Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ,
huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: hiện trạng
và hướng phát triển
Nguyễn Thị Hạnh
Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Việt Nam học; Mã số: 60 31 60
Người hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Chí Bền
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Khái quát các nét cơ bản nhất về vị trí địa lý, điều kiện dân cư, xã hội, cũng
như lịch sử làng nghề, lịch sử nghề tranh và một số nét văn hóa dân gian, văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của làng nghề Đông Hồ. Nghiên cứu một số đặc điểm về nội
dung, nghệ thuật và quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ ở Việt Nam. Phân tích thực
trạng biến đổi và và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục tình trạng
mai một của nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ hiện nay.
Keywords. Văn hóa dân gian; Tranh Đồng Hồ; Việt Nam học; Văn hóa Việt Nam
Content.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tranh dân gian - di văn hóa quý giá được hình thành qua nhiều thế hệ, nó
không chỉ đáp ứng nhu cầu về tinh thần, tâm linh và cảm thụ mỹ thuật của nhân dân
lao động mà còn chứa đựng những nội dung nhằm giáo dục đạo đức, nhân cách trong
cuộc sống đời thường. Tranh dân gian ở miền Bắc có ba dòng chính: tranh điệp Đông
Hồ (Bắc Ninh), tranh thờ Hàng Trống (Hà Nội), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây cũ),
từ bao thế kỷ qua đã góp vào dòng chảy chung của mỹ thuật dân gian Việt Nam, tạo
nên một vẻ đẹp không thể thiếu được cho lịch sử văn hóa dân tộc.
Làng Đông Hồ từ lâu đã nổi tiếng vùng Kinh Bắc bởi những sắc thái văn hóa
rất riêng và độc đáo như thế. Đồng thời, Đông Hồ còn được biết đến bởi đó là một
trung tâm sản xuất tranh dân gian lớn, là làng nghệ thuật dân gian lâu đời. Tranh khắc
gỗ Đông Hồ là loại hình nghệ thuật tranh dân gian, xuất hiện khá sớm, theo nguồn cơ
sở đáng tin cậy thì ít nhất cũng hơn năm thế kỷ tồn tại. Tranh Đông Hồ đã tồn tại
thực sự trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, là món ăn tinh thần không
thể thiếu được của người nông dân Việt Nam qua nhiều thế kỷ.
Trong quá trình phát triển của mỹ thuật hiện đại Việt Nam, tranh Đông Hồ
chiếm một vị trí đáng kể, là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều họa sỹ và nhà điêu
khắc. Mặc dù Đông Hồ nổi tiếng về sản xuất tranh dân gian và làm hàng mã, song từ
trước đến nay các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến nghề làm tranh, ít quan tâm
1
đến nghề làm mã, hoặc chỉ quan tâm một cách sơ lược, không đặt nó trong bối cảnh
chung hay tương quan với nghề tranh. Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này. Hiện nay, nghề làm tranh ở Đông Hồ đang có nguy cơ mai
một.
Việc khôi phục và duy trì một làng nghề cổ truyền là một vấn đề rất quan trọng,
rất cấp thiết, vừa có ý nghĩa bảo tồn các giá trị truyền thống, vừa là mặt hàng xuất
khẩu quan trọng. Hơn nữa, từ trước đến nay tuy đã có nhiều bài viết về tranh dân
gian Đông Hồ, song chưa có nhiều công trình nghiên cứu trên diện rộng và sâu về
làng Đông Hồ, nhất là từ góc độ văn hóa dân gian với ý nghĩa là một làng nghề
truyền thống với những biến đổi gần đây của một dòng tranh dân gian. Từ những nội
dung khách quan đó, chúng tôi chọn đề tài: Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: Hiện trạng và hướng phát triển làm luận văn
tốt nghiệp cao học của mình.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các nhân tố tự nhiên và xã hội trong quá trình hình thành và phát triển
làng nghề tranh dân gian Đông Hồ. Tìm hiểu những đóng góp của nghề làm tranh
trong việc hình thành sắc thái diện mạo văn hóa làng và giá trị văn hóa nghệ thuật
của nó trong nền văn hóa hiện đại Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu để tìm ra nguồn
gốc lịch sử làng cũng như các nét đặc trưng trong sinh hoạt, phong tục và hội hè, lễ
thức ở Đông Hồ.
Luận văn chúng tôi cũng đi sâu, tập trung làm rõ thực trạng làng nghề làm tranh
hiện nay trước thay đổi của hoàn cảnh.
Chúng tôi còn tập trung vào một số định hướng hay những khuyến nghị để bảo
tồn và phát triển làng Đông Hồ trong giai đoạn hiện nay.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ văn hóa và nghệ thuật, làng tranh Đông Hồ sẽ được nghiên cứu và
khảo sát từ nhiều bình diện khác nhau.
Phần làng: Chúng tôi tập trung tìm hiểu về vị trí địa lý, địa hình, lịch sử, dân
cư, truyền thống văn hóa, di tích lịch sử, hội hè, phong tục tập quán,….
Phần nghề: Tìm hiểu quá trình phát triển của nghề làm tranh qua các thể loại, đề
tài, quy trình kỹ thuật,…Trong đó, luận văn đặc biệt nhấn mạnh về nghề làm tranh,
về lịch sử ra đời cũng như giá trị nghệ thuật và nội dung của tranh dân gian Đông Hồ.
Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát hiện trạng biến đổi của làng tranh và nghề làm
tranh dân gian trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, chúng tôi bước đầu đưa ra một số
khuyến nghị, giải pháp để bảo tồn và phát triển nghề làm tranh dân gian trong tương
lai không xa, đến năm 2020.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Làng nghề là một đề tài khoa học khá hấp dẫn về mặt lý thuyết và thực tiễn nên
từ lâu đã được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ta đã và đang có rất
nhiều hoạt động nghiên cứu cũng như có nhiều dự án khoa học, ấn phẩm về các làng
nghề thủ công nghiệp của các cá nhân, các nhà khoa học…
2
Trước hết phải kể đến các cuốn sử thời phong kiến, như Đại Việt sử ký toàn thư
của Sử quán triều Lê (15), Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử
quán triều Nguyễn [42], hay các sách địa chí (quốc chí, tỉnh chí, xã chí), như Dư địa
chí của Nguyễn Trãi [56], Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn
[43], Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú [11]; các cuốn tỉnh chí, xã
chí… đều nói đến các làng nghề và các sản phẩm nghề ở từng vùng quê trong cả
nước. Đây là nguồn sử liệu quan trọng khi tìm hiểu, nghiên cứu về nghề và làng nghề
truyền thống nói chung.
Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, về các làng
nghề và vùng nghề khác nhau, như ba tập Nghề cổ truyền do Sở Khoa học công nghệ
và Môi trường và Sở VHTT Hải Hưng biên soạn và xuất bản [47], Quê gốm Bát
Tràng của Đỗ Thị Hảo [22], Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề;
Làng nghề, phố nghề Thăng Long- Hà Nội của hai tác giả Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị
Hảo (2000), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn Vượng [67],…
Tác giả Chu Quang Trứ với cuốn sách Tìm hiểu các nghề thủ công điêu khắc
cổ truyền [60]. Tác giả tập trung chú ý giới thiệu các nghề thủ công nghệ thuật hay
còn gọi là thủ công mỹ nghệ, với vấn đề đặt ra là giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá
trong các nghề truyền thống đó. Tác giả Bùi Xuân Đính (chủ biên), Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học, với cuốn sách Làng nghề thủ công huyện Thanh
Oai (Hà Nội)- truyền thống và biến đổi [16]. Gần đây có các công trình sách và bài
viết trên các báo, tạp chí về làng nghề như: 36 làng nghề Thăng Long - Hà Nội của
Lam Khê, Khánh Minh [30]; Nghệ nhân làng nghề Thăng Long Hà Nội của Nguyễn
Thọ Sơn, [48]; 36 nghệ nhân Hà [62]; Các ngành nghề Việt Nam của Vũ Ngọc
Khánh, 2010 [29]; Nghề chổi đót ở Phổ Phong của Tạ Doãn Cường, [13]…
Đặc biệt đã có rất nhiều bài viết trên các trang báo điện tử hàng ngày luôn cập
nhật về hiện trạng làng nghề truyền thống, về những đổi thay hay xu hướng vận
động, phát triển của làng nghề nói chung và làng tranh Đông Hồ nói riêng như: Bài
“Tranh xuân, mời đến Đông Hồ” trên trang điện tử Vietbao.vn, đăng ngày 11/2/2005.
Bài “Chơi tranh và sống bằng tranh” cũng trên trang điện tử Vietbao.vn – Mạng
thông tin Việt Nam ra thế giới- đăng ngày 21/5/2007. Bài “Dung dị làng tranh Đông
Hồ” đăng trên báo điện tử Thanh Niên online- diễn đàn của Hội liên hiệp Thanh niên
Việt Nam, ngày 17/2/2010, chuyên mục “Văn hóa- nghệ thuật….
Thời Pháp thuộc, tranh dân gian đã được các học giả nước ngoài quan tâm,
tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt là các học giả người Pháp, Đức, Nga. Trong số đó,
phải kể đến công lao đóng góp của học giả người Pháp là Maurice Durand. Sau
nhiều năm nghiên cứu, ông tập hợp tư liệu để in thành cuốn sách lấy tiêu đề là
Tranh dân gian Việt Nam (Imagerie populaire Vietnamienne, Paris, 1960), sách
dầy gần 500 trang. Một cuốn sách đặc biệt quan trọng khác của tác giả Henri Oger
(tái bản 2009)- Technique du people annamite- Mechanics and Crafts of the
Annamites - Kỹ thuật của người An Nam, tập I, II, III, [19].
Từ khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, tranh dân gian Việt Nam được giới
thiệu rộng rãi ở trong và ngoài nước. Hơn 40 năm qua, đã có rất nhiều bài viết, các
3
cuốn sách về tranh dân gian nói chung, tranh dân gian làng Đông Hồ nói riêng. Nhà
nghiên cứu Nguyễn Bá Vân có công sưu tầm một hệ thống thư mục các sách, báo, tạp
chí nói về tranh dân gian, với số lượng khá lớn. Cuốn Tranh dân gian Việt Nam của
hai tác giả Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ xuất bản năm 1984 [63], là cuốn sách
đầu tiên mang tính hệ thống về đề tài này do người Việt Nam biên soạn, sách dầy 120
trang. Nội dung các công trình, bài viết đã công bố đề cập nhiều vấn đề khác nhau
như: nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa, các thể loại, tinh thần dân tộc,… Tuy nhiên, hầu
như chưa có cuốn sách nào khảo sát chuyên sâu về Đông Hồ từ góc nhìn văn hóa dân
gian với tư cách là một làng nghề truyền thống đang trên đà biến đổi.
Như vậy, thực tế nghiên cứu về làng xã, làng nghề nói chung và làng nghề tranh
dân gian Đông Hồ nói riêng rất đa dạng, phong phú về đề tài, thể loại. Điểm qua một
cách khái quát những công trình đi trước có thể giúp cho luận văn có được tính hệ
thống và sự kế tục lịch sử nghiên cứu. Tiếp nối truyền thống quý báu đó, luận văn sẽ
vừa kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó làm nguồn tư liệu quý, đồng thời vừa
có đóng góp mới cho tư liệu nghiên cứu nói chung.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu khoa học xã hội bao
gồm các phương pháp cụ thể và phương pháp liên ngành.
Các phương pháp khoa học cụ thể được sử dụng trong luận văn bao gồm:
Phương pháp tiếp cận thu thập thông tin; Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Tác giả
đi vào phân tích tài liệu dựa trên các kết quả, công trình nghiên cứu của đồng
nghiệp đi trước, như các tài liệu từ nguồn tạp chí và báo cáo khoa học trong ngành,
tác phẩm khoa học, tạp chí và báo cáo khoa học ngoài ngành, tài liệu lưu trữ, thông
tin đại chúng v...v; Phương pháp thực nghiệm: quan sát, điều tra tại cộng đồng làng
xóm của Đông Hồ.
Phương pháp liên ngành được sử dụng đó lµ sự kết hợp giữa phương pháp địa
văn hóa và phương pháp vùng văn hóa. Kết quả thu được từ những phương pháp độc
lập như điền dã, khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu,… Chúng tôi sử dụng tư duy lô gic
và phương pháp tổng hợp để nghiên cứu, mong muốn làm rõ làng Đông Hồ là một
đối tượng nghiên cứu thuộc vùng văn hóa cụ thể, vùng Kinh Bắc, có lịch sử truyền
thống lâu đời, trải qua bao biến đổi thăng trầm, đến nay, làng Đông Hồ vẫn đứng
vững và phát triển trong xu thế chung của thời đại.
5. Đóng góp của đề tài
Bước đầu, luận văn trình bày về lịch sử ra đời, phát triển của dòng tranh dân
gian Đông Hồ trong bối cảnh lịch sử của tranh dân gian Việt Nam, góp tiếng nói
riêng trong nghiên cứu tranh dân gian nước ta. Luận văn còn nêu rõ thực trạng làng
nghề, nghề làm tranh và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục tình
trạng mai một của nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ hiện nay.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm có 3 chương:
4
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và khái quát làng tranh dân gian Đông Hồ.
Chương 1 của luận văn nêu lên một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận văn
và điểm qua các nét cơ bản nhất về vị trí địa lý, điều kiện dân cư, xã hội, cũng như
lịch sử làng nghề, lịch sử nghề tranh và một số nét văn hóa dân gian, văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần của làng nghề Đông Hồ.
Chƣơng 2: Tranh dân gian Đông Hồ.
Nội dung chính của chương này nêu khái quát một số đặc điểm về nội dung,
nghệ thuật và quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ.
Chƣơng 3: Thực trạng biến đổi và định hƣớng phát triển làng tranh dân gian
Đông Hồ đến năm 2020.
Chương 3 gồm hai phần, phần 1 nêu lên một số thực trạng của nghề làm
tranh và làng nghề Đông Hồ; phần 2, luận văn đi sâu phân tích một số giải pháp,
kiến nghị để bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ.
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LÀNG TRANH DÂN GIAN
ĐÔNG HỒ
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm “làng nghề”
Nhóm tác giả Mai Thế Hởn, GS. TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ Văn Phúc
đã tổng hợp ba quan niệm về làng nghề [26; tr 11,12]:
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều
hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đấy
không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công,
nhiều khi cũng là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hóa cao đã
tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng
nghề hay phố nghề ở nơi khác.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các
nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên
kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh
nghiệp vừa và nhỏ, và có cùng tổ nghề.
Từ ba quan niệm trên chúng ta có thể thấy khái niệm về làng nghề đều liên
quan đến các nghề thủ công cụ thể. Nhóm tác giả từ đó đã tóm lược bằng một định
nghĩa, mà chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm này: Làng nghề là một cụm dân
cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông
nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao
trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [26; tr 13].
1.1.2 Khái niệm “nghề thủ công truyền thống”
Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006, mục giải thích từ ngữ có
ghi rõ: Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản
phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có
nguy cơ bị mai một, thất truyền [52; theo website: www.vca.org.vn]. Chúng tôi đồng
tình với quan điểm về nghề truyền thống này.
5
1.1.3 Khái niệm “làng nghề truyền thống”
Nhóm tác giả Mai Thế Hởn, GS. TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ Văn Phúc
đã nêu ra định nghĩa: “Làng nghề truyền thống là những thôn làng có một hay nhiều
nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và
đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó
được truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của
thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền,
tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã
chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề
đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị trường” [26; tr
15]. Chúng tôi đồng tình với định nghĩa này về làng nghề truyền thống.
1.1.4 Khái niệm “tranh dân gian”
Có nhiều cách hiểu khác nhau về tranh dân gian Việt Nam. Theo định nghĩa của
vi.wikipedia.org: Tranh dân gian Việt Nam là một loại hình mỹ thuật cổ truyền của
dân gian Việt Nam… Tranh ra đời để đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người
dân, gắn bó chặt chẽ với đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã. Tranh dân
gian cũng phản ánh những gì gần gũi, thân thiết với người dân hay cả những điều
thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ. Có cách hiểu khác khá đơn giản: tranh dân
gian là loại tranh được lưu hành rộng rãi trong dân gian…[blogspot.com]. Một định
nghĩa khác của ông Philippe Le Failler, “Tranh dân gian Việt Nam được hiểu là
những tranh khắc làm từ những bản khắc gỗ được trang trí và đôi khi được tô điểm
thêm những câu chú giải viết tay để tạo ra nhiều tranh có đề tài khác nhau…” [41, tr
28, 29].
1.1.5 Khái niệm “du lịch làng nghề”
Du lịch làng nghề trong những năm gần đây đang được xem là một loại hình du
lịch “homestay” được nhiều nước trên thế giới và một số điểm trong nước áp dụng
rất hiệu quả. Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó vụ trưởng, Vụ Lữ hành, Tổng cục Du lịch
cho rằng: Làng nghề truyền thống được xem như một dạng tài nguyên du lịch nhân
văn có ý nghĩa đặc biêt quan trọng, bởi các sản phẩm của nó luôn bao hàm cả giá trị
vật thể và phi vật thể [theo hiephoilangnghevietnam.apps.vn]. Như vậy, du lịch làng
nghề là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi các
sản phẩm của nó luôn bao hàm cả giá trị vật thể và phi vật thể. Ở đó, du khách không
chỉ đến xem, tham quan, mua sắm, mà còn được trực tiếp tham gia các công đoạn sản
xuất thủ công và tự trải nghiệm, khám phá.
1.2 Khái quát làng Đông Hồ
1.2.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Làng Đông Hồ cách Hà Nội khoảng 35km. Theo đường Quốc lộ 5 khoảng
14km rẽ trái, đi qua các phố Sủi, phố Keo, phố Dâu, đến ngã tư Đông Côi rẽ trái, đi
thẳng, khoảng 3km sẽ tới phố Hồ (thị trấn Hồ), tiếp tục rẽ trái khoảng 1km là tới làng
Đông Hồ.
6
Đông Hồ là một làng nhỏ, nằm bên sông Thiên Đức (sông Đuống)1, bên cạnh
đường giao thông nối xứ Bắc (Hà Bắc cũ) với xứ Đông (Hải Dương), là hai vùng đất
cổ trù phú của châu thổ sông Hồng. Làng Đông Hồ cách bến phà Hồ 500m theo
đường chim bay, về phía Đông, thuyền bè xuôi ngược cập bến thuận tiện. Phía Đông
của làng giáp thị trấn Hồ, phía Tây giáp xã Đại Đồng Thành, phía Nam giáp xã Gia
Đông, phía Bắc nằm dọc theo đê sông Đuống. Vị trí này của làng Đông Hồ khá thuận
lợi cho việc giao thông, giao thương với những vùng xung quanh, trong đó có thủ đô
Hà Nội.
Xét về vị trí địa lý- lịch sử, Đông Hồ nằm trong một quần thể các di tích lịch
sử nổi tiếng vùng Kinh Bắc. Phía Bắc làng là sông Thiên Đức, tiếp giáp với xã Đại
Đồng Thành có đền thờ Kinh Dương Vương, cách đó khoảng 1km là chùa Bút Tháp.
Phía Tây Nam có thành Luy Lâu và chùa Dâu, là trung tâm Phật giáo lớn thời Bắc
thuộc. Phía Nam giáp đồng ruộng, theo đường chim bay hơn 3km nhìn thẳng sang là
làng Tam Á, có lăng Sĩ Nhiếp, phía Đông có núi Thiên Thai. Như vậy, Đông Hồ nằm
ở trong quần thể di tích lịch sử văn hóa có quy mô to lớn và phong phú vào bậc nhất
nước ta trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Đó là khu di tích lịch sử- văn
hóa Luy Lâu. Luy Lâu đã từng là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự và thương mại
của quận Giao Chỉ và Châu Giang dưới thời Bắc thuộc. Luy Lâu cũng là một trong
ba trung tâm văn hóa, trung tâm Phật giáo lớn ở phương Đông trong thời đế chế Hán.
1.2.2 Cơ cấu dân cư
Theo địa giới hành chính hiện nay, xã Song Hồ gồm 4 thôn: Đông Khê, Đạo
Tú, Tú Tháp và Lạc Hoài. Thôn Đạo Tú còn gọi là làng Đạo Tú, thôn Tú Tháp gọi
là làng Tháp và thôn Lạc Hoài còn gọi là Ấp Hồ.
Thôn Đông Khê gồm 4 đội sản xuất (còn gọi là 4 xóm). Đội 1 và đội 2 thuộc
làng Đông Hồ cũ. Đội 3 thuộc làng Khê cũ. Đội 4 thuộc làng Đạo Tú.
Tính đến cuối năm 1999, toàn xã có 4799 nhân khẩu, đều là dân tộc Kinh - (ứng
với 1078 hộ, trong đó có 2.032 lao động) và 464 mẫu diện tích đất tự nhiên và đất
canh tác. Trong đó Đông Hồ chỉ có 748 nhân khẩu (183 hộ) với diện tích đất canh tác
là 224 000 m2. So sánh diện tích đất canh tác với số nhân khẩu ở Đông Hồ có thể
tính được bình quân diện tích đất canh tác, chưa được 1 sào (gần 300m2/ người; 1
sào Bắc Bộ = 360m2) cho một đầu người. Theo số liệu năm 2002, diện tích đất tự
nhiên là 335,85 ha, trong đó đất canh tác nông nghiệp là 215,86 ha, đất ở là 18,35 ha,
các loại đất khác là 103,64 ha.
1.2.3 Lịch sử hình thành làng Đông Hồ
1.2.3.1 Lịch sử và tên gọi làng Đông Hồ
Không có một tài liệu, văn bia nào ghi chép về quá trình hình thành và phát
triển của các làng xã Song Hồ cũng như làng Đông Hồ thời cổ. Song qua những hiện
vật cổ, văn bia, những huyền tích, truyền thuyết, phong tục tập quán….hiện có, bước
đầu chứng minh một thời mở đầu khai phá, tạo lập lên những làng xóm hôm nay.
1
Sông Đuống là một nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh làm hai phần: Nam và Bắc
7
Làng Đông Hồ2 được dân gian gọi là làng Hồ, xưa có tên là làng Đông Mại,
gọi nôm là làng Mái, thuộc tổng Hồ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc. Năm 1469,
dưới triều Lê Thánh Tông, vùng đất Song Hồ thuộc huyện Siêu Loại, phủ Thuận An,
trấn Kinh Bắc. Đến thời Nguyễn, khoảng năm 1862, phủ Thuận An đổi tên thành phủ
Thuận Thành, vùng đất Song Hồ thuộc huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, trấn Kinh
Bắc. Tháng 10 năm 1895, thực dân Pháp chia trấn Kinh Bắc thành hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang, vùng đất Song Hồ nằm trong tổng Đông Hồ, phủ Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh. Cuối những năm 30 của thế kỷ XX, tổng Đông Hồ còn được bổ sung thêm
ấp Lạc Đạo. Ấp này do Vũ Đình Khôi và Đỗ Đình Tích lập ra [6, tr.13].
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng được thành
lập, tổng Đông Hồ được tách ra thành 3 xã: xó Tỳ Hồ- gồm các làng: Đông Hồ, Tú
Khê, Đạo Tú, Xuân Tú và Tú Tháp; xó Bắc Hồ- gồm các làng: Chương Xá, Lạc
Thổ, Lạc Đạo; xó Đông Côi- gồm các làng: Cả, Lẽ và Ấp Đông Côi.
Ngày 27-10-1962, Quốc hội khóa II ra Nghị quyết hợp nhất hai tỉnh Bắc NinhBắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, từ ngày 1-4-1963, xã Tú Hồ, Bắc Hồ và Đông Côi
thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
Ngày 6-11-1996 kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã ra quyết định phê chuẩn
việc tái lập hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang, từ ngày 1-1-1997 xã Song Hồ thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Thực hiện Nghị định số 13/CP, ngày 18-2-1997
của Chính phủ, từ tháng 7 năm 1997, các thôn Lạc Thổ (Lạc Thổ Nam, Lạc Thổ
Bắc), Chương Xá, Phố Hồ của xã Song Hồ được chuyển về thành lập Thị trấn Hồ,
còn lại 4 thôn Đông Khê, Đạo Tú, Tú Tháp và Lạc Hoài thuộc xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh [6; tr 13, 14].
1.2.3.2 Lịch sử nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
Về thời điểm xuất hiện của tranh dân gian, chúng tôi nghiêng về ý kiến tranh
dân gian xuất hiện khoảng thế kỉ XVI, XVII bởi những lí do sau:
Thứ nhất, tư liệu trong cuốn Phong thổ Hà Bắc thời Lê [18] và cuốn Bắc Ninh
phong thổ tạp kí [5] đều không nhắc đến nghề làm tranh, chỉ nói tới nghề làm mã.
Nghề mã có tồn tại truyền thuyết về tổ nghề, trong gia phả của dòng họ Nguyễn Đăng
có bài văn tế tổ sư công nghệ giấy mã. Những cứ liệu về nghề làm mã ở Đông Hồ có
thể cho chúng ta nghĩ rằng nghề làm mã ở đây có trước nghề làm tranh. Một số người
cao tuổi ở Đông Hồ cũng nói điều này. Do đó nghề làm tranh phải có sau thời Lê sơ
(thế kỉ XV).
Thứ hai, bài thơ Tứ thời khúc vịnh [27, tr 577] của Hoàng Sĩ Khải (khoảng thế
kỉ XVI) có nói đến phong tục dán tranh vẽ gà để yểm trước cửa ra vào trong những
ngày Tết. Mặt khác, hai tác giả Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ trong cuốn Tranh
dân gian Việt Nam ghi rõ: Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Đăng, họ này đã hành
nghề in tranh ở đây được 20 đời, tức vào khoảng trên dưới 500 năm, gần với thời
gian Hoàng Sĩ Khải nói đến các bức tranh Gà, tranh Chung Quỳ và Bùa Đào [63, tr
34]. Như vậy, mốc thời gian 20 đời hay 500 năm tương ứng với thế kỉ XVI, XVII.
2
Đông Hồ theo chữ Hán nghĩa là Hồ ở phía Đông.
8
Thứ ba, thế kỉ XVI, XVII xu hướng thẩm mỹ dân gian phát triển thể hiện rõ ở
các loại hình nghệ thuật. Nhiều ngôi đình dựng vào nửa sau thế kỉ XVII, và đầu thế
kỉ XVIII có nhiều hình chạm mà đề tài và cách thể hiện gần với tranh Đông Hồ như:
Đánh ghen, đánh vật, hình gà, lợn, chuột, mèo, cá… Những điểm trên cho phép
chúng ta suy luận về sự xuất hiện tranh dân gian ở thời điểm này.
Trong cuốn Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề viết: “Dựa
vào các thư tịch cổ thì chắc chắn rằng nghề in mộc bản đã khá thịnh hành ở nước ta
vào thế kỉ XII” [68, tr 135].
Qua đây có thể thấy, ở những thế kỉ trước, tranh khắc gỗ chiếm một vị trí quan
trọng trong đời sống tôn giáo, song, nó chỉ tham gia vào việc thể hiện những bản kinh
Phật, in sách hoặc tranh thờ. Có lẽ phải đến thế kỉ XVI, XVII tranh khắc gỗ mới hình
thành phong cách rõ ràng và được phổ cập rộng rãi trong nhân dân.
1.2.4 Di tích lịch sử văn hoá
1.2.4.1 Đình làng
Đình làng thờ vị Đức Ông, hiệu là Phổ Tế Trấn Bắc Đại Vương. Đình được
dựng ở phía Bắc của làng. Hướng đình nhìn ra sông Thiên Đức, xung quanh là đồng
ruộng. Trước mặt là giếng đình hình bán nguyệt và hồ ao.
Về mặt kết cấu, đình có 7 gian bái đường và 2 gian hậu cung để thờ và cúng
thành hoàng làng. Ngay trước ban thờ hậu cung có tấm hoành phi đề: Vạn cổ hương,
nghĩa là làng có từ lâu. Hai bên đình có 2 giải vũ, sau này hai bên giải vũ bị phá đi.
Khoảng năm 1970, hai gian hồi bái đường cũng bị dỡ bỏ vì công trình đã bị xuống
cấp. Từ đó đình chỉ còn 5 gian và hậu cung.
Hai bên giải vũ của đình hiện nay đã được thay thế bằng hai dãy nhà mới. Dãy
bên phải xây nhà 4 gian, hoàn thành năm 1999, làm phòng lưu niệm và trưng bày
tranh dân gian khi hội làng. Dãy bên trái xây 3 gian, hoàn thành năm 2001, làm nhà
thờ Tổ và cúng chúng sinh trong dịp hội làng.
Tam quan đình và giếng hình bán nguyệt trước cổng đình được xây dựng vào
năm Quý Mùi (1943) do ông Chánh Tổng Tuynh, dòng họ Lê đảm nhiệm.
Đình làng Đông Hồ có nét đặc sắc không chỉ ở kiến trúc và nghệ thuật trang trí,
mà đình còn gắn liền với việc mua bán tranh xưa kia. Do đó đình làng còn được gọi
là chợ đình tranh. Chợ tranh họp tại đình, có 5 phiên một tháng vào các ngày 6, 11,
16, 21 và 26 tháng Chạp âm lịch. Đến phiên chợ, khắp trong và ngoài đình rực rỡ bởi
màu sắc của tranh. Tranh treo lên dây, vắt lên tường, bày trên chiếu cói, người bán,
kẻ mua đông vui tấp nập. Do đó chợ tranh còn được gọi là hội tranh. Năm 1993, đình
được nhà nước xếp hạng di tích, cũng bởi đình gắn với di tích chợ tranh và nghề
tranh truyền thống của làng.
1.2.4.2 Nghè
Trước đây Tổng Đông Hồ có một ngôi nghè lớn hơn cả đình làng. Kiến trúc
nghè gồm 19 gian, cũng thờ tướng Cao Biền. Dãy nhà chính gồm 5 gian với 3 gian
hậu cung. Trước sân nghè có tòa nhà tiền tế (5 gian), hai bên có hai dãy giải vũ (mỗi
dãy 3 gian nối với nhà chính). Vị trí của nghè nằm ở bãi nghĩa trang hiện nay. Sau đó
nghè bị phá để lấy gỗ làm cầu qua mương, lấy gạch xây các công trình khác. Khi
9
cúng ở nghè bao giờ đồ cúng cũng là thịt lợn sống và xôi trắng. Điều này thật khó lí
giải, đồ lễ cúng như vậy có ý nghĩa gì. Trong những ngày hội làng, ở nghè chỉ thắp
hương, không có nghi lễ nào liên quan đến lễ hội.
1.2.4.3 Đền
Theo thần tích, thần sắc của làng Đông Hồ, đền làng thờ bà Diệu Linh tiên
chúa. Trước đây, đền cũng ở ngoài bãi sông Thiên Đức, sau chuyển vào làng mới, tức
vị trí hiện nay. Ngôi đền cũ chỉ có hậu cung và nhà tiền tế nhỏ không có hồi. Cho đến
nay đền đã qua bốn lần tu sửa:
Lần thứ nhất, sửa lại hậu cung (1993)
Lần thứ hai, xây lại sân và tường bao quanh (1995)
Lần thứ ba, xây lại 3 gian tiền tế và một chái nhà (1996)
Lần thứ tư, xây thêm 3 gian nhà khách (2000)
Ở phía ngoài sân đền có lầu để thờ Cô, Cậu từ xưa nhưng được xây lại cùng với
thời gian xây nhà khách. Người dân ở đây cho biết, đền có từ lâu đời và rất linh
thiêng. Hàng tháng, cứ ngày rằm và mùng một dân làng và các vùng lân cận đến đây
tế lễ đông. Song đáng tiếc, hiện nay tượng thờ ở đền đều là tượng mới. Những pho
tượng cũ đã bị nhấn chìm xuống ao cùng thời gian phá Nghè và chùa.
1.2.5 Đời sống văn hóa tinh thần làng Đông Hồ
1.2.5.1 Giai thoại, truyền thuyết về vị thần Thành hoàng làng Đông Hồ
Trong thần tích- thần sắc của làng Đông Hồ có ghi lại như sau: Làng thờ 2 vị: Vị
Đức ông hiệu là Phổ Tế Trấn Bắc Đại Vương, không có tên húy. Vị Đức bà hiệu là
Diệu Linh tiên chúa. Không có tên húy. Các ngài là thiên thần.
Sự tích các ngài không có sách hoặc văn, bia nào ghi, chỉ lưu truyền trong dân
gian truyền thuyết như vậy [65, tr 504-505].
1.2.5.2 Giai thoại, truyền thuyết về một số nhân vật ở Đông Hồ
Theo lời kể của cụ Lê Văn Bính, trưởng chi họ Lê thì cụ tổ họ Lê là Lê Quý
Công, tước Dung Vũ Hầu là người vẽ giỏi lại đỗ đạt làm quan to. Những cuộc du
ngoạn của nhà vua ông thường được theo hầu để vẽ phong cảnh, địa thế và được
phong là “Điện tiền tiên xa cách” [31; tr 20 ].
1.2.5.3 Hoạt động lễ hội truyền thống
- Hội làng:
Hội làng là một hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian của làng Đông Hồ. Xứ
Kinh Bắc vốn là vùng có hội nổi tiếng cả nước, với nhiều hình thức hoạt động hấp
dẫn. Ở vùng đất Song Hồ xưa cũng có khá nhiều hình thức hoạt động hội hè nổi
tiếng một vùng, như hội lên đồng, xuống đồng, hội thi mã, thi thả chim…
Hội lên đồng, xuống đồng là một sinh hoạt văn hóa gắn liền với những người
làm nông nghiệp. Bắt đầu từ những sinh hoạt tín ngưỡng, hội làng ngày càng phát
triển và cuối cùng những ngày hội này đã trở thành những ngày “ra quân sản xuất”
hay ngày “tổng kết” thời vụ của người lao động. Đây là sinh hoạt tín ngưỡng, đồng
thời là sinh hoạt văn hóa dân gian của những người làm nông nghiệp. Vì thế các hoạt
động này được bảo lưu một cách chắc chắn trong sinh hoạt làng xã thời xưa.
10
Hội thi mã là một sinh hoạt tinh thần nhưng mang đậm tính nghề nghiệp của
những người làm mã Đông Hồ. Hội được tiến hành từ ngày 14 đến hết ngày 18 tháng
3 âm lịch hàng năm. Hội mã, tên chữ là “Kỳ Yên”, nôm na gọi là hội “cầu mát”, với ý
nghĩa là cúng tế trời đất để cầu cho dân làng được bình an, thịnh vượng và mạnh
khỏe.
Hội làng được tổ chức tại đình (ở Đông Hồ gọi là chợ Đình tranh3). Mặc dù
Đông Hồ nổi tiếng là trung tâm sản xuất tranh dân gian nhưng mọi nghi thức diễn ra
trong hội làng không liên quan đến nghề tranh. Dân làng Hồ không thờ ông tổ nghề
tranh. Do đó nếu nói rằng nghề làm mã có trước nghề tranh không phải là không có
cơ sở.
- Truyền thống trọng người già:
Truyền thống trọng người già (trọng xỉ) là một truyền thống đạo đức vô cùng
quý giá. Khi làng vào đám, các lão làng được ngồi ở khu vực riêng (tòa các cụ), các
cụ cùng với chức dịch trong làng mới được quyền quyết định các công việc trong
làng. Đây còn là sự đan cài, phối hợp giữa lực lượng nhà nước (Hương lý) với quyền
lực truyền thống của cộng đồng làng xã (lão làng). Về địa vị, những cụ nhiều tuổi
cũng được coi ngang như những người có học vị cao (được coi là danh vọng cao
quý). Ở các làng quê khác, cao nhất là ngôi tiên chỉ, nhưng ở Đông Hồ cụ Thượng
(người cao tuổi nhất làng) là cao nhất, sau mới đến ngôi tiên chỉ. Khi làng có việc,
theo quy định của Đông Hồ, cứ 6 người ngồi 1 cỗ. Nhưng đối với cụ Thượng được
ngồi 1 mình 1 mâm. Với các cụ 55 tuổi được bố trí 3 người một cỗ, đến 70 tuổi bố trí
2 người một cỗ, và đến thượng thọ thì một mình một mâm cỗ, lại còn được cả cỗ dựa
(một cỗ làm phần)- ngang như Chánh tổng của làng.
1.2.5.4 Phong tục tập quán
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở Song Hồ nói chung và làng Đông Hồ nói
riêng còn duy trì nhiều phong tục tập quán khác nhau, đó là sinh hoạt đấu cờ thường
tổ chức vào dịp xuân; hội thi chim vào đầu hạ. Những sinh hoạt này là hình thức giải
trí sau những tháng ngày lao động vất vả, đó cũng là dịp đua tài của những cặp kì
phùng địch thủ. Riêng hội thi chim ở Song Hồ còn thể hiện lòng khát khao tự do, hòa
bình của những người dân lao động, là sự kỳ vọng xóm làng yên vui, dân làng tài ba
phóng khoáng, ấm no, phát triển của những người dân Song Hồ phong lưu trong cuộc
sống.
Như vậy, người dân làng Hồ tự hào về những cốt cách văn hóa truyền thống tốt
đẹp tự ngàn xưa và vẫn được lưu giữ đến ngày nay. Đó là phép lịch sự, nếp sống nho
nhã, lòng mến khách và niềm tự hào với các nghề truyền thống. Phong cảnh và con
người nơi đây vẫn mang màu sắc của một làng cổ. Thế hệ những người cao tuổi vẫn
là tấm gương để con cháu noi theo về lối sống trọng tình, thanh lịch, giàu bản sắc văn
hóa.
3
Thời kì phát triển của nghề làm tranh. Từ ngày 6 tháng Chạp đến 26 Tết, chợ tranh được mở tại đình. Từ sân
đình ra khu vực xung quanh, nhiều lều tranh được dựng lên. Trong làng khách xa về mua tại các nhà hoặc ra “chợ
tranh” đông vui nhộn nhịp.
11
Tiểu kết chƣơng 1:
Qua một số nét khái quát về làng Đông Hồ, luận văn muốn nhấn mạnh thêm
rằng, đây là mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống tốt đẹp hơn năm trăm năm.
Có hơn hai mươi dòng họ sinh sống ở đây, nhưng trong cộng đồng làng luôn có tinh
thần đoàn kết, tương thân tương ái rất cao, nhất là trong lao động sản xuất và các
quan hệ xã hội làng xã. Vị trí làng Đông Hồ rất thuận lợi khi nằm bên sông Thiên
Đức (tức sông Đuống), lại gần trung tâm văn hóa lớn-Luy Lâu- có bề dày lịch sử
hàng ngàn năm. Bên cạnh nghề nông làm gốc thì điểm khác biệt là người dân làng
Hồ chủ yếu phát triển nhờ vào nghề thủ công truyền thống, đó là nghề làm mã, nghề
làm tranh, nghề nhuộm giấy….Chính những nghề truyền thống này đã làm nên tên
tuổi của làng Đông Hồ, làng làm tranh dân gian và làm mã nổi tiếng một vùng và quy
mô lớn của Việt Nam.
CHƢƠNG 2: TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
2.1 Một số đặc điểm nội dung tranh dân gian Đông Hồ
Tranh dân gian Đông Hồ phong phú về nội dung xuất phát từ đề tài phong phú.
Để hiểu rõ về nội dung của tranh Đông Hồ, trước hết chúng tôi trình bày về các đề tài
hay cách phân loại của tranh, từ đó có cách nhìn toàn diện và sâu sắc để nêu lên đặc
điểm về nội dung của dòng tranh này.
2.1.1 Về đề tài phong phú
Chúng tôi đã xem xét và thống nhất với cách phân loại của tác giả Nguyễn
Thuần trong bài “Thương nhớ về một làng tranh” [53; tr 102-103]. Có thể chia ra sáu
loại chính:
1- Tranh thờ cúng: Để đáp ứng nhu cầu của tâm linh.
2- Tranh lịch sử: Nhằm đề cao những anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ
nước.
3- Tranh chúc tụng (hay còn gọi là mơ ước đầu năm): Tranh chỉ xuất hiện vào dịp tết
đến xuân về, nên mảng này hết sức phong phú. Chúc cho mọi người, mọi nhà gặp
nhiều điều tốt lành trong năm mới, tiêu biểu như: “Đại cát”, “Vinh hoa”, “Phú quý”;
mong muốn sum vầy, hạnh phúc thì có: “Gà đàn”, “Lợn đàn”.
4- Tranh sinh hoạt: Phản ánh cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, thú vui như: “Đánh
vật”, gây cười như “Hứng dừa”, châm biếm như “Đánh ghen”, đả kích khôn khéo
như “Đám cưới chuột”, “Thầy đồ cóc”.
5- Tranh phong cảnh: Đề cao thú chơi tao nhã, lịch sự, đề cao vẻ đẹp thùy mị, duyên
dáng của người con gái có bốn cô “Tố nữ”, thú chơi cây cảnh có “Mai- Lan- CúcTrúc”, hoa nở bốn mùa có “Xuân- Hạ- Thu- Đông”.
6- Tranh truyện: Lấy cốt truyện có sẵn trong dân gian, đề cao con người có tâm trong
sáng, chính nghĩa thắng gian tà như “Thạch Sanh”, “Phương Hoa”, nhiều điển cố như
“Bát Tiên”, nhiều mưu mẹo như “Tam Quốc”, “Chinh Đông”, đa tài, đa tình như
“Kiều”….
2.1.2 Đặc điểm nội dung tranh dân gian Đông Hồ
Nội dung của tranh dân gian Đông Hồ rất phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh
đều mang nhiều ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con
12
người, mang trong nó là cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản
dị cho tới những điều cao quý. Chúng tôi trình bày nội dung tranh Đông Hồ dựa theo
cách phân loại của tranh, và tạm chia ra bốn đặc điểm chính về nội dung như sau.
2.1.2.1 Tranh Đông Hồ mang nội dung chúc tụng, thể hiện ước mơ tốt đẹp của người
lao động
Từ hai bên cánh cổng ta đã bắt gặp những Tiến tài- Tiến lộc [Phụ lục; ảnh 1, 2]
vẽ hình hai vị thần mũ áo triều phục văn quan, một vị mang biển Tiến tài, một vị
mang biển Tiến lộc. Theo tục lệ của dân làng, dán hai bức tranh này ngoài cổng, tài
lộc sẽ kéo vào trong nhà, và với năm mới, hai vị thần Tiến tài, Tiến lộc sẽ mang lại
sự thịnh vượng.
Người nông dân cầu mong sinh được con trai để lấy người nối dõi dòng tộc qua
bức tranh Vinh hoa có hình em bé như một tiên đồng, hình dáng mập mạp, tóc để trái
đào, tay ôm con gà trống [Phụ lục; ảnh 5]. Họ cầu mong một gia đình quây quần đầm
ấm, chan hòa hạnh phúc như ý nghĩa của hai bức tranh Gà đàn [Phụ lục; ảnh 11] và
tranh Gà thư hùng [Phụ lục; ảnh 26] là bức tranh toàn cảnh của gia đình đoàn tụ,
mẫu mực cho sự thủy chung và tinh thần trách nhiệm.
2.1.2.2 Tranh Đông Hồ ca ngợi truyền thống “tôn sư trọng đạo”
Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo đã có từ lâu trong lịch sử dân tộc ta.
Tranh Đông Hồ nổi tiếng cũng bởi phản ánh nội dung này trong tranh. Bức tranh vừa
mang nhiều ẩn ý phê phán và cả khuyến khích việc học hành là Thầy đồ cóc [Phụ
lục; ảnh 19]. Tranh có nhiều ẩn dụ, với ý nghĩa khuyên con cháu học hành thì khung
cảnh trường học tấp nập như vậy là niềm mơ ước của nhiều trẻ em thời bấy giờ.
Tranh Thầy đồ cóc (hay Lão Oa giảng độc) hướng đến đề tài giáo dục- một chủ đề
mang tính thời đại, quy luật tất yếu của xã hội, nhằm đào tạo lớp người kế cận thành
những con người mới có đạo đức, có kiến thức, có năng lực. Đề tài có tầm cỡ và
quan trọng như vậy, lại lấy “xã hội” loài cóc làm đối tượng phản ánh, ít nhiều mang
chất trào lộng, hài hước và chấm biếm, tưởng phi lý, nhạo báng nhưng lại có lý và
tâm đắc. Tâm đắc và hợp lý ở tính nhân văn sâu sắc của bức tranh. Là loại tranh cổ,
đã có từ trước khi Pháp sang cướp nước ta, thời Nho học và đức Khổng Tử đang
được tôn thờ. Các bậc cha mẹ đều mong muốn con mình học được chút ít chữ Thánh
hiền để nên người, cũng không dám mơ ước đến đỗ đạt, đăng khoa hay chức cao
vọng trọng. Không chỉ có ý nghĩa nhân văn như vậy, bức tranh còn thể hiện được sự
kính trọng của trò với thầy. Trong tranh có một chú Cóc dáng vẻ nghiêm chỉnh, cung
kính, lễ phép, một tay chống gối, tay kia xách siêu nước sôi pha trà dâng thầy. Đây là
một hành vi đẹp, có văn hóa, thể hiện sự “tôn sư trọng đạo” của người đi học. Ngoài
ra, tranh Lý Ngư vọng nguyệt (Cá chép trông trăng) cũng muốn khuyên người học trò
chăm chỉ học tập rồi thi đỗ như truyền thuyết “cá chép vượt vũ môn” hóa rồng. Tranh
Đám cưới chuột [Phụ lục; ảnh 20], tranh Rước ông nghè vinh quy bái tổ [Phụ lục;
ảnh 21] hay Mục đồng đọc sách [phụ lục; ảnh 23] cũng nhằm khuyến học mạnh mẽ.
2.1.2.3 Tranh Đông Hồ ca ngợi những anh hùng dân tộc, phản ánh cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm của dân tộc
13
Tranh Đông Hồ phản ánh quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước rất oanh
liệt, vẻ vang của dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử. Qua các bức tranh Đông Hồ
về lịch sử phong phú, đa dạng, chúng ta thấy lịch sử dân tộc bằng tranh hiện lên thật
sinh động và sâu sắc. Những bức tranh ca ngợi lịch sử thời kì đầu - sau công nguyên
với các nhân vật như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo….,
cụ thể là các bức tranh: tranh Bà Triệu cưỡi voi, Bà Triệu đánh giặc, tranh Hai Bà
Trưng, Vua Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền đánh giặc, Trần Hưng Đạo, Ngựa
Hồng,… Đến thời kì lịch sử chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ có các tranh: Văn
minh tiến bộ tọa đăng xương- Phong tục cải lương moa tăng phú (Thời đại văn minh
tiến bộ anh hãy cẩn thận- Phong tục thay đổi, tôi cóc cần), Tranh Bắt giặc lái Mỹ,
Tranh Hòa bình,…
2.1.2.4 Tranh Đông Hồ mang nội dung phê phán, đả kích những thói hư, tật xấu
Về phương diện xã hội, tranh Đông Hồ thành công trong việc phê phán, đả kích
sâu cay tầng lớp phong kiến thống trị với những thói hư tật xấu. Hai bức tranh tiêu
biểu là Thầy đồ cóc và Đám cưới chuột được nghệ sĩ dân gian thể hiện rất tài tình.
Tranh Thầy đồ cóc bên cạnh ý nghĩa khuyến khích việc học và “tôn sư trọng đạo”,
còn được diễn giải bằng bốn câu thơ với ẩn ý đả kích:
Tìm thầy hỏi bạn nhái chi mà
Thấy học xem bằng ếch thấy hoa
Mở mắt chão chàng soi vũ trụ
Đem gan cóc tía đối sơn hà
Tuy có bốn câu thơ, nhưng có đủ cả ếch, cóc, nhái, chão chàng làm ta liên
tưởng đến bài “Rắn đầu biếng học” của Lê Quý Đôn trong câu “Thấy học xem bằng
ếch thấy hoa” có ý tương tự, chung nỗi chán chường mỉa mai; hay với cụ Tú Xương
trong bài “Nào có ra gì cái chữ Nho”, học hành đỗ đạt dưới chế độ cũ có ra sao, thi
đỗ làm quan tức là làm tay sai cho bọn thống trị, để hà hiếp bóc lột dân nghèo. Ở
đây còn có ý nói, có khi làm tay sai mà không biết vì “mắt chão chàng” nhìn trừng
trừng nhưng không tinh tường. Thế mà dám đem gan và sức ấy ra để phản Tổ quốc,
hại nhân dân. Thầy đồ cóc quả là một bài học triết lý với miền Nam nước ta thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ và đến nay ý nghĩa sâu sắc đó vẫn còn tác dụng.
Bức tranh Đám cưới chuột [Phụ lục; ảnh 20] rất nổi tiếng, cũng mang tính đả
kích sâu sắc, đánh một đòn rất trúng, rất hiểm vạch mặt bọn thống trị không hề khoan
nhượng.
Ngoài ra, các bức tranh khác về nội dung châm biếm, đả kích thói hư tật xấu
của bọn quan tham cũng như lũ giặc xâm lược nước ta như: Tranh Trê và Cóc; Cóc
múa kì lân; Chuột Tầu rước rồng vàng; hay “Văn minh tiến bộ toa tăng xươngphong tục cải lương moa tăng phú” (nghĩa là: Thời đại văn minh tiến bộ anh hãy cẩn
thận; Phong tục thay đổi, tôi cóc cần),...
Về phương diện gia đình, tranh phê phán, đả kích cũng đa dạng, nhiều đối
tượng, nhiều khía cạnh. Tiêu biểu là tranh Đánh ghen, là bức tranh sinh hoạt dí dỏm
mang tính phê phán và giáo dục cao [Phụ lục; ảnh 16, 15].
14
2.2 Một số đặc điểm nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ
Đây là sự tìm tòi công phu qua nhiều thế hệ những nghệ nhân dân gian. Tranh
Đông Hồ có vẻ đẹp dung dị, mộc mạc rất độc đáo mà ít có loại tranh nào trên thế giới
đạt được. Về cách dùng màu sẵn có trong thiên nhiên có thể sánh ngang với chất liệu
mà các nghệ sĩ Ai Cập đã thể hiện trên những bức tranh tường, trong các Kim Tự
Tháp cổ đại mà các đời sau đã phải bỏ ra bao công sức để khám phá ra chất liệu đó
[53; tr 58].
2.2.1 Chất liệu
Sau khi đã vẽ mẫu xong, hay còn gọi là ra mẫu, các nghệ nhân tìm gỗ để khắc
(gọi là khắc ván). Gỗ dùng chủ yếu là gỗ mít, xẻ thành ván theo độ dầy nhất định, để
vài năm cho gỗ khô kiệt, ván không bị cong, vênh. Bản khắc Đông Hồ không khắc
bằng dao mà khắc bằng đục. Có nhiều loại đục khác nhau để có thể tạo được nhiều
nét khắc to, khỏe mà vẫn tinh tế, có hồn. Sau khi tạo ván khắc xong, người thợ lấy
giấy ráp cọ tỷ mỷ cho mặt nhẵn mịn rồi in thử, trước khi in vụ sau phải ngâm ván để
các nét sáng, sạch sẽ. Mỗi ván in được hàng triệu bản vẫn bền do chất gỗ thị rất tốt,
bền theo thời gian.
2.2.2 Bố cục
Bố cục là sự sắp xếp các mô típ trong tranh sao cho chặt chẽ, hợp lý [53; tr 59].
Tranh Đông Hồ tiêu biểu cho nghệ thuật khắc họa không gian theo lối ước lệ, tượng
trưng là phổ biến. Nghĩa là, tranh Đông Hồ không thể hiện các hình tượng to- nhỏ
theo luật xa- gần (như của Tây phương), mà tùy theo cảm hứng sáng tác và tùy thuộc
vào yêu cầu, bối cảnh cũng như nội dung của người mong muốn để thể hiện bức
tranh như thế nào. Ví dụ như trong tranh thờ Tam phủ, Tứ phủ, Ông Công, Ông Táo,
Ông Tơ, Bà Nguyệt…. Các nhân vật được sắp xếp theo quy ước, lớp trong ở xa, lớp
ngoài ở gần như các mảng chính, phụ. Đối với các tranh vẽ đề tài lịch sử cũng vậy,
các vị anh hùng và các nhân vật chính luôn được vẽ với tầm vóc lớn hơn.
2.2.3 Đường nét
Nghệ thuật làm tranh Đông Hồ độc đáo bởi đường nét bao giờ cũng được thể
hiện sau cùng, bằng ván in nét. Theo cách tạo hình, đường nét làm nên linh hồn cho
bức tranh. Đường nét cũng mang yếu tố trang trí cao. Vì thế, đường nét rất quan
trọng, nét là phương diện tạo hình, là biên giới của các mảng màu và nền tranh.
Đường nét trong tranh Đông Hồ thiên về sự đơn giản, chắc khỏe, có xu hướng cách
điệu và trang trí hơn là tả thực.
2.2.4 Màu sắc dân gian
Màu sắc cổ truyền, xưa nhất là màu trắng điệp và màu đen, hay nét viền đen.
Ngoài ra còn có màu vàng hòe, lấy từ hoa của cây hòe, màu đỏ vang lấy từ vây vang,
màu đỏ của sỏi son,…Để làm nên một bức tranh dân gian Đông Hồ, người nghệ nhân
phải khéo léo tạo các mảng màu thật hài hòa, cân đối, cũng như các nét phải rõ ràng,
to, chắc, đậm. Đó là các mảng màu dẹt, không gợi khối hay ánh sáng như những
tranh hiện đại khác.
15
2.2.5 Tính dị bản của tranh dân gian
Nằm trong xu thế biến đổi chung của các ngành nghệ thuật dân gian, tranh
Đông Hồ do nhiều thế hệ cùng sáng tác và được đông đảo quần chúng tham gia trong
quá trình in, tiêu thụ và thưởng thức tranh. Một bức tranh thông thường cần có một
bản khắc nét và vài ba bản khắc màu. Tính thủ công trong kỹ thuật làm tranh và
phương pháp khắc ván in tranh là nguyên nhân làm tranh dân gian Đông Hồ có nhiều
dị bản. Sự khác nhau của các tờ tranh có cùng tên gọi là do sự thêm bớt một vài tình
tiết như chữ đề trên tranh, thơ họa tranh, số lượng nhân vật, trang phục, tư thế,…. hay
cũng có thể thay đổi một vài sắc độ, màu nền tranh, màu sắc các họa tiết trong
tranh,….
2.3 Quy trình kỹ thuật làm tranh
2.3.1 Chuẩn bị về nhà xưởng, thiết bị và nguyên liệu
Đây là bước đầu tiên quan trọng trong quy trình làm tranh dân gian. Các thiết bị
làm tranh phải có đủ, trong một không gian nhà xưởng nhất định, đồng thời nguyên
liệu cho làm tranh cũng phải được chuẩn bị từ trước.
2.3.1.1 Về nhà xưởng
Đặc trưng của nghề làm tranh tuy không đòi hỏi cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà
xưởng quá quy mô và tốn kém, nhưng lại cần những khoảng không gian rộng. Bởi
trong quy trình chuẩn bị giấy điệp in tranh, hay phơi tranh thì cần khoảng sân rộng để
có thể trải giấy điệp hay tranh thành phẩm ra phơi cho được nắng thì giấy điệp mới
trắng, tranh mới tươi màu. Tuy vậy, mỗi hộ gia đình của làng Hồ cũng tận dụng
những không gian có được trong nhà mình như nhà ba gian, hay sân rộng, nhà ngang,
sân tầng thượng….để có thể phơi tranh, hay trưng bày tranh thành phẩm.
2.3.1.2 Về thiết bị
Trước khi bắt tay vào làm tranh, các nghệ nhân làng Hồ đều chuẩn bị những dụng
cụ thiết yếu, chúng được cất giữ như những bảo bối trong nhà. Thiết bị đó bao gồm:
Dụng cụ sáng tác mẫu tranh: đó là các bút lông, mực nho (hay mực tàu) và giấy
bản mỏng. Khi vẽ mẫu tranh, nghệ nhân sẽ dùng bút lông chấm vào mực tàu đã pha
và vẽ hình mẫu lên các bản giấy mỏng. Sau đó, giấy mẫu được dán vào mặt trước của
tấm gỗ, và nét vẽ sẽ thấm ra mặt sau tờ giấy, nhờ đó người thợ khắc mới khắc được
hình vẽ lên bản gỗ.
Dụng cụ khắc ván tranh: Dụng cụ được dùng để khắc ván in tranh là mũi đục, hay
gọi là ve bằng thép cứng, và dùi đục dùng để gõ đục (trong khi đó Hàng Trống dùng
dao khắc). Mỗi bộ ve khắc ván gồm khoảng 40 chiếc, chia ra 4 loại:
Móng: là lưỡi ve lòng máng, cong nhiều
Thoảng: là lưỡi ve hơi lòng máng, hơi cong
Thẳng: là lưỡi ve thẳng
Dẫy nền: là lưỡi ve lòng máng, thân ve uốn cong để dũi, đào sâu xuống gỗ. Mỗi
loại ve có khoảng trên dưới 10 cái với nhiều cỡ to nhỏ khác nhau.
Ngoài mũi đục và dùi đục, còn có dao khắc mũi mài một má (vát một bên má dao).
Dụng cụ in tranh: Gồm ván in tranh (ván màu), sơ mướp và các bìa màu….
16
Ván in tranh: là các khổ ván nhỏ, nhẹ, thuận tiện khi in. Các ván in tranh được
chuẩn bị trước và đồng thời với các hình mẫu được sáng tác. Sau khi hình mẫu được
tạo ra và khắc xong, đó là bản nét hoàn thiện. Sau đó, người thợ còn phải khắc bản
nét để in từng màu. Đây là các ván nhỏ hơn ván nét, người thợ khắc theo từng mảng
màu có trên từng tờ tranh (màu xanh, đỏ, vàng, hồng,… mỗi màu có một bản khắc
nét mẫu này). Tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu bản in màu. Ván in màu này
sẽ được trực tiếp dùng in lên giấy điệp, qua các công đoạn và thao tác in tranh sẽ
được các bức tranh hoàn chỉnh.
Sơ mướp có sẵn ở nhà nhiều, không có thì thay bằng các miếng giấy ráp hay bàn
chải to đều được.
2.3.1.3 Về nguyên liệu in tranh
Trước hết phải kể đến giấy in tranh, là giấy dó quét điệp. Xưa kia, nguyên liệu
dùng in tranh là những thứ có sẵn trong tự nhiên. Người thợ tự chế lấy theo lối thủ
công truyền thống, vừa rẻ, vừa độc đáo. Hiện nay, người Đông Hồ mua giấy dó ở
trên Đống Cao mà không tự sản xuất như xưa. Giấ y làm tranh của Dương Ổ chủ yế u
cung cấ p để phu ̣c vu ̣ cho làng làm tranh Đông Hồ . Tuy nhiên , do tính chấ t của sự
phân công lao đô ̣ng trong hê ̣ thố ng các làng nghề truyề n thố ng mà giấ y dó ở đây
không đến ngay với thợ thủ công Đông Hồ . Giấ y dó sau khi đươ ̣c làm xong ở Dương
Ổ sẽ được bán cho người làng Đạo Tú (Thuâ ̣n Thành, Bắ c Ninh) hoă ̣c làng Trưởng
Xá (Thuâ ̣n Thành, Bắ c Ninh). Người thơ ̣ thủ công của hai làng này sau khi phế t lên
mă ̣t giấ y mô ̣t lớp xà cừ , lại đem bán giấy cho thương nhân Hà Nội để người ta phủ
lên đó mô ̣t lớp dầ u bóng , sau đó mới sẵn sàng cho người thơ ̣ thứ tư sử du ̣ng để in
tranh. Các nghệ nhân hiện nay thường đặt mua giấy dó để giảm công đoạn làm giấy
này. Sau đó, giấy dó được quét điệp bằng chổi lá thông khô, làm thành giấy điệp. Sau
này, người nghệ nhân còn sáng tạo ra là quét thêm trên nền giấy điệp lớp màu đỏ son,
màu vàng hòe thành nền đỏ cam hoặc vàng chanh. Và giấy điệp cũng là một đặc
trưng rất riêng của làng tranh Đông Hồ.
Màu in tranh Đông Hồ là thuốc cái, hoàn toàn được chế biến từ nguyên liệu và
thảo mộc tự nhiên như: Màu trắng điệp lấy từ con sò điệp. Màu vàng hòe được chế ra
từ hoa của cây hòe hay hạt dành dành. Màu đỏ được nấu từ gỗ vang trong rừng và
nước lã. Vang là loại cây thân gỗ có quả cứng, hoa vàng.
2.3.2 Kĩ thuật làm tranh
2.3.2.1 Khâu vẽ mẫu- hay sáng tác mẫu tranh
Đây là khâu đầu tiên, quan trọng và khó nhất trong quy trình kĩ thuật làm tranh.
Sau khi chuẩn bị nguyên liệu, thiết bị, nhà xưởng xong, thì đòi hỏi người nghệ sĩ phải
ra mẫu, hay sáng tác mẫu tranh. Cũng có thể nghệ nhân sẽ ra mẫu trước hay đồng
thời với quá trình chuẩn bị nguyên liệu, thiết bị. Nhưng dù trước hay sau, thì việc ra
mẫu cũng là một quy trình sáng tạo nghệ thuật đặc biệt của nghệ nhân. Quy trình này
đòi hỏi nghệ nhân phải có năng khiếu hội họa thực sự. Sau khi sáng tác được mẫu
nào thì đem ra khắc vào bản gỗ (ván khắc). Đó là những công đoạn khó nhất của
nghề làm tranh, ít người thông thạo cả hai. Số người có khả năng sáng tác mẫu không
nhiều. Họ thường là những nghệ nhân giỏi trong làng. Sau Cách mạng tháng Tám,
17
những nghệ nhân sáng tác giỏi trong làng phải kể đến: Nguyễn Thế Thức, Nguyễn
Thế Giác (Giác nhất), Nguyễn Thế Lãm (Giác nhì), Vương Chí Long, Vương Chí
Hồ…..
2.3.2.2 Khắc ván
Nghệ nhân khắc ván phải là người có kỹ thuật chạm giỏi. Trước cách mạng
tháng Tám, những nghệ nhân khắc ván có tay nghề cao là Nguyễn Đăng Tụy,
Nguyễn Đăng Mưu, Nguyễn Thế Bân, Hà Văn Tư…Ván in thường chia làm hai loại
là ván in nét và ván in màu. Ván in nét làm bằng gỗ thị, gỗ thừng mực. Gỗ thị thớ đa
chiều dùng để khắc ván in nét có thể tạo nét tinh vi, mảnh nhỏ, nét bền. Gỗ mực nhẹ,
nạc, mềm và rất dễ khắc nhưng độ bền không cao. Ván in màu bằng gỗ giổi hay gỗ
vàng tâm, là loại gỗ nhẹ, thớ mềm xốp, dễ hút màu, do đó in đượm màu thuốc cái.
2.3.2.3 In tranh
Dụng cụ và vật liệu để in tranh gồm giấy dó, ván in, thét thông, bìa màu và xơ
mướp (có nghệ nhân dùng miếng xốp mút). Sau khi chuẩn bị xong các nguyện liệu,
dụng cụ, người nghệ nhân tiến hành in tranh.
Tranh Đông Hồ được in theo phương thức xấp ván, bằng cách cầm ván in và
rập xuống bìa màu, sao cho màu thấm đều vào hình khắc trên ván. Xong bước tiếp
theo là ấn ván in lên tờ giấy in, như khi đóng dấu ấn. Sau đó, lật ngửa ván in có dính
tờ giấy in (giấy điệp), lấy miếng xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy điệp để nét
hoặc màu in đều lên giấy. Thao tác cuối cùng là lấy tờ tranh ra khỏi ván in. Khi in
xong mỗi màu, vắt tranh vào sào nứa hoặc tre rồi phơi trong nhà, tranh khô mới in
tiếp màu sau. Tranh có bao nhiêu màu thì in bấy nhiêu lần cho hết các màu thì in nét,
in nét là công đoạn cuối cùng. Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam: Bản khắc để in
tranh hết sức quan trọng, in đem trắng thì đơn giản, còn in tranh màu phải tạo màu,
sửa nét, tạo hồn cho tranh, tạo nên giá trị của tranh. Sử dụng bản khắc đòi hỏi về
trình độ, kỹ thuật của người in tranh, người làm phải có tình yêu và sự sáng tạo.
Trong một bức tranh có nhiều màu, người ta thường in màu đỏ trước, sau đến
màu xanh, các màu vàng, trắng và màu da có thể tùy theo. Nhiều người in trong dây
chuyền để hoàn thành một bức tranh, mỗi người in một màu. Để cho các mảng màu
in ăn khớp với nhau, mỗi tấm ván in đều có hai điểm cữ đánh dấu ở cạnh ván in. Khi
in, hai điểm này sẽ để lại dấu chấm tròn nhỏ trên tranh. Cách làm này sẽ đảm bảo cho
việc in các màu xen kẽ nhau, không chồng lên những mảng màu in trước. Sau khi in
xong các mảng màu, người nghệ nhân in ván nét đen để viền các mảng màu. Người
Đông Hồ gọi là cắt nét. Công việc này khó nhất, đòi hỏi sao cho các nét viền phải
đều tay, không được chỗ đậm- chỗ nhạt. Sau khi in nét xong cũng phơi tranh lên để
tránh ẩm mốc. In nét là công đoạn cuối cùng, quan trọng để tạo nên đường nét và giá
trị biểu đạt cho tranh Đông Hồ.
Tiểu kết chƣơng 2:
Tranh dân gian Đông Hồ có diện mạo rất riêng về nội dung và hình thức.
Không chỉ phong phú về đề tài mà còn đa dạng về nội dung và hình thức nghệ
thuật. Thể loại tranh Đông Hồ có nhiều loại theo cách đề ra tiêu chí khác nhau, nhìn
chung có sáu loại chính là, tranh thờ cúng, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh
18
hoạt, tranh phong cảnh và tranh truyện. Các loại tranh Đông Hồ đều toát lên vẻ đẹp
dân dã, mộc mạc nhưng gần gũi, thân thuộc với người nông dân thuần hậu, chất
phác. Bộc lộ những nội dung độc đáo nhưng dễ hiểu, tranh Đông Hồ vừa mang nội
dung chúc tụng, bộc lộ ước mơ ngàn đời của người lao động, cầu mong sự che chở
của ông bà tổ tiên; đồng thời, tranh Đông Hồ còn là sự ca ngợi truyền thống “tôn sư
trọng đạo”, đề cao chủ nghĩa nhân đạo, ca ngợi chính nghĩa, ca ngợi những anh
hùng dân tộc… Ngoài ra, tranh Đông Hồ còn mang nội dung đả kích, phê phán,
châm biếm thói hư, tật xấu của giai cấp thống trị thời phong kiến. Bên cạnh những
nội dung đặc trưng, tranh Đông Hồ còn có hình thức nghệ thuật độc đáo về cả bố
cục, chất liệu, đường nét, màu sắc dân gian hay tính dị bản của tranh. Quy trình làm
tranh Đông Hồ vẫn mang tính truyền thống và độc đáo rất riêng. Từ khâu chuẩn bị
nguyên liệu đến kỹ thuật làm tranh đều tuân thủ nghiêm ngặt quy trình truyền
thống. Thực trạng làm tranh dân gian hiện nay có nhiều thay đổi so với trước đây,
nhưng nhìn chung vẫn phát huy được yếu tố truyền thống trong thời hiện đại. Một
số thay đổi về nội dung và hình thức của tranh và quy trình làm tranh không làm
mất đi vẻ đẹp riêng của tranh Đông Hồ.
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VÀ ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN
LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ ĐẾN NĂM 2020
3.1 Thực trạng biến đổi của làng tranh dân gian Đông Hồ
3.1.1 Hoạt động sản xuất và tiêu thụ tranh dân gian Đông Hồ
3.1.1.1 Lao động và phân công lao động
*. Số lượng lao động
Trong các khâu đoạn của quá trình tạo ra sản phẩm tranh dân gian, có những
khâu có thể huy động được lao động của nhiều thành viên trong gia đình, cả nam cả
nữ, từ trẻ em 12, 13 tuổi đến những người tuổi cao. Đặc thù của nghề làm tranh dân
gian Đông Hồ là nghề thủ công truyền thống có yếu tố nghệ thuật cao, nên về tuổi lao
động không giới hạn, bởi sự đam mê với nghề và khả năng đặc biệt, nên có nghệ
nhân trên 70 hay đến 80 tuổi vẫn tham gia làm tranh. Mỗi người tùy vào sức khỏe và
khả năng chuyên môn của mình mà tham gia vào các khâu của quy trình sản xuất.
Nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ tỷ lệ lao động giữa nam và nữa khá cân bằng
nhau, không chênh lệch nhiều. Tuy nhiên, các nghệ nhân làng tranh dân gian Đông
Hồ chỉ có nam nghệ nhân, không có nữ nghệ nhân.
*. Chất lượng lao động
Làng tranh Đông Hồ có nhiều nghệ nhân giỏi, nổi tiếng từ xưa đến nay, dù hiện
nay một số không còn nữa, nhưng các nghệ nhân vẫn được nhiều người biết đến như:
nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm, Nguyễn Đăng Sần, họa sĩ Nguyễn Đăng Dũng,
nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, nghệ nhân Nguyễn Hữu
Quả, nghệ nhân Trần Nhật Tấn, nghệ nhân Vương Chí Long, Vương Chí Lượng,
nghệ nhân Nguyễn Thế Lãm, Nguyễn Thế Giác,…..
Hiện nay, cả làng Đông Hồ chỉ còn hai gia đình nghệ nhân lâu đời vẫn duy trì
công nghệ khắc ván, in tranh. Trong đó có 2 nghệ nhân có tay nghề cao, là nghệ nhân
Nguyễn Đăng Chế- là đời thứ 7 của dòng học Nguyễn Đăng nổi tiếng của dòng tranh
19
Đông Hồ, và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền
thống lâu đời làm tranh dân gian. Bằng tài năng và tâm huyết với nghề tranh truyền
thống, hai nghệ nhân đã vừa nghiên cứu, sưu tầm, phục chế, vừa sáng tác nhiều tranh
dân gian, góp phần vào công cuộc bảo tồn và giữ gìn nghề truyền thống của cha ông
ta.
*. Dạy nghề và đào tạo nghề
Hai gia đình Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam đều
truyền dạy trực tiếp cho các con cháu trong nhà học nghề, theo nghề. Nếu ai đi học, đi
làm công chức, không theo nghề truyền thống, thì các con cháu họ đều biết làm và tham
gia một khâu đoạn nào đó, tùy theo khả năng của mỗi người. Ngoài ra, nếu người nào
có nhu cầu học nghề, các nghệ nhân đều vui vẻ truyền dạy. Nghệ nhân Nguyễn Đăng
Chế cũng đã mở được hai khóa học cho những người yêu thích nghề tranh, chủ yếu là
các cháu thiếu niên, các bạn trẻ say mê.
*. Phân công lao động
Quá trình phân công lao động đi liền với quá trình đào tạo, dạy nghề và học
nghề, đó cũng chính là cách thức tổ chức nghề nghiệp của người làm chủ. Bởi, người
nghệ nhân là chủ doanh nghiệp hay chủ gia đình, vừa làm vừa phân công các việc
cần làm cho từng người ở từng khâu đoạn nhất định, đồng thời chỉ dạy cho người
mới học nghề đảm nhận vừa học vừa làm khâu đoạn đó. Đến khi người thợ có thể
thạo việc được thì cứ theo dây chuyền để sản xuất tranh.
3.1.1.2 Hình thức tổ chức sản xuất
Làng nghề tranh dân gian Đông Hồ hiện nay có 2 hình thức tổ chức sản xuất là:
doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình.
*. Doanh nghiệp tư nhân
*. Hộ gia đình
3.1.1.3 Sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm
Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, trước đây tranh dân gian Đông Hồ có bốn
loại tranh chính gồm: tranh truyền thống vẽ bằng tay (tranh in nét và vẽ thủy mặc,
vờn màu), tranh vừa in vừa vẽ, tranh in bằng ván khắc gỗ, tranh khắc gỗ. Trong đó
thông dụng và phổ biến nhất là tranh đen trắng (tranh vẽ thủy mặc, vờn màu) và tranh
màu được in bằng bản khắc gỗ. Các loại sản phẩm tranh này hiện nay vẫn được duy
trì ở các gia đình làm tranh, đó là những đặc sản riêng của tranh dân gian Đông Hồ
đã nổi tiếng và hiện nay còn được phát huy. Đáng chú ý hiện nay là tranh dương bản,
tức tranh khắc gỗ được các du khách ưa chuộng và mua nhiều. Đồng thời, tranh in
màu, hay in đen trắng lồng trong khung kính cũng được đón nhận tích cực. Đó là sự
phát triển và tự thích nghi theo quy luật vận động tự nhiên trong quá trình phát triển
của làng tranh Đông Hồ.
3.1.2 Những biến đổi của tranh Đông Hồ
3.1.2.1 Thay đổi về hình thức nghệ thuật
Những biến đổi của tranh dân gian Đông Hồ ngày nay được các nhà nghiên cứu
và họa sĩ đánh giá là: “…tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu
sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để
20
- Xem thêm -