn được pháp luật Nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến trong sản xuất nông nghiệp và cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm… Đặc biệt, lĩnh vực thương nghiệp rất phát triển với việc hình thành 11 nhiều trung tâm thương nghiệp như: Hàm Dương ở nước Tần, Lâm Truy nước Tề, Hàm Đan nước Triệu, … với nhiều nhà buôn có tên tuổi như: Phạm Lãi, Đoan Mộc Tứ, Lã Bất Vi… Trong hoạt động buôn bán, tiền tệ đã xuất hiện, ngoài các thứ tiền đồng mà mỗi miền dùng một kiểu, người ta còn lập đồng tiền chung. Nhiều người do có nhiều tiền đã mua đất của quý tộc sa sút và sống như các quý tộc. Từ những hoạt động này, trong xã hội đã nảy sinh tầng lớp thương nhân giàu có, mở rộng buôn bán sang nhiều nước và ngày càng trở thành tầng lớp có thế lực lớn trong xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Đây là thời kỳ mà xã hội Trung quốc có sự đan xen giữa hình thái chiếm hữu nô lệ và hình thái phong kiến. Do sự suy yếu về kinh tế mà triều đại nhà Chu ngày càng suy sụp, chế độ tông pháp không còn được tôn trọng; các quan hệ về kinh tế, chính trị giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được coi trọng. Hệ quả tất yếu dẫn đến là, làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội Trung Quốc, đó là thời Xuân Thu. Thời Xuân Thu như có nhà nghiên cứu đã khẳng định, là “triều đại nhà Chu từ đầu Đông Chu đến đây là hết hẳn. Tình trạng xen kẽ lẫn nhau giữa các hình thái chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và hình thái phong kiến cát cứ mới nảy sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng mạnh mẽ cũng chấm dứt” [17, tr.21]. Vua nhiều nước chư hầu đã bằng mọi cách, mọi thủ đoạn giành giật địa vị bá chủ thiên hạ, gây chiến tranh để xâm lược, trừng phạt lẫn nhau. Tình hình đó càng làm cho mâu thuẫn vốn có trong xã hội và các mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, sự rối loạn trong xã hội ngày càng gia tăng. Tình trạng lễ, nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi, “chư hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rất là rối loạn” [1, tr.25-26] diễn ra ở nhiều nơi, thể chế nhà Chu bị vi phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, là tình trạng trên yếu dưới mạnh, do tầng lớp địa chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn 12 át quý tộc cũ, “thậm chí tầng lớp này còn chiếm đoạt cả chính quyền như họ Quý thị ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề” [63, tr.25]. Cuối thời Xuân Thu, chiến tranh ngày càng ác liệt, các nước nhỏ bị nước lớn tiêu diệt. Sang thời kỳ Chiến Quốc, Trung Quốc lúc này chỉ còn lại bảy nước mạnh tranh giành nhau (gọi là thất hùng), gồm có các nước: Tần, Sở, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy và Yên. Chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và liên tục giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày càng cùng cực hơn. Mâu thuẫn giữa các giai cấp và những mâu thuẫn xã hội khác ngày càng gay gắt hơn đã làm cho xã hội ngày thêm rối loạn và nguy cơ diệt vong. Điều đó chính giai cấp thống trị đã nhận thấy, nên họ đã tiến hành một số biện pháp cải cách nhằm loại trừ tình trạng rối loạn và ngăn chặn nguy cơ ấy. Đó là phong trào “biến pháp” ở một loạt nước như nước Ngụy, nước Triệu, nước Hàn, nước Tề, nước Tần… suốt thời Chiến quốc. Tình trạng rối loạn xã hội, sự đảo lộn các quan hệ xã hội và chiến tranh liên miên ở nhiều nơi là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện nhiều cuộc bạo động, khởi nghĩa của người nông dân chống lại chế độ nhà Chu. Mặt khác, “sự rối loạn trật tự xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô đạo đang thống trị cả xã hội, làm cho các mối quan hệ xã hội bị biến dạng ghê gớm” [6, tr.14]. Tất cả đã tạo ra một hợp lực đẩy nhà Chu đến bờ vực diệt vong. Trước một thực trạng xã hội hết sức rối loạn về chính trị như vậy, thì một vấn đề cấp bách được đặt ra là, cách thức tổ chức, quản lý như mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa, và phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cương cho xã hội, làm cho xã hội ổn định, phát triển. Và điều quan trọng hơn là, phải lựa chọn mô hình xã hội nào cho phù hợp với tình hình Trung Quốc thời bấy giờ để đất nước thoát ra khỏi tình trạng hỗn loạn để phát triển. Rõ ràng, đây không chỉ là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà còn là câu hỏi lớn và nỗi băn khoăn cho thời đại, cho mọi tầng lớp người. Đó còn là nội dung chủ yếu trong đời sống tư tưởng chính trị - xã hội của Trung Quốc 13 thời bấy giờ. Sự ra đời của nhiều học phái, nhiều học thuyết đã phản ánh địa vị và lập trường giai cấp rất rõ là, mỗi một học thuyết lại bảo vệ lợi ích của giai cấp, của tầng lớp mình mà phê phán (cải tạo hay xóa bỏ) trật tự xã hội cũ. Tình trạng ấy đã tạo nên cục diện “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử” mà kết cục là đã tạo ra được nhiều tầng lớp kẻ sĩ, nhiều tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập nhau ở Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Sự ra đời tư tưởng Khổng – Mạnh cũng trong bối cảnh ấy. Khổng Tử và sau đó là Mạnh Tử đã đề xuất học thuyết “đức trị” nhằm thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức Trong đó, qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử, các ông đòi hỏi mọi người phải kiên trì, nỗ lực, tu thân, học đạo để làm cho “người người hữu đạo”, “nhà nhà hữu đạo”, “xã hội hữu đạo” nhằm thực hiện được lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. 1.1.2. Tiền đề tư tuởng cho sự ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử Sự ra đời Nho giáo Khổng – Mạnh còn bắt nguồn từ đời sống tư tưởng (tôn giáo, chính trị, đạo đức) của Trung Quốc từ trước đến bây giờ, đặc biệt dưới thời nhà Chu. Điều này ảnh hưởng và thể hiện khá rõ trong sách Luận ngữ và sau này là sách Mạnh tử. Về tôn giáo, như chúng ta đã biết, để biện hộ, bảo vệ, duy trì địa vị và vai trò thống trị vĩnh viễn của mình, nhà Chu đặc biệt đề cao tư tưởng mang đậm tính chất tôn giáo, tính chất duy tâm như “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ thượng đế”, “trời và người hợp nhất”…. Nhà Chu luôn cho rằng, trời là lực lượng có nhân cách, có ý chí và có uy quyền tuyệt đối, quyết định mọi hành động và số phận của con người. Theo đó, nhà Chu còn cho rằng “vì nhà Ân không biết mệnh trời, hành động không hợp với mệnh trời, do vậy thượng đế đã trừng phạt và để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân” [Dẫn theo 8, tr.15]. Về chính trị, các tầng lớp quý tộc và tư tưởng của nhà Chu cho rằng, vì nhà Chu do làm theo đúng “mệnh trời” cho nên được trời trao quyền “nhận dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị dân” suốt đời. Và vì vậy mà theo 14 họ, nếu kẻ nào chống lại, thì nhà Chu sẽ thay mệnh trời mà chém giết. Họ đều quả quyết rằng, vua nhà Chu là thiên tử, là người duy nhất thay trời thống trị thiên hạ, là người chủ sở hữu duy nhất về đất đai và thần dân. Như vậy, tư tưởng chính trị nhà Chu là hết sức phản động, nhưng đã được phủ lên trên nó một vỏ bọc “duy tâm”, một lớp son tôn giáo là “ý trời” và “mệnh trời”. Về đạo đức, tư tưởng đạo đức cơ bản của nhà Chu thể hiện chủ yếu ở hai phạm trù Đức và Hiếu. Theo đó, bởi nhà Chu có Đức, có Hiếu cho nên mới nhận được mệnh trời, mới có được mệnh trời. Nhà Chu đã lấy hai chữ Đức, Hiếu và thông qua “mệnh trời” cũng chủ yếu nhằm củng cố và tuyên truyền sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu. Từ quan niệm chính trị - tôn giáo “Thiên nhân hợp nhất” hết sức duy tâm và phản động, nhà Chu khẳng định rằng, vì các bậc tiên vương nhà Chu có đức mà được sánh cùng thượng đế, được thượng đế cho các quyền thay thượng đế trị nước, trị dân và hưởng nước, hưởng dân…; cho nên các đời vua sau phải biết kính cái đức đó, phải biết bồi dưỡng cái đức đó để cho con cháu của họ được trị nước, trị dân và hưởng nước, hưởng dân lâu dài. Hiếu là thờ phụng tổ tiên, là phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ gìn phép tắc của tổ tiên để lại. Có cái đức, hiếu như vậy, cho nên nhà Chu luôn tin rằng, họ mới nhận được mệnh trời mà được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi. Đến thời Khổng – Mạnh, Nho giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội không thể không liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế và phản ánh đời sống kinh tế xã hội Trung quốc lúc bấy giờ. Do vậy, để khắc phục tình trạng rối loạn xã hội, nhằm đưa xã hội vào trạng thái ổn định và phát triển, ở phương diện nào đó, tư tưởng Nho giáo Khổng – Mạnh vẫn sử dụng sức mạnh của thần quyền. Nhưng mặt khác và là mặt cơ bản, tư tưởng ấy phải khẳng định địa vị đứng trên của vương quyền đối với thần quyền cũng như vị trí, vai trò của con người trong những diễn biến của lịch sử. 15 Có thể khẳng định rằng, do điều kiện lịch sử, văn hóa, v.v.., trong lịch sử, cũng như trong đời sống chính trị - xã hội ở nhiều nước phương Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng, địa vị thống trị xã hội của một lực lượng hay giai cấp nào đó không phải nhất thiết và bao giờ cũng bị chi phối, bị quyết định bởi địa vị kinh tế, của lực lượng, giai cấp ấy. Thực tế lịch sử cho thấy, từ thời kỳ trước Khổng Tử và Mạnh Tử ở Trung quốc, tất cả các thế lực thống trị phải quan tâm, dù ở một mức độ nào đó, đến đời sống của con người, của nhân dân và đến vai trò của dân. “Ngay trong Kinh Thư đã cho thấy nhiều tư tưởng thể hiện sự quan tâm của tầng lớp thống trị đến đời sống của nhân dân, đến vai trò của người dân, như tuy thừa nhận “mệnh trời” luôn có uy quyền tối cao, tuyệt đối nhưng lại thể hiện ra, thậm chí đồng nhất với “ý dân”, “lòng dân”. Những câu sau: “Trời nhìn tự dân ta nhìn”, “Trời nghe tự dân ta nghe”, “Sự sáng suốt ở trời thể hiện ra sự sáng suốt ở dân”, “Dân muốn gì trời cũng phải theo”… không phải là ít trong cuốn sách này. Điều này nói lên rằng, việc quan tâm đến đời sống và vai trò của dân có ý nghĩa như một hằng số trong đời sống chính trị ở các nước phương Đông” [Dẫn theo: 8, tr.17]. Như đã trình bày ở trên, dưới triều đại nhà Chu, địa vị và uy quyền của trời, mệnh trời đã được vận dụng để chống lại nhà Ân, vào việc luận giải và biện hộ cho sự tồn tại vĩnh viễn của nhà Chu. Tuy nhiên đến thời Xuân Thu, chính sự suy yếu về mọi mặt của nhà Chu đã cho thấy, sự linh thiêng và sự bất khả xâm phạm của thần quyền đã bị xâm phạm; nó báo hiệu sự thắng lợi của quyền lực trần thế trước quyền lực thần thánh… Cho đến cuối thời Xuân Thu, với sự suy đồi của tầng lớp thống trị, trật tự, kỷ cương theo mô hình nhà Chu bị rối loạn, sự khốn cùng của đời sống nhân dân đã làm lay chuyển gốc rễ địa vị thống trị của thần quyền. Bởi vậy, một vấn đề thực tiễn đặt ra cho các nhà tư tưởng, các học phái, các tầng lớp thống trị là phải tìm ra cơ sở lý luận nhằm thiết lập lại một trật tự xã hội mới. Lúc này, trong xã hội đã xuất hiện tầng lớp tri thức, họ là những người có hiểu biết, hiểu thời thế, hiểu được 16 tâm tư và nguyện vọng của nhân dân cũng như lợi ích của giai cấp thống trị. Trong tư tưởng của họ cũng mong muốn tìm được minh chủ để thực hiện học thuyết cứu đời, ổn định trật tự xã hội, chấm dứt chiến tranh loạn lạc. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Nho giáo (mà cũng chính là Nho giáo Khổng – Mạnh) là một tất yếu khách quan, nhằm giải quyết một nhu cầu mà thực tiễn của xã hội Trung quốc đặt ra lúc bấy giờ. Tuy nhiên, khác với các học thuyết, giáo phái khác, Nho giáo Khổng – Mạnh đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là phương tiện, là công cụ chủ yếu để quản lý, duy trì trật tự xã hội, đưa xã hội từ “loạn” tới “trị”, coi xã hội và con người lý tưởng là xã hội có đạo đức, là con người có đạo đức. 1.2. Quan niệm về bản tính và vai trò của con người trong Nho giáo Khổng – Mạnh là một trong những căn cứ chủ yếu của vấn đề tu thân Trong triết học phương Đông và Nho giáo nói chung, trong Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng thì vấn đề con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Ở Nho giáo Khổng – Mạnh, qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử cho thấy, con người ngay từ đầu đã được cả Khổng Tử và Mạnh Tử đề cập tới và có thể nói rằng, Nho giáo Khổng – Mạnh đặc biệt đề cao vai trò của con người, “coi con người cũng với trời đất là tiêu biểu của tất cả, và nói rõ: trời, đất, người là tam tài” [17, tr. 64]. Trong quan niệm của Khổng Tử và Mạnh Tử, vấn đề con người gắn liền, ảnh hưởng trực tiếp đến việc củng cố, ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội. Trong đó, đạo đức và coi trọng đạo đức của con người là tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về con người. Vấn đề con người bao hàm nhiều các vấn đề như: đạo làm người, tính người, giáo dục và đào tạo con người, phân loại con người và phương thức, mục đích xây dựng mẫu người lý tưởng.v.v.. Việc nghiên cứu, làm rõ hệ các vấn đề trên là cần thiết và có ý nghĩa. Nhưng để phục vụ cho đề tài của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu hai vấn đề có liên quan nhất, đó là vấn đề bản tính của con người và vai trò của con người trong Nho giáo 17 Khổng – Mạnh. Bởi vì, hai vấn đề này là cơ sở lý luận, là một trong những căn cứ chủ yếu nhất hình thành vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh. 1.2.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về bản tính con người Không như nhiều hình thái triết học khác khi đưa ra vấn đề thuộc tính cơ bản (bản chất) của con người là gì, phần lớn các học phái triết học phương Đông (trong đó có Nho giáo) khi đề cập đến vấn đề này, thường sử dụng thuật ngữ “Bản tính” hay “nhân tính”. Bản tính con người (hay là nhân tính) là một trong những vấn đề lớn của triết học phương Đông. Trong khi triết học phương Tây thời cổ đại, chủ yếu đi tìm hiểu những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới và những vấn đề thuộc về mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, v.v.., thì các nhà triết học phương Đông lại chú trọng về những vấn đề thuộc về “bản tính con người”, để từ đó đưa ra và lý giải về vị trí, vai trò của con người. Nhiều nhà triết học phương Đông quan niệm rằng, bất kỳ một cải cách cơ bản nào trong xã hội đều bắt đầu từ một thay đổi cơ bản trong bản tính con người. Trong các học thuyết xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại, Nho giáo Khổng – Mạnh là học thuyết bàn luận về bản tính người một cách sâu sắc, đầy đủ hơn cả. Trong sách Luận ngữ (cũng là Nho giáo nói chung), Khổng Tử là người đầu tiên đưa ra quan niệm về bản tính con người, rất cơ bản, dù trong sách ấy ông ít giảng cho học trò về vấn đề này. Đúng như Tử Cống – học trò của Khổng Tử đã nói rằng: “Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã. Phu tử nhi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã” [27, tr. 298] (Văn chương thầy ta thì chúng ta đều được nghe. Còn về bản tính con người cùng đạo trời thì chúng ta chẳng được nghe thầy ta dạy). Theo sự giải thích của học trò (được ghi chép trong sách Luận ngữ), vì vấn đề bản tính con người và đạo trời là vấn đề cao siêu, cho nên Khổng Tử chỉ truyền đạt vấn đề này cho những học trò đã đạt đến đạo “trung dung”, nhưng số học trò này rất hiếm nên Khổng Tử không thể truyền đạt đạo đó một cách sâu rộng được. Cũng cần phải nói thêm ở đây 18 là, không như Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn Đại cương lịch sử triết học Trung quốc, tập 2, cho rằng: Khổng Tử chỉ nói có một câu về bản tính con người: “Khổng Tử cũng có nói đấy nhưng chỉ nói mỗi một câu này ở gần đầu chương Dương hóa: Tính tương cận giã, tập tương viễn giã” [12, tr. 75]. Còn khi nghiên cứu cụ thể thì cho thấy, trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã có hai lần ông nói liên quan đến bản tính con người: - “Con người sinh ra, bản tính vốn ngay thật” (Nhân chi sinh tính giã trực) [27, tr. 332]. - “Con người ta ai cũng có bản tính lành; nhưng do nhiễm thói quen cho nên họ thành xa cách nhau (Tính tương cận giã, tập tương viễn giã) [27, tr. 614]. Và tất nhiên, ở một chỗ khác, cũng trong sách Luận ngữ, Khổng Tử có nói đến nết người và theo chúng tôi, cái nết người ấy đã bao hàm “tính người”, đó là: - “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không đổi nết mình” (Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di) [27, tr. 614]. Tuy ít luận bàn về bản tính con người, nhưng Khổng Tử đã đưa ra những luận điểm rất quan trọng, là cơ sở để học trò của ông và những nhà Nho sau ông tiếp tục kế thừa và phát triển. Cho dù Khổng Tử chưa nói bản tính con người là ác hay là thiện một cách rõ ràng, nhưng ngay từ đầu, Khổng Tử đã khẳng định rằng: “Bản tính con người ta là gần nhau”. “Gần nhau”, có nghĩa là ở con người phải có một điểm chung nào đó. Theo Khổng Tử, cái chung ấy chính là bản chất ngay thật (vốn lành - giã trực) của con người. Đó là cái nguyên sơ, chất phác, mộc mạc, tự nhiên do trời sinh ra vậy. Cái bản tính ban đầu ấy của con người, theo Khổng Tử là ngây thơ, trong trắng, chưa bị hoen ố bởi vật dục và sự tác động của ngoại cảnh. Và Khổng Tử khẳng định rằng, chỉ khi con người bị chi phối, ràng buộc bởi những ham muốn, dục vọng và bởi những ảnh hưởng, những tác động của ngoại cảnh, đến khi xã hội phân chia thành những đẳng cấp thì cái tính ban đầu ấy của con người ấy mới 19 bị tha hóa, biến đổi và vì vậy mà làm cho con người dần dần “xa nhau”. Về vấn đề này, Khổng Tử muốn nhấn mạnh vai trò tu dưỡng đạo đức và ảnh hưởng hoàn cảnh xã hội đối với sự thay đổi bản tính ban đầu của con người. Ông cũng cho rằng, “bản tính con người” là do trời phú cho con người, cho nên cái bản tính ban đầu ấy là giống nhau, là chung cho cả loài người, là cái phân biệt giữa con người với các sinh vật khác. Có nghĩa là, bản tính con người lúc mới sinh ra, khi chưa bị tác động bởi ham muốn, dục vọng và các yếu tố ngoại cảnh thì “gần nhau”, giống nhau chứ không phải như có người đã giải thích rằng “Bản tính trí năng được phú bẩm của người ta có khác nhau” [40, tr.11]. Tiếp thu tư tưởng trên đây của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đưa ra học thuyết về “tính thiện”. Luận về bản tính của con người, trong sách Mạnh tử, Mạnh Tử chỉ rõ: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Bản tính con người ta vốn thiện) [27, tr.1193]. Về vấn đề này, trong chương Li lâu, sách Mạnh tử, ông còn nói thêm: “Nhân chi sơ dĩ dị ư cầm thú giả, cơ hỹ” [27, tr.1073] (nghĩa là: loài người sở dĩ khác cầm thú chỉ có mảy may mà thôi, mà chỗ giống nhau thì nhiều). Chỗ khác, cũng trong sách Mạnh tử, ông khẳng định rằng, con người được ăn no mặc ấm, nhàn rỗi mà lại chẳng được dạy dỗ (để có và giữ được tính thiện) thì chẳng khác cầm thú là bao. Như ông nói: “Làm người phải có đạo lý. Ăn no, mặc ấm, nhàn rỗi mà không có giáo dục thì gần với loài cầm thú. Thánh nhân lấy đó làm lo, sai ông Tiết làm quan tư đồ, dạy dân biết các giềng mối của con người: giữa cha con có tình thân ái, giữa vua tôi có nghĩa vụ, chồng vợ có phân biệt, anh em có thứ tự, bạn bè có chữ tín” [27, tr.949]. Mạnh Tử cũng nhận thức được rằng, con người có chỗ bất thiện và cũng có chỗ thiện. Theo ông, chỗ bất thiện là phần ti tiểu, đáng khinh; còn chỗ thiện mới là phần đại cao, đại quý: “Thể hữu quý tiện, hữu tiểu đại. Vô dĩ tiểu hại đại, vô dĩ tiện hại quý. Dưỡng kỳ tiểu giả vi tiểu nhân, dưỡng kỳ đại giả vi đại nhân… Ẩm thực chi nhân, tắc nhân, tiện chi hĩ, vị kỳ dưỡng tiểu dĩ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan