Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ nông nghiệp nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với c...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ nông nghiệp nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn ngày tại huyện cư jút tỉnh đăk nông

.PDF
64
615
148

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN TRẦN ĐĂNG THẾ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN TRẦN ĐĂNG THẾ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số: 60 62 01 LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP Thư ký hội ñồng Người hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Văn Sanh TS. Lâm Thị Bích Lệ BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011 MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn ñề Trong những năm gần ñây, diện tích trồng bông ở vùng Tây Nguyên có sự sụt giảm nghiêm trọng. Theo thống kê của Công ty Bông Việt Nam niên vụ 2007/2008 diện tích bông khoảng 3.700 ha, ñến niên vụ 2009/2010 diện tích bông tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 1.500 ha, những nguyên nhân chính làm cho diện tích bông suy giảm: Thứ nhất, do quy trình kỹ thuật canh tác bông còn phức tạp, năng suất bông chưa thực sự ổn ñịnh, hiệu quả kinh tế của cây bông chưa cao… Thứ hai, do cây bông chưa ñủ khả năng cạnh tranh với một số cây trồng ngắn ngày khác như: ngô, ñậu xanh, ñậu tương, lạc… Để khôi phục ñược vùng bông Tây Nguyên, vấn ñề cấp thiết ñược ñặt ra là: Làm thế nào ñể cây bông nhanh chóng có chỗ ñứng vững chắc trong cơ cấu cây trồng nông nghiệp ngắn ngày của vùng? Có 2 hướng ñể giải quyết vấn ñề này: Một là, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật về giống, quy trình canh tác, quản lý dịch hại thích hợp và ñồng bộ, giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của cây bông với cây trồng khác. Hai là, nghiên cứu các mô hình trồng bông thích hợp ñể tăng hiệu quả sử dụng ñất và hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, tạo cơ hội nâng cao diện tích và sản lượng bông của vùng. Trong những năm gần ñây, Viện nghiên cứu Bông và PTNN Nha Hố ñã lai tạo ñược một số giống bông lai mới với các ñặc tính tốt như: có tiềm năng cho năng suất cao, thân cành gọn, chín tập trung… ñã tạo ñiều kiện thuận lợi cho cây bông phát triển tốt. Vì vậy, việc nghiên cứu các mô hình trồng bông xen canh với một số cây trồng ngắn ngày khác là một trong những giải pháp thiết thực nhất, nhằm góp phần khai thác tốt ñiều kiện ñất ñai và tạo ra cơ cấu cây trồng ổn ñịnh, nâng cao hiệu quả sử dụng ñất và hiệu quả kinh tế, tạo cơ hội mở rộng diện tích và nâng cao sản lượng bông. 1 Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn sản xuất, chúng tôi tiến hành ñề tài: “Nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn ngày tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông”. 2. Mục tiêu ñề tài Xác ñịnh ñược mô hình trồng bông xen canh thích hợp với cây ngắn ngày có hiệu quả kinh tế cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. 3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài - Ý nghĩa khoa học Các kết quả thu ñược của ñề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về một số mô hình trồng bông xen canh với cây trồng ngắn ngày ñạt hiệu quả kinh tế cao. Kết quả nghiên cứu của ñề tài làm cơ sở cho việc bố trí các mô hình trồng bông thích hợp tại ñịa phương. Đồng thời làm cơ sở cho những nghiên cứu chuyên sâu về cây bông tại huyện Cư Jút nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung. - Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của ñề tài góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ñất, ñem lại hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, nâng cao vị trí cây bông trong hệ thống cơ cấu cây trồng tại ñịa phương, tạo ñiều kiện mở rộng diện tích, tăng năng suất và sản lượng bông. 4. Giới hạn của ñề tài - Giống nghiên cứu: Đề tài chỉ tiến hành trên giống bông lai F1 VN04-3, thuộc loài bông Luồi (G. hirsutum L.), là giống có triển vọng và hiện ñang trồng phổ biến tại vùng nghiên cứu. - Địa bàn nghiên cứu: Đề tài của chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. - Thời gian nghiên cứu: Đề tài tiến hành trong vụ mưa năm 2009 và 2010. 2 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Cơ sở khoa học của ñề tài 1.1.1 Khái niệm xen canh - Xen canh laø troàng cuøng moät luùc nhieàu loaïi caây troàng treân moät ñôn vò dieän tích trong cuøng moät vụ, nhaèm taän duïng toái ña caùc ñieàu kieän töï nhieân saün coù ñeå ña daïng hoùa saûn phaåm vaø laøm taêng hieäu quaû ñoàng voán ñaàu tö của ngöôøi saûn xuaát. - Moät heä thoáng troàng xen coù hieäu quaû sinh hoïc cao laø heä thoáng canh taùc thoûa maõn 4 yeâu caàu : + Toång saûn löôïng thu hoaïch cao nhaát. + Dieän tích söû duïng ñaát ít nhaát. + Toå hôïp caây troàng hôïp lyù nhaát. + Kỹ thuaät canh taùc phuø hôïp nhất. - Ñeå ñaùnh giaù hieäu quaû sinh hoïc vaø hieäu quaû kinh teá, IRRI (1973,1977) vaø Mead and Willey (1980) ñaõ ñeà xuaát khaùi nieäm tæ leä ñaát töông ñöông (LER Land vaø ñöôïc tính theo coâng thöùc: LER = Lx + Ly + Lz = Ay Ax Az + + Px Py Pz Trong ñoù: Lx ; Ly ; Lz laø nhöõng LER rieâng bieät cuûa caùc xaây troàng x, y, z. Ax , Ay , Az laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng x, y, z trong ñieàu kieän troàng xen. Px , Py , Pz laø naêng suaát cuûa caùc caây trồng ñoù trong ñieàu kieän troàng thuaàn. Tuy nhieân, saûn löôïng caây troàng khoâng chæ quan heä vôùi dieän tích ñaát, caây troàng, quaûn lyù vaø moâi tröôøng (nhö ñöôïc nguï yù bôûi LER) maø coøn coù quan heä maät thieát vôùi thôøi gian sinh tröôûng cuûa caây troàng hoaëc thôøi gian maø ñaát bò chieám giöõ bôûi moät caây troàng hay toå hôïp caùc caây troàng nhö trong tröôøng hôïp 3 vöøa xen, vöøa goái, canh taùc ña canh, ña taàng. Ñieàu ñoù ñaõ khai sinh ra khaùi nieäm môùi: “Tyû leä thôøi gian töông ñöông” (Area Time Equivalency Ratio ATER) ñöôïc phaùt trieån bởi Heisch 1978: ATER = Trong ñoù: tm y Ii I i x I m = yi tI i =1 t n ∑ n ∑ t mi x i=1 y iI ym i tm i : laø thôøi gian phaùt trieån cuûa caây troàng i trong ñieàu kieän troàng thuaàn. t I : laø thôøi gian toøan boä heä thoáng troàng xen. y Ii : Naêng suaát (taán/ha) cuûa caây troàng i trong troàng xen. ym i : Naêng suaát (taán/ha) cuûa caây troàng i trong troàng thuaàn. n : laø toång soá caùc caây troàng trong heä thoáng. Wiiley, Rao (1980) ñaõ phaùt trieån khaùi nieäm LER trong vieäc ñaùnh giaù möùc ñoä caïnh tranh giöõa caùc caây troàng xen baèng chæ tieâu “chæ soá caïnh tranh’’ (Competitive Ratio - CR): A A  S CRX =  X : Y  x Y PY  SX  PX Trong ñoù: AX vaø AY: laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng X vaø Y trong troàng xen. PX vaø PY: laø naêng suaát cuûa caùc caây troàng xen trong troàng thuaàn. SY: laø khoâng gian töông öùng bò chieám choã bôûi caây troàng Y. SX: laø khoâng gian töông öùng bò chieám choã bôûi caây troàng X. Ñeå ñaùnh giaù hieäu quaû kinh teá cuûa vieäc troàng xen coù 4 chæ tieâu cơ baûn ñaõ ñöôïc ñeà nghò bôûi Perrin et al. (1976) bao goàm: Toång chi phí, toång thu nhaäp, lôïi nhuaän vaø hieäu quaû ñaàu tö: HQÑT(%) = L ô ïi n h u a än X 100 T o ån g c h i p h í ña àu t ö 4 1.1.2 Những nghiên cứu về xen canh 1.1.2.1 Nghiên cứu ngoài nước Ở nhiều nước, cây bông thường ñược trồng xen với nhiều cây trồng khác ñể làm tăng năng suất và quản lý sâu hại. Hiệu quả của việc trồng bông xen với rau Húng quế ñã ñược kiểm chứng trên ñồng ruộng ñối với sự lan tràn của dịch hại, khả năng ảnh hưởng ñến năng suất và hiệu quả kinh tế tại Ai Cập. Cây Húng quế ñược biết ñến như là loại cây có tác dụng xua ñuổi ñối với nhiều loại sâu hại, ñược trồng xen với bông theo 3 tỷ lệ (không xen, tỷ lệ xen trung bình và tỷ lệ xen lớn), với khoảng cách hàng 60 cm và 90 cm ñược nhắc lại 4 lần, so với công thức trồng bông thuần, công thức xen canh bông - Húng quế ñã làm giảm sự xuất hiện của sâu hại một cách có ý nghĩa, mật ñộ sâu hồng trên cây bông giảm 50% (Schader Christian và cs) [35]. Nghiên cứu ảnh hưởng của việc trồng bông xen canh ñối với sâu bệnh và thiên ñịch, Dong Y.G (1988) cho rằng: trồng ngô xen bông tạo ñiều kiện thuận lợi cho bọ rùa Coccinella và hạn chế ñược rệp hại bông so với trồng bông thuần. Trong công tác phòng trừ tổng hợp sâu hại bông thì trồng xen là biện pháp có hiệu quả trong công tác phòng trừ sâu bệnh hại. Tại Trung Quốc, trồng lúa mì xen bông ñã làm chậm sự xuất hiện của rệp khoảng 5-7 ngày. Số rệp trên cây bông trồng xen thấp hơn 79,3% so với trồng bông thuần, mật ñộ thiên ñịch ở mô hình bông trồng xen cao hơn 4,9 lần so với bông trồng thuần. Trồng xen cây họ ñậu hoặc ngô với bông cũng hấp dẫn thiên ñịch hơn, làm tăng Bọ rùa Coccinella từ 74,4-168% so với bông thuần và hạn chế ñược rệp bông. Ở tỉnh Jiangsu (Trung Quốc), trồng lúa mạch xen bông là biện pháp thông thường ñể làm tăng các loài thiên ñịch trên cây bông [62]. Tại Indonesia, trồng bông xen ngô ñã hạn chế tác hại của sâu xanh hại bông rõ rệt. Với mục ñích trồng ngô ñể dẫn dụ sâu xanh nên việc thiết kế kiểu trồng xen, bố trí thời vụ gieo ngô sao cho khi thời kỳ sâu xanh ở mức cao trùng với thời kỳ phun râu của ngô ñã làm giảm tác hại của sâu xanh ñối với bông và hạn chế ñược việc sử dụng thuốc hoá học. 5 Tại Mỹ (Nam Alabama), trồng lạc liên tục thì năng suất lạc giảm rõ rệt do bị tuyến trùng (Hoplolaimus columbus) phá hại nặng. Tuy nhiên, khi ñưa cơ cấu trồng lạc sau vụ bông ñã cải thiện ñược năng suất lạc rõ rệt và có hiệu quả kinh tế (Roberson D.G và ctv, 1991). Theo Darrel S. M và Donald M. E (1980) trồng thuần một loại cây chỉ sử dụng ñược 60-80% hiệu suất của ñất. Trồng xen giúp nâng cao năng suất cây trồng, phòng trừ sâu hại dễ dàng hơn, ñặc biệt nếu trồng cây họ ñậu sẽ cho nhiều nguồn lợi hơn [53]. Trên thế giới, phần lớn cây họ ñậu ñược sử dụng ñể trồng xen với cây bông. Vì cây họ ñậu có phản ứng trung tính với ánh sáng, chịu che bóng và có khả năng cố ñịnh ñạm, tăng ñộ màu mỡ cho ñất. Theo Kunase Karan.V và cs [57], việc xen 3 hàng ñậu xanh với bông (giống MCu5) ñã làm giảm ñược lượng ñạm cần bón theo khuyến cáo là 25%, nhưng năng suất bông vẫn không bị giảm. Nghiên cứu về khả năng trồng xen của giống bông C50 với những cây trồng khác trong ñiều kiện nhờ nước trời ở Tamil Nadu (Ấn Độ) cho thấy: năng suất bông trồng thuần cao hơn so với mô hình bông trồng xen. Năng suất bông giảm do trồng xen có thể ñạt tối ña là 28%, ớt và rau mùi ñều không thích hợp cho trồng xen. Bông xen với ñậu ñen cho hiệu quả kinh tế cao nhất, ñậu ñen ñược khuyến cáo dùng làm cây trồng xen trong những năm có lượng mưa thấp (dẫn theo Trần Anh Hào, 1996) [9]. Các nghiên cứu của Tarhalkar P. P, Mudholkar N. J (1990) cho rằng: Tại Ấn Độ cây bông có thời vụ kéo dài, giai ñoạn ñầu sinh trưởng chậm tạo thành một thời vụ ngắn khoảng 70-100 ngày. Do vậy, những cây có tán lá thấp như: lúa mạch, ñậu xanh, ñậu ñen, lạc, ñậu tương ñều có thể trồng xen với cây bông. Trồng xen các cây ñậu xanh, ñậu ñen, ñậu ñũa, hướng dương với bông thì mật ñộ các loài chích hút trên bông trồng xen thấp hơn bông trồng thuần, trong ñó trồng xen ñậu xanh vào bông cho tổng thu nhập cao nhất [50]. Kết quả nghiên cứu tại Rio Grande do Norte (Brazil) ñã chỉ ra rằng: trồng 2 hàng bông xen 1 hàng ñậu ñũa cho năng suất bông cao hơn trồng 1 hàng bông xen 6 1 hàng ñậu ñũa. Số lượng cây ñậu ñũa không ảnh hưởng lớn ñến năng suất bông (Bererra Neto F và cs, 1991) [38]. Kết quả nghiên cứu về hiệu quả của việc trồng bông xen canh với ñậu ñen trong ñiều kiện trồng bông nhờ nước trời ở Ấn Độ cho thấy: Bông ñược trồng xen với ñậu ñen cho năng suất cao hơn so với bông trồng xen với ñậu triều, cao lương. Trồng bông xen ñậu ñen cho năng suất bông hạt (ñược quy ñổi ñông ñặc) cao và mang lại tổng thu nhập cao hơn so với bông trồng thuần hoặc bông trồng xen với ñậu triều, cao lương (Biajdar J.M và cs, 1987) [42]. Trồng bông xen lạc làm tăng hiệu quả kinh tế và hiệu suất sử dụng ñất một cách có ý nghĩa so với trồng bông xen ñậu xanh hoặc trồng bông thuần, tuy năng suất bông ở mô hình bông xen lạc có thấp hơn (0,91 tấn/ha) so với bông thuần (1,04 tấn/ha) nhưng không ñáng kể (Balkar S.Y; Vaidya C.S và ctv, 1990). 1.1.2.2 Nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam, Trần Anh Hào (1996) ñã kết luận: cây trồng xen thích hợp với cây bông ở Ninh Thuận là cây ñậu xanh và ở Đồng Nai là ñậu tương. Trồng xen ñậu xanh và ñậu tương với bông theo tỷ lệ 1:1 làm giảm 6,2% năng suất bông nhưng thu ñược sản phẩm ñậu xanh và ñậu tương, vì vậy tổng thu nhập và tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với trồng bông thuần. Đồng thời, việc trồng xen ñậu xanh với bông còn có tác dụng làm tăng thiên ñịch như: ong mắt ñỏ, nhện… Do ñó, tỷ lệ sâu xanh giảm, tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh xanh lùn cũng giảm hẳn so với bông trồng thuần. Trồng gối ngô vào bông cũng làm cho sâu xanh trên cây bông chỉ tồn tại ở mức thấp và khá ổn ñịnh [9]. Theo Nguyễn Thị Thanh Bình (1999), biện pháp xen canh bông với ñậu xanh theo tỷ lệ 1:1 kết hợp với biện pháp xử lý hạt bằng Gaucho 70WP (5g/1 kg hạt) có tác dụng phòng trừ rệp và hạn chế ñược gần 60% mức ñộ bệnh xanh lùn so với không phòng trừ [1]. Kết quả thử nghiệm qua 2 năm (2001 và 2002) tại Quảng Ngãi, bước ñầu cho thấy: cây bông trong hệ thống trồng xen với các cây trồng truyền thống tại ñịa phương ñã cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với bông trồng thuần và cao hơn so 7 với cơ cấu cây trồng khác (Tổng công ty Bông Việt Nam, 2003) [26]. Việc trồng bông xen với các cây trồng khác ñã tận dụng ñược thời gian, không gian và tiết kiệm ñược công chăm sóc. Các mô hình bông xen lạc, ñậu cô ve hoặc ñậu tương trong ñiều kiện mùa khô có tưới bổ sung ñều cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mô hình bông trồng thuần (Lê Quang Quyến và cs, 2004) [24]. Theo Phạm Xuân Hưng (2002), tại Thanh Hóa, trồng bông xen lạc với mật ñộ từ 1,0 ñến 1,2 vạn cây/ha làm tăng năng suất bông ñể có thể bù ñắp ñược sự giảm năng suất lạc. Đặc biệt, hiệu quả kinh tế của mô hình trồng bông xen lạc khá cao và cao hơn nhiều so với trồng ngô xen lạc, vì cây ngô chống chịu với ñiều kiện khô hạn kém hơn cây bông, hiệu quả kinh tế thấp hơn cây bông [13]. Trên ñất cát ở huyện Thăng Bình (Quảng Nam), trong ñiều kiện vụ Xuân hè: Mô hình bông xen lạc theo kiểu 1 hàng bông kép (1,4 - 0,6 m) xen 4 hàng lạc cho hiệu quả kinh tế cao nhất và vượt mô hình trồng bông thuần (5,5 triệu ñồng/ha) và mô hình trồng lạc thuần (2,7 triệu ñồng/ha) [26]. Theo Đinh Quang Tuyến & cs (2008), tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông trồng bông xen ñậu tương theo kiểu 1/4 (1 hàng bông xen 4 hàng ñậu tương, với khoảng cách giữa 2 hàng bông là 1,4m) cho lãi thuần cao nhất (ñạt 17,5 triệu ñồng/ha). Tại Kông Chro (Gia Lai), trồng bông xen ñậu xanh theo kiểu 2/4 (bông hàng kép cách nhau 1,4m xen 4 hàng ñậu xanh) cho lãi thuần ñạt 13,3 triệu ñồng/ha. Trồng bông xen ngô theo kiểu 4/1 (4 hàng bông xen 1 hàng ngô) cho lại lãi thuần và thu nhập cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông và huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai [29]. 1.2 Tình hình sản xuất bông trong nước và trên thế giới 1.2.1 Tình hình sản xuất bông trên thế giới Trong bốn thập kỷ qua, sản xuất và tiêu thụ bông vải trên toàn thế giới có những bước tăng trưởng mạnh, sản lượng bông xơ từ 9,8 triệu tấn (năm 1960/1961) lên ñến 21,1 triệu tấn vào những năm 2001/2002 (Badiane và ctv, 2002). Niên vụ 2001/2002 trên thế giới có hơn 50 quốc gia sản xuất bông với diện tích hàng năm khoảng 30 - 35 triệu ha, tập trung chủ yếu ở các nước có ñiều kiện khí hậu nhiệt ñới 8 và á nhiệt ñới. Gần 10 năm trở lại ñây, diện tích bông toàn cầu biến ñộng trong khoảng 30 - 35 triệu ha với sản lượng bông xơ khoảng 20 - 26 triệu tấn/năm. Tổng giá trị sản xuất bông ñạt 21 tỷ USD/năm, trong ñó các nước ñang phát triển chiếm khoảng 70% giá trị. Sản xuất bông ở khu vực châu Á chiếm 60% sản lượng toàn cầu, châu Phi chiếm 15% và châu Mỹ La Tinh < 5%, (ICAC, 2001-2010) [41]. (bảng 1.1) Bảng 1.1: Tình hình sản xuất bông trên thế giới trong những năm gần ñây 2001/2002 Diện tích (triệu ha) 33,5 Năng suất bông xơ (tạ/ha) 6,40 Sản lượng bông xơ (triệu tấn) 21,5 2002/2003 31,2 6,19 19,3 2003/2004 32,6 6,20 20,2 2004/2005 35,7 6,94 24,8 2005/2006 32,9 6,75 22,2 2006/2007 33,8 7,90 26,7 2007/2008 2008/2009 2009/2010 2010/2011* 33,6 33,8 30,2 33,6 7,56 7,94 7,26 7,49 25,7 26,9 21,8 25,1 Niên vụ Ghi chú: (*): Số liệu niên vụ 2010/2011 ước tính (Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41] Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng bông của một số quốc gia ñứng ñầu thế giới trong niên vụ (2007 – 2009) Niên vụ Diện tích (triệu ha) Năng suất bông xơ (tạ/ha) Quốc gia 2007/08 2008/09 2009/010 2007/08 2008/09 2009/010 Trung Quốc Mỹ Ấn Độ Pakistan Uzbekistan Braxin Thổ Nhĩ Kỳ 6,02 4,25 9,44 3,00 1,43 1,08 0,52 5,95 3,06 9,37 2,90 1,42 0,85 0,35 Toàn thế giới 33,6 33,8 5,30 10,26 3,00 1,3 0,84 0,28 12,99 9,85 5,67 6,46 8,15 14,88 12,98 13,10 9,11 5,34 6,76 7,51 14,86 13,25 13,5 4,88 6,67 6,53 14,19 13,61 - 7,96 7,66 - (Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41] Theo thống kê của Bộ nông nghiệp Mỹ, niên vụ 2009/2010, cây bông ñược trồng ở hơn 90 quốc gia với diện tích là 30,2 triệu ha. Trong ñó, các nước có diện tích trồng bông ñứng ñầu thế giới là: Ấn Độ (10,26 triệu ha), Trung Quốc (5,3 triệu 9 ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (3,0 triệu ha), Uzbekistan (1,3 triệu ha), Brazil (0,84 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,28 triệu ha). Trong số các nước sản xuất bông ñứng ñầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là các nước có năng suất bông ñạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của các quốc gia này ñạt mức từ 13 - 14,19 tạ bông xơ/ha. Hiện nay, những nước có diện tích trồng bông ñứng ñầu thế giới là: Ấn Độ (9,37 triệu ha), Trung Quốc (5,95 triệu ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (2,90 triệu ha), Uzbekistan (1,42 triệu ha), Brazil (0,85 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,35 triệu ha). Trong số các nước sản xuất bông ñứng ñầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là các nước có năng suất bông ñạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của các quốc gia này ñạt mức từ 12,98 - 14,88 tạ/ha, ước tính diện tích trồng bông tăng (33,6 triệu ha), sản lượng bông xơ ñạt 25,1 triệu tấn (ICAC, 2001 - 2011) [41]. 1.2.2 Tình hình sản xuất bông trong nước Bảng 1.3: Diễn biến tình hình sản xuất bông ở Việt Nam trong những năm qua Niên vụ 1996/1997 1997/1998 1998/1999 1999/2000 2000/2001 2001/2002 2002/2003 2003/2004 2004/2005 2005/2006 2006/2007 2007/2008 2008/2009 Diện tích (ha) 10.676 11.716 19.963 17.705 23.250 29.573 35.200 23.633 20.260 23.098 15.445 7.446 3.240 Năng suất (tạ/ha) 6,00 9,00 8,00 10,00 9,00 11,00 10,50 12,12 9,55 9,20 11,20 9,83 10,60 Sản lượng (tấn) 6.866 10.986 16.245 17.578 20.340 32.530 36.960 28.650 19.358 21.254 17.300 7.324 3.434 2009/2010 10.470 - - (Nguồn: Theo Công ty bông Việt Nam, 1996 – 2010 [4]) Trước thời Pháp thuộc, giống bông ñược sử dụng chủ yếu các giống bông Cỏ ñịa phương (Gossypium arboreum. L), giống bông này cho năng suất thấp. Một số ít 10 diện tích ở Trung và Nam bộ ñã ñược trồng các giống bông Luồi (Gossypium hirsutum. L) nhập nội, với năng suất ñạt 300 - 500 kg/ha (Lê Quang Quyến, 1999) [23]. Đầu thế kỷ 20, nước ta ñã xuất khẩu bông sang Nhật, Hồng Kông. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, diện tích trồng bông ñã ñược phát triển mạnh, trong ñó Liên khu V ñạt khoảng 10.000 ha và Liên khu IV ñạt khoảng 13.000 ha (Nguyễn Văn Bình và ctv, 1996) [2], (Hoàng Đức Phương, 1983) [21]. Sau năm 1954, các giống bông Luồi nhập nội ñược thay thế một phần các giống bông Cỏ ñịa phương. Sau năm 1975, năng suất bông hạt thấp (chỉ ñạt 3 - 4 tạ/ha). Nguyên nhân năng suất và diện tích bông giảm ở giai ñoạn này là do sâu bệnh phá hại nặng và chưa có các giống bông thích hợp cho các vùng (Lê Quang Quyến, 1999) [23]. Chi phí sản xuất quá lớn do ñầu tư thuốc trừ sâu rất cao nên người trồng bông luôn bị thua lỗ, mặt khác môi trường bị ô nhiễm nặng, ngành bông Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn (Nguyễn Thơ, 1998) [30]. Từ sau những năm 1999, ngành bông Việt Nam ñã có những bước thay ñổi ñáng kể, chúng ta ñã tạo ñược các giống bông, ñặc biệt là các giống bông lai có năng suất cao, chất lượng xơ tốt, chống chịu ñược sâu bệnh. Hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật ñược áp dụng như: biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp giúp giảm chi phí thuốc bảo vệ thực vật; các biện pháp kỹ thuật canh tác khác như: hệ thống luân, xen canh hợp lý, phủ màng PE cho bông, ñặc biệt trồng dày, sử dụng chất ñiều hòa sinh trưởng Mepiquate Chloride. Chính vì vậy mà năng suất và chất lượng bông xơ tăng, nghề sản xuất bông mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tính ñến niên vụ 2002/2003 diện tích bông ñạt hơn 35.000 ha, năng suất ñạt hơn 10 tạ/ha, tăng lên hơn 2 lần so với thời ñiểm 1996/1997. Từ năm 2006 ñến nay, năng suất và sản lượng bông nước ta giảm ñáng kể. Niên vụ 2007/2008 diện tích bông giảm chỉ còn trên 7.000 ha và niên vụ 2008/2009 chỉ còn trên 3.000 ha ở vùng Tây Nguyên, trồng chủ yếu nhờ nước trời. Bước sang niên vụ 2009/2010, diện tích bông tăng lên khá mạnh (10.470 ha). 11 1.2.3 Tình hình sản xuất bông tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông Bảng 1.4: Diện tích, năng suất, sản lượng bông tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông Năm Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) 2007 392 1,0 2008 45 1,1 2009 500 1,6 2010 586 1,8 Niên giám thống kê huyện Cư Jút, 2011 [17] Nhìn chung, năng suất và diện tích bông tại huyện Cư Jút có chiều hướng tăng dần từ năm 2007 ñến năm 2010. Tuy nhiên, trong năm 2008 do ñiều kiện thời tiết diễn biến bất thường từ ñầu vụ và giá thu mua bông thấp làm diện tích bông sụt giảm mạnh. Một trong những nguyên nhân chính làm giảm diện tích bông là do trong những năm qua cơ chế quản lý của ngành bông chưa chặt chẽ. Trước tình hình trên, Công ty Cổ phần Bông Tây Nguyên ñã tìm những biện pháp và có những chính sách thích hợp, nhằm nâng cao vị thế của cây bông vải với người nông dân. Mặt khác, Công ty hỗ trợ 100% chi phí hạt giống bông cho nông dân, ñăng ký hợp ñồng sản xuất bông với số lượng (8 kg/1ha), ñầu tư một phần phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… cho nông dân trồng bông; nâng giá mua bông hạt từ 7.000 lên 9.000 ñồng/kg, bảo ñảm tiêu thụ toàn bộ sản phẩm cho người trồng bông. Bên cạnh ñó, Trạm bông Cư Jút cũng ñã phối hợp với các ñịa phương tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật về các biện pháp thâm canh cây bông ñể ñạt năng suất cao, xây dựng các mô hình luân canh, xen canh nhằm ñạt hiệu quả cao trên cùng một diện tích canh tác. Nhờ vậy, vụ mưa 2009 toàn huyện Cư Jút ñã có trên 800 hộ ñăng ký trồng bông với diện tích gần 500 ha. Tính ñến nay, toàn huyện ñã xuống giống ñược 530 ha bông, ñạt 294,4% kế hoạch [5], [6]. Với những chính sách thu hút của ngành bông hiện nay, hy vọng trong những vụ mùa tới cây bông ñã và ñang nhanh chóng tìm lại vị thế và trở thành một trong những cây trồng chủ lực của ñịa phương. 12 1.3 Đặc ñiểm thực vật, sinh lý, sinh thái và các giai ñoạn sinh trưởng của cây bông 1.3.1 Đặc ñiểm thực vật học - Rễ: Bông là loại cây có bộ rễ ăn sâu, phát triển khá mạnh. Rễ bông thuộc loại rễ cọc. Rễ cọc có thể ñâm sâu 2 - 3 m, rễ con có thể dài 0,6 - 1,0 m. Rễ phân bố tập trung ở tầng canh tác 0 - 30 cm (Chu Hữu Huy, 1991) [12]. - Thân và cành: Cây bông là loại cây bụi, thường cao 0,7 - 1,5 m, trong ñiều kiện thuận lợi thân có thể cao tới 2 m. Thân chính mang các cành có nhiều lóng (20 - 30 lóng). Thân thẳng ñứng, cành gần như nằm ngang, tạo cho cây có dạng tháp (trên nhỏ, dưới to). Cành bông có 2 loại, cành ñực (Monopodial) do mầm ñâm từ giữa nách lá gọi là mầm chính phân hóa thành và cành quả (Sympodial) do mầm phụ phân hóa thành. Phía gốc thường chỉ có mầm chính phát triển, do ñó chỉ có cành ñực; còn phía trên chỉ có mầm phụ phát triển thành cành quả. Mỗi cây thường có 1 - 10 cành ñực, thường mọc từ nách lá thật thứ 3, 4. Cành ñực sinh trưởng theo mầm ngọn, do ñó mọc thẳng và thuộc loại cành ñơn trục, hợp với thân chính một góc nhọn. Cành ñực không trực tiếp mang quả. Cành quả thường mọc từ nách lá thật thứ 5, 6 trở lên. Các giống chín sớm, vị trí này thường thấp hơn giống chín muộn. Cành quả sinh trưởng theo mầm nách, do ñó cành có dạng gãy khúc chữ chi. Cành quả hợp với thân chính thành một góc lớn. Số lượng cành quả thường từ 15 - 30 cành. - Lá: gồm hai loại: lá mầm và lá thật. Lá mầm có hình dạng giống vỏ sò nên còn gọi là lá sò. Sau khi lá sò xòe một thời gian thì lá thật xuất hiện. Thời gian này tùy thuộc giống và ñiều kiện canh tác. Những lá thật ñầu tiên có hình tim không có khía. Thường lá thật thứ 5, 6 trở ñi mới có khía, mỗi lá có 2, 4, 6 khía chia phiến lá ra làm 3, 5, 7 thùy. Hình dạng lá tùy thuộc vào giống. Các lá trên thân chính có kích thước lớn hơn các lá ở cành. Các lá ở phần gốc lớn hơn các lá ở phần ngọn. Lá có nhiều hạch Gossypol và nhiều lông. Lông ở mặt dưới nhiều hơn lông ở mặt trên và ở gân lá nhiều 13 hơn phiến lá. Lá của bông Luồi (Gossypium hirsutum. L) thường có lông, còn ở Bông Hải ñảo (Gossypium barbadense) ít hoặc không có lông. Mặt trái của gân chính cách cuống lá 1/5 có tuyến mật. Một số giống bông có tuyến mật nằm trên gân phụ, một số giống khác hoàn toàn không có. - Nụ, hoa: Nụ bông ñầu tiên xuất hiện trên cành quả thứ nhất. Nụ có hình tam giác cân, với 3 mặt có 3 tai nụ (lá bắc) che các bộ phận bên trong, còn phía trong nụ là mầm hoa nhỏ. Mặt dưới nụ dính với cuống. Hoa thuộc loại hoa lưỡng tính, tự thụ phấn là chính. Hoa bông bao gồm: cuống, tai, ñài, tràng, nhị và nhụy. Mỗi hoa có 3 tai, tai có nhiều răng, bao chân hoa. Tràng gồm 5 cánh hoa lớn. Chân cánh hoa liên kết với ống nhị ñực. Màu sắc cánh hoa trắng hoặc vàng tùy thuộc vào giống bông. Mỗi hoa có khoảng 30 - 100 nhị ñực. Chân nhị kết lại với nhau tạo thành ống nhị. Mỗi nhị gồm có 2 bộ phận: chỉ nhị và bao phấn. Chỉ nhị cắm vào một chỗ lõm dưới bao phấn. Trong bao phấn có nhiều hạt phấn. Hạt phấn hình cầu và bề mặt của nó có nhiều gai. Nhụy hoa bao gồm: ñầu nhụy, trụ và bầu hoa. Bầu hoa hình trứng, có nhiều tâm bì. Giữa mỗi tâm bì có một vách ngăn, chia tâm bì thành hai nửa ngăn. Thường bầu hoa có 3 - 5 ngăn. Mỗi ngăn có 2 hàng phôi châu. Bông luồi có khoảng 7 - 11 phôi châu, phôi châu này sau khi thụ tinh phát triển thành hạt. Ở chân hoa phía ngoài, chỗ 2 tai giáp nhau có 3 tuyến mật gọi là tuyến mật ngoài ñài hoa, ở phía trong ñài hoa còn có một vòng tuyến mật. - Quả: Thuộc loại quả nang, có hình cầu tròn hoặc hình trái tim có chóp nhọn. Mặt quả có màu xanh và lấm tấm những hạch Gossypol. Mỗi quả có 3 - 5 múi. Mỗi múi gồm nhiều ánh bông, ánh bông gồm có hạt và sợi bao quanh. Mỗi múi bông có khoảng 6 - 9 hạt. - Hạt: Gồm có: lông áo, vỏ, nhân (nội nhũ, phôi). Hạt có màu nâu ñen, hình bầu dục, một ñầu nhọn. Trên vỏ hạt, xơ bông ngắn bám vào, riêng bông hạt nhẵn không có xơ ngắn. Vỏ hạt gồm có: tầng biểu bì, tầng sắc tố ngoài, tầng tế bào không màu sắc, tầng tế bào hình giậu, tầng sắc tố trong và tầng màu trắng sữa. Nhân hạt do lá mầm, thai rễ, thai mầm và thai trục hợp thành. - Xơ: Bao quanh hạt bông có hai loại xơ là xơ ngắn (lông áo) và xơ dài. Xơ dài là một tế bào rất lớn, dài 12 - 60 mm, khi chín thì ruột rỗng, dẹt và xoăn lại. 14 1.3.2 Đặc ñiểm sinh lý Khi nghiên cứu sinh lý cây bông, Lý Văn Bính và Phan Đại Lục (1991) cho rằng: ruộng bông cao sản có ñỉnh cao nhất về diện tích lá vào khoảng 25 ngày sau khi nở hoa (thời kỳ ñậu quả). Thời gian này, cây bông chuyển từ sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Diện tích lá ñược duy trì ở mức khá cao khoảng 30 ngày (LAI ổn ñịnh ở mức trên dưới 3), sau ñó giảm dần và ñến khi quả nở, LAI ñạt gần 1,5 [3]. Sự phân bố quả trên cây bông phụ thuộc vào giống và ñiều kiện canh tác, nhưng nhìn chung tỷ lệ ñậu quả giảm dần theo thứ tự cành quả từ gốc lên ngọn. Tỷ lệ ñậu quả của cành thứ nhất là 70% và của cành thứ 13 giảm xuống còn 1020% (Saimaneerat A. và ctv, 1994) [33]; Chu Hữu Huy và cs (1991) cho rằng: nụ và quả thuộc cành quả phía ngọn rụng nhiều hơn nụ và quả thuộc cành quả phía dưới. Trên cành quả, những vị trí xa thân chính rụng nụ, rụng quả cao hơn những vị trí gần thân chính. Tuy nhiên, ở ruộng bông ñất tốt, nếu chăm sóc không thích hợp, cây bông bốc lá thì thấy tình trạng ngược lại (ở cành quả phía giữa và phía dưới rụng nhiều hơn) [12]. Nghiên cứu về sự phân bố quả trên cây bông, Đinh Quang Tuyến (2004) [27] kết luận: các giống bông Luồi có số quả tập trung chủ yếu trên cành quả, phân bố theo quy luật giảm dần từ gốc ñến ngọn và tập trung ở các vị trí thứ nhất và thứ hai của 13 cành quả ñầu tiên. Số lượng quả ñã ñậu trên cây càng tăng càng làm giảm tỷ lệ ñậu quả của những hoa nở tiếp theo trong ngày. Đồng thời, số lượng quả ñã ñậu trên cây là nhân tố chính hạn chế tỷ lệ ñậu quả diễn ra hàng ngày của cây bông (Vũ Xuân Long, 1999) [15]. 1.3.3 Yêu cầu sinh thái * Yêu cầu về khí hậu - Nhiệt ñộ: Bông là cây ưa nóng, nhiệt ñộ thích hợp cho cây bông sinh trưởng khoảng 25 - 300C. Tùy theo thời kỳ sinh trưởng, phát triển mà yêu cầu về nhiệt ñộ khác nhau. Nhiệt ñộ quá cao hoặc quá thấp ñều ảnh hưởng không tốt ñến sinh trưởng của cây bông. Nhiệt ñộ lớp ñất mặt từ 2 - 40C trong vài giờ làm 15 cho cây bông chết. Theo Chu Hữu Huy (1991) [12], khi nhiệt ñộ dưới 150C, chất lượng xơ kém và chín muộn. Khi nhiệt ñộ cao hơn 400C, hạt phấn hoàn toàn mất khả năng thụ phấn, cây bông ngừng sinh trưởng. Khả năng chịu nhiệt ñộ cao còn phụ thuộc vào giống bông. Bông Hải ñảo chịu nhiệt ñộ cao tốt hơn bông Luồi. Theo Mauer (1968), ñặc tính di truyền khó thay ñổi nhất của cây bông là tính ưa nóng của nó. Nhiệt ñộ có vai trò quyết ñịnh ñến tốc ñộ phát dục của cây bông. Nhiệt ñộ càng cao càng rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây bông, các giai ñoạn phát dục rút ngắn lại. Mỗi giống và ngay cả mỗi giai ñoạn phát dục của chúng yêu cầu một tổng tích nhiệt tương ñối ổn ñịnh (Trần Đức Hạnh và ctv, 1997) [10]; (Vũ Công Hậu, 1978) [11]. Nghiên cứu của các tác giả Liên Xô cho thấy: ñể hoàn thành giai ñoạn mọc mầm, các giống thuộc loài bông Luồi cần bình quân 840C, giai ñoạn nụ: 5000C, giai ñoạn hoa: 1.0000C và từ ra hoa ñến nở quả: 7000C (Lê Quang Quyến và ctv, 1998) [22]. - Ánh sáng: Bông là cây ưa ánh sáng mạnh, chịu bóng kém, ñồng thời là cây ngày ngắn. Trong một ngày, lá của cây bông luôn thay ñổi vị trí ñể cho phiến lá luôn vuông góc với các tia chiếu của mặt trời. Khi ánh sáng không ñầy ñủ, quang hợp sẽ giảm và protein sẽ nhiều hơn gluxit. Do ñó, chất dinh dưỡng không ñủ ñể hình thành nụ, quả làm cho sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực mất cân ñối, cây bông dễ bị lốp gây rụng nụ, rụng ñài nhiều. Ngược lại, trong ñiều kiện ánh sáng ñầy ñủ, cây bông sẽ cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Cường ñộ ánh sáng cao sẽ ñẩy nhanh sự phân hóa các cơ quan sinh sản, tăng cường quang hợp, phát triển của nụ, hoa, lá và các cơ quan khác (Krugiulin, 1988). - Nước: Cây bông có ñặc tính chịu hạn khá cao nhờ có bộ rễ phát triển và ăn sâu. Tuy nhiên, ñể sinh trưởng và phát triển bình thường, cho năng suất và phẩm chất tốt cây bông ñòi hỏi phải có chế ñộ nước thích hợp. Bông Luồi chịu hạn tốt hơn bông Cỏ. Nhu cầu nước của cây bông thay ñổi rất lớn tùy theo giai ñoạn sinh trưởng, phát triển. Ở giai ñoạn cây con, cây bông cần ít nước (10 - 12 m3 nước/ngày/ha), ở giai ñoạn nụ, hoa cây bông cần nhiều nước cho sự tổng hợp, tích lũy dinh dưỡng và bốc hơi (giai ñoạn nụ cần 30 - 35 m3 nước/ngày/ha, giai 16 ñoạn hoa 90 - 100 m3 nước/ngày/ha). Ở giai ñoạn nở quả, nhu cầu về nước của cây bông giảm xuống (30 - 40 m3 nước/ngày/ha). Cả vụ của cây bông cần 5.000 - 8.000 m3 nước/ha (Lê Quang Quyến và ctv, 1998) [22]. Mặc dù, cây bông cần nhiều nước nhưng lại không chịu ñược úng. Khi bị úng, ñất thiếu oxy, sự hô hấp của rễ bị trở ngại, quá trình trao ñổi ion bị ñình trệ, rễ ngừng sinh trưởng và có thể chết. Cây bông yêu cầu ẩm ñộ không khí thấp. Nếu ẩm ñộ không khí cao, nấm bệnh dễ xâm nhiễm, cây bông dễ bị rụng nụ, rụng ñài, quả bông dễ bị thối, chín muộn và khó nở quả (Hoàng Đức Phương, 1983) [21]. * Yêu cầu về ñất ñai Cây bông có thể trồng trên nhiều loại ñất khác nhau. Tuy nhiên, bông sinh trưởng tốt trên những loại ñất giàu mùn, có cấu tượng viên bền vững, thành phần cơ giới trung bình, thoát nước tốt, tầng canh tác dày. Mặt khác, cây bông chịu úng kém, do ñó ñất trồng bông phải có ñịa thế cao ráo (Hoàng Đức Phương, 1983) [21]. Trên ñất chua (pH: 4,5) và ñất mặn sẽ giảm năng suất bông rất lớn. Độ pH thích hợp nhất cho cây bông là 6,5 - 7,5 (Lê Quang Quyến và ctv, 1998) [22]. Theo Mauer, Bông Luồi (Gossypium hirsutum) ưa pH cao (pH > 7), bông Cỏ (Gossypium arboreum) ưa pH thấp hơn 7, bông Hải ñảo (Gossypium barbadense) dễ tính hơn với phản ứng môi trường ñất (dẫn theo Lê Công Nông và ctv, 1998) [20]. * Yêu cầu dinh dưỡng Cây bông cũng như các cây trồng khác cần rất nhiều nguyên tố dinh dưỡng, trong ñó các nguyên tố ña lượng như: N, P, K chiếm hàm lượng lớn, có nhiều trong hạt và lá, kế ñến là trong thân và quả, rất ít trong xơ. Theo Berger (1969) ñể ñạt năng suất 2,5 kiện/ha (1 kiện = 220 kg) cây bông lấy ñi từ ñất là: 40 kg N; 16 kg P2O5; 17 kg K2O; 7 kg MgO và 4 kg CaO/ha. Khi năng suất là 7,5 kiện/ha thì lượng dinh dưỡng lấy ñi là: 125 kg N; 50 kg P2O5; 52 kg K2O; 22 kg MgO và 13 kg CaO/ha (Lê Công Nông, 1998) [20]. Vai trò của một số nguyên tố ñối với cây bông như sau: - Nitơ (N): là chất cây bông cần ñể sinh trưởng và phát dục, là thành phần cấu tạo nên protein, acid nucleic, diệp lục tố, các loại men và các loại sinh tố... 17 Không có nguyên tố N thì không thể hình thành protein và không có protein thì không có sự sống. Do ñó, ảnh hưởng của N tới sinh trưởng và phát dục của cây bông hết sức to lớn. Cung cấp phân ñạm ñầy ñủ có thể tăng diện tích lá, hàm lượng protein, diệp lục và các hoạt ñộng sinh lý khác cũng tăng lên, góp phần làm tăng năng suất, tăng chiều dài xơ, hàm lượng protein và dầu trong hạt. Trong từng giai ñoạn sinh trưởng cây bông hút N theo tỷ lệ khác nhau: + Giai ñoạn từ gieo ñến hình thành cây con: 4,4% tổng lượng N. + Giai ñoạn cây con ñến bắt ñầu ra nụ: 12,8% tổng lượng N. + Giai ñoạn ra nụ ñến bắt ñầu hình thành quả: 43,3% tổng lượng N. + Giai ñoạn hình thành quả ñến khi chín: 39,5% tổng lượng N. Thiếu N ảnh hưởng xấu ñến cấu trúc của lục lạp cũng như những hoạt ñộng của nó: Sự phá hũy hoặc không hình thành Thylacoit, hàm lượng diệp lục giảm, hàm lượng và hoạt tính của RuDP- cacboxylaza giảm (Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch, Trần Văn Phẩm, 2000) [25]. Khi thiếu N cây bông sinh trưởng chậm, cây thấp, phiến lá nhỏ, màu nhạt, rụng ñài nhiều, tàn lụi sớm, quả bé và nhẹ, năng suất thấp. Đạm quá nhiều, sinh trưởng dinh dưỡng quá mạnh, phiến lá to và mỏng, lóng dài, cành ñực nhiều, cây cao, ruộng bông rợp, thiếu ánh sáng ngăn cản không khí lưu thông, tạo ñiều kiện thuận lợi cho sâu bệnh tấn công làm cho nụ ít và bé, chín muộn, quả nhỏ và nhẹ, quả thối nhiều, năng suất thấp. - Photpho (P): P là nguyên tố cấu tạo nên acid nucleotic, protein, acid amin và ATP cùng các chất hóa học khác... P tham gia hoạt hoá quá trình quang hợp, nâng cao cường ñộ quang hợp, tăng cường sự hợp thành các chất ñường bột. P là thành phần của men trao ñổi NH4+ và NO3-, tham gia vào quá trình chuyển hóa N có lợi cho việc hấp thu phân ñạm. P xúc tiến bộ rễ phát triển, ñẩy nhanh sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực, làm cho cây bông sớm ra nụ, ra hoa, xúc tiến hạt mau chín, nở xơ, tăng hàm lượng dầu trong hạt, tăng khối lượng quả và ñộ bền xơ. Thiếu P gây ra sự phá hủy các phản ứng quang hóa và phản ứng tối của quang hợp, hạ thấp hàm lượng ñường, tinh bột và protein cần thiết cho quá trình sinh trưởng. Song nếu dư thừa P (2 lần so với bình thường) cũng làm giảm tốc ñộ quang hợp và hoạt tính của RuDP- cacboxylaza. Tác ñộng âm tính của sự dư thừa P có thể 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất