Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn thạc sĩ dạy học bài thơ nhàn của nguyễn bỉnh khiêm trong chương trình n...

Tài liệu Luận văn thạc sĩ dạy học bài thơ nhàn của nguyễn bỉnh khiêm trong chương trình ngữ văn 10 theo hướng tiếp cận thi pháp học

.PDF
103
995
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC DẠY HỌC BÀI THƠ “NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC DẠY HỌC BÀI THƠ “NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 01 11 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH HÀ NỘI - 2014 2 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, lời đầu tiên em xin trân trọng cảm ơn tới PGS. TS. Trần Khánh Thành – người thầy trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy cô Trường Đại học Giáo dục đã tạo điều kiện tôt nhất cho chúng em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn. Em xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục – Đào tạo tỉnh Hòa Bình, Ban giám hiệu trường THPT Quyết Thắng và các thầy cô giáo trong tổ Văn - Sử Địa trường THPT Quyết Thắng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả luận văn mong được tiếp thu những ý kiến đóng góp của thầy cô và các đồng nghiệp. Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014 Tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc i MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn ................................................................................................ i Mục lục ........................................................................................................ii MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ............................................10 1.1. Một số vấn đề về thi pháp và thi pháp học .............................................10 1.1.1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học ....................................................10 1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học ........................11 1.2. Thi pháp văn học Trung Đại Việt Nam ..................................................15 1.2.1. Nội hàm khái niệm văn học Trung đại Việt Nam ................................15 1.2.2. Một số đặc trưng thi pháp văn học trung Đại Việt Nam ......................16 1.3. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nôm Đường luật ................................ 31 1.4. Một số vấn đề về thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ..............................39 1.4.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm .........39 1.4.2. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ........................................42 1.4.3. Không gian nghệ thuật ........................................................................45 1.4.4. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm ..........................46 1.4.5. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm ............48 1.4.6. Nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm ..............................50 1.5. Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học ..............................52 Tiểu kết Chương 1........................................................................................56 Chương 2: THỰC TRẠNG DẠY HỌC THƠ TRUNG ĐẠI TRONG NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI DẠY HỌC BÀI THƠ NHÀN CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC................................................................................................57 2.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay ..............................................................................................57 2.1.1. Thực trạng dạy học thơ trung đại nói chung trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay ................................................................ 57 2.1.2. Thực trạng dạy học bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10..............................................................................60 ii 2.2. Những định hướng đổi mới dạy học bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ hướng tiếp cận thi pháp học .................................................61 2.2.1. Dạy học bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ hướng tiếp cận thi pháp thơ trung đại .............................................................................61 2.2.2. Dạy bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm theo đặc điểm thi pháp tác giả ................ 63 2.2.3. Kết hợp một cách hợp lí với một số phương pháp dạy học tích cực các tác phẩm văn chuơng ................................................................ 70 Tiểu kết Chương 2........................................................................................74 Chương 3: THỰC NGHIỆM DẠY BÀI THƠ “NHÀN” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM THEO HƯỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP HỌC................................................................................................75 3.1. Mục đích thực nghiệm ...........................................................................75 3.2. Những khó khăn, thuận lợi đặt ra khi dạy bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm.....................................................................................75 3.2.1. Khó khăn ............................................................................................75 3.2.2. Thuận lợi ............................................................................................76 3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm dạy học bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.....................................................................................76 3.4. Tổ chức thực nghiệm .............................................................................89 3.5. Kết quả thực nghiệm .............................................................................89 3.5.1. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là giáo viên ................................................................................................ 89 3.5.2. Tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả với đối tượng khảo sát là học sinh ................................................................................................ 90 3.5.3. Đánh giá kết quả .................................................................................92 Tiểu kết Chương 3........................................................................................93 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .............................................................94 1. Kết luận ................................................................................................ 94 2. Khuyến nghị .............................................................................................94 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................96 iii MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học là ngành nghệ thuật có sức hấp dẫn tự nó, Các Mác có nói: “Nghệ thuật là niềm vui lớn nhất mà con người tự tạo cho mình”. Nói đến mỗi tác phẩm văn học là nói đến nghệ thuật tái hiện sự sống bằng hình tượng trong trạng thái cảm xúc của chủ thể phản ánh, đưa lại cho người thưởng thức những khoái cảm thẩm mĩ. Trong nhà trường phổ thông, dạy văn và học văn đã trở thành những hoạt động không thể thiếu. Dạy học môn văn không tách rời khỏi việc khám phá, phát hiện ra sức hấp dẫn của mỗi tác phẩm văn học ở ngôn từ, hình tượng…Mỗi giờ giảng văn đạt sẽ đem lại cho các em những rung cảm thẩm mĩ, mở rộng tầm nhìn của các em vào cuộc sống, làm cho các em xúc động sâu xa trước một thế giới Chân – Thiện – Mĩ với bao khát vọng, ước mơ của con người ở mọi thời đại. Để từ đó các em trở về hoàn thiện nhân cách mình. Vì vậy trách nhiệm của mỗi người giáo viên dạy văn là mỗi giờ lên lớp phải tìm thấy và phát hiện ra cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học, làm cho các em thực sự sống trong thế giới hình tượng đó, thực sự rung cảm với niềm vui, nỗi buồn…mà tác giả thể hiện. Công việc đó thật cao cả, hấp dẫn song cũng rất khó khăn và phức tạp, nhiều lúc còn trở nên nhàm chán nếu cứ lặp đi lặp lại một thao tác nào đó. Để giờ văn thực sự thu hút học sinh, công việc mà chúng tôi hết sức chú ý đó là đổi mới phương pháp dạy học. Thực tế cho thấy công việc dạy văn và học văn còn nhiều khó khăn. Tác phẩm văn học mà học sinh trung học phổ thông được học ra đời ở nhiều giai đoạn lịch sử với những bối cảnh xã hội khác nhau, tâm thế của các tác giả cũng rất đa dạng, phong phú, phức tạp. Đặc biệt những tác phẩm văn học trung đại mà học sinh lớp 10 được học như Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đọc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du là những kiệt tác văn chương dân tộc, nhưng không phải lúc nào cũng đến được với học 1 sinh một cách dễ dàng. Sự cách bức về thời đại, về tâm lí dễ khiến cho học sinh khó hiểu, nản lòng và chán khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía người thầy đây là tác phẩm hay và khó, kiến thức nhiều mà thời gian dành cho mỗi bài chỉ gồm một tiết nên rất khó tổ chức một tiết học hợp lí, khoa học và hấp dẫn. Thêm vào đó là xu hướng của thời đại bây giờ là các em thiên về các môn tự nhiên, cuốn hút bởi văn hóa nghe, nhìn nên một số bộ phận học sinh không có hứng thú học văn. Đứng trước những tác phẩm khó, các em đọc qua loa, nghe giảng một cách đại khái dẫn tới không hiểu hết được bao tâm huyết và sự sáng tạo tuyệt vời của người viết gửi gắm trong tác phẩm. Tình trạng đó thật đáng báo động đối với một môn học giàu giá trị nhân văn và khả năng hoàn thiện nhân cách con người. Để tháo gỡ tình trạng trên, chúng tôi đưa ra một định hướng dạy tác phẩm văn học trung đại trong chương trình phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp học. Hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường đang tiếp tục diễn ra. Đặc biệt dạy học văn từ hướng tiếp cận thi pháp đang diễn ra sâu rộng, và bước đầu đã có kết quả. Việc phổ biến tri thức thi pháp học trong nhà trường đã có bề dày khoảng 20 năm. Từ những vấn đề trên, cùng với khát khao muốn khám phá cái hay cái đẹp trong văn học trung đại, mà cụ thể là tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sáng tác của ông đậm chất triết lí, chất thời sự có giá trị rất lớn trong đời sống con người. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Dạy học bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10 theo hướng tiếp cận thi pháp học. Với đề tài này, chúng tôi muốn tìm đến một cách dạy khoa học, nghệ thuật, tạo sự hứng thú học tập cho học sinh, nâng cao hiệu quả một giờ giảng dạy văn chương, hình thành khả năng cảm thụ văn chương một cách toàn diện cho học sinh. Chúng tôi mong muốn đề tài này sẽ góp một phần nhỏ vào quá trình hiện đại hóa việc dạy học môn Ngữ văn hiện nay. 2 2. Lịch sử nghiên cứu 2.1. Thi pháp học Từ giữa thế kỷ XX công việc nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học theo tinh thần thi pháp học là xu hướng chung trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam với chủ trương hòa nhập thế giới, từ sau Đổi mới 1986 đến nay chúng ta đã có nhiều điều kiện tốt để thực hiện điều này. Chúng ta đã có một đội ngũ thi pháp học đông đảo. Việc tiếp cận và ứng dụng quan điểm thi pháp học trong nghiên cứu, phê bình, lý luận văn học ở Việt Nam đã có bề dày hơn hai mươi năm, trùng khớp với thời kỳ đầu của cao trào Đổi mới trên bình diện toàn xã hội nói chung và trong văn học nói riêng. Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành và các công trình nghiên cứu chuyên biệt chứa đựng rất nhiều tri thức về thi pháp học. Tuy nhiên, cách hiểu về thi pháp học chưa thống nhất và sự vận dụng vào nghiên cứu và phê bình văn học còn nhiều sự máy móc thiên lệch, phiến diện như quá chú trọng phân tích hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học. Đọc các bài viết về thi pháp học, ta dễ nhận thấy các nhà thi pháp học đều khẳng định: Nghiên cứu, phê bình theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm bởi nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức, đó là hình thức mang tính nội dung. Ta có thể thấy, các nhà thi pháp học, từ nhẹ đến nặng đều phê phán và đối lập với xu hướng nghiên cứu, phê bình trước đây là thô thiển, chú trọng phân tích nội dung của tác phẩm văn học. Nhìn vào đời sống chúng ta có thể thấy rằng thi pháp học không phải là hướng nghiên cứu, phê bình văn học duy nhất, nhưng phải thừa nhận nó là hiện tượng nổi bật nhất. Quả là như thế, nghiên cứu phê bình văn học được dán mác “Thi pháp học” đã trở thành mốt thời thượng, thi pháp học trở thành “Miền đất hứa” nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trẻ…Vì thế, việc nhận diện lại thi pháp học luôn là vấn đề cần thiết. 3 Thi pháp học ở Nga xuất hiện rải rác từ cuối thế kỷ XIX và thực sự bùng phát đầu thế kỷ XX với chủ nghĩa hình thức Nga, sau đó bị trấn át để nhường chỗ cho nghiên cứu xã hội học mác-xít. Chỉ từ giữa những năm 50 trở đi theo Kozhinov, mới có thể nói tới “một thời kì mới của sự phát triển thi học”. Năm 1929, M. Bakhtin cho xuất bản cuốn Mấy vấn đề sáng tác Dostoievki. Những năm 70, 80, thi pháp học lịch sử được đề xướng rầm rộ. Năm 1976, trong sách “Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người” rồi tiếp theo, năm 1983 Khrapchenco tổng kết thi pháp học lịch sử như là khuynh hướng nổi bật của nghiên cứu văn học Liên Xô từ năm 1959. Ở Pháp, thi pháp học bắt đầu được nhà thơ P. Valéry nói đến trong chuyên đề giảng ở Viện Hàn lâm Pháp năm 1935, nhưng nó thực sự thu hút với sự bùng phát của chủ nghĩa cấu trúc những năm 60 do ảnh hưởng của việc giới thiệu thi pháp học Nga đầu thế kỷ. Ở Việt Nam, từ những năm 30 cho đến trước Cách mạng tháng Tám, 1945 thi pháp chỉ được nhắc đến lẻ tẻ trong một số công trình văn học mà chưa phải phương pháp luận của một trào lưu, một xu hướng thẩm mỹ. Từ năm 1945 đến năm 1975, nói chung các nhà lí luận và sáng tác văn học cách mạng dường như chỉ quan tâm nội dung phản ánh hiện thực mà ít chú ý đến phương diện thi pháp, mặc dù đôi lúc có quan tâm đến phong cách, bút pháp sáng tác của nhà văn. Ở miền Nam trong vùng kiểm soát của chính quyến cũ, tuy có điều kiện giới thiệu về lí thuyết cấu trúc song chưa nêu vấn đề nghiên cứu thi pháp văn học. Đã có một số công trình lí luận, nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các giáo sư bậc đại học nhưng còn tản mạn, phân tán và về cơ bản, thi pháp học vẫn chỉ được quan niệm như là phép tắc làm thơ, kiến thức về thi ca. Việc nghiên cứu, phê bình văn học về cơ bản vẫn theo truyền thống cũ. Từ sau năm 1975, ở Việt Nam, ảnh hưởng của Liên Xô cũ vẫn là chủ yếu bởi tất cả lí thuyết về khoa học nhân văn phương Tây vẫn bị coi là “quan điểm của chủ nghĩa tư bản”, đều bị phê phán và không cho “nhập cảnh”. Đầu 4 những năm 1980 một số nhà nghiên cứu văn học như Phạm Vĩnh Cư, Duy Lập, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân,…đã giới thiệu thi pháp học Liên Xô vào Việt Nam, dịch một số công trình của Bakhtin, Khrapchenco…Đồng thời chuyên đề thi pháp học được Trần Đình Sử mở tại Đại học Sư phạm Hà Nội, một số cuộc hội thảo chuyên đề về thi pháp học đã được tổ chức tại Hà Nội…Từ đó nhu cầu tìm hiểu thi pháp học đã trở nên sôi động trong giới nghiên cứu và giảng dạy văn học, nhiều người xem đó là cách đổi mới trong nghiên cứu, phê bình văn học. Bên cạnh đó việc giới thiệu các lí thuyết, trường phái nghiên cứu của phương Tây cũng được thực hiện, từ khi có sự “cởi trói”, “mở cửa” và nhất là phong trào “đổi mới” từ năm 1986. Đến cuối năm 1990, thi pháp học đã được Trần Đình Sử viết thành giáo trình đầu tiên ở bậc đại học, cao đẳng. Trong không khí đó, nhiều công trình vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu, phê bình văn học lần lượt xuất hiện, tạo thành phong trào chiếm ưu thế. Trong số những người đi tiên phong đáng chú ý là tác giả chuyên ngành ngôn ngữ học như Phan Ngọc (với các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều (1985) và về thơ Đường (1990), thơ song thất lục bát, cách đọc văn học theo ngôn ngữ học); Nguyễn Phan Cảnh, với cuốn Ngôn ngữ thơ, vừa có tính lí thuyết vừa có tính phổ cập, đề cập vấn đề của thơ. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam viết về đặc trưng thi pháp của ngôn ngữ thơ theo quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc thuộc trường phái R.Jakobson; Nguyễn Tài Cẩn với hai công trình là Tìm hiểu kĩ xảo hồi văn liên hoàn trong bài vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị, Và Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung Ngạn. Đó là các nhà ngôn ngữ học, còn các nhà nghiên cứu, phê bình văn học đi vào thi pháp khá đông đảo và cũng đạt kết quả bước đầu rất đáng chú ý như: Hoàng Trinh, Bùi Công Hùng, Nguyễn Kim Đính, Đỗ Đức Hiểu…Khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học theo tinh thần thi pháp học thu hút đông đảo giới nghiên cứu, phê bình tham gia là một “hiện tượng” của đời sống văn học Việt Nam, nó 5 chứng tỏ sự cáo chung của lối nghiên cứu văn học xã hội học dung tục, thô thiển ngự trị suốt thời gian dài từ năm 1945 cho đến những năm 1980. Nhìn tổng thể ta có thể thấy thi pháp học ở Việt Nam có nguồn gốc từ thi pháp học hiện đại thế giới. Thi pháp học đã đem lại những phạm trù mới, những đề tài mới và trên hết là cách nhìn mới cho nghiên cứu, phê bình văn học, mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản- tác phẩm văn học. 2.2. Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời ca tụng là: “cây đại thụ tỏa bóng gần suốt thế kỷ XVI”. Cuộc đời và thơ ca của ông là đề tài khá hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu. Cho nên tính đến thời điểm ngày hôm nay, ngoài một số bài viết lẻ tẻ trên Tạp chí Văn học, còn có nhiều công trình nghiên cứu về thời kỳ lịch sử phức tạp và cuộc đời có nhiều mâu thuẫn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia tác phẩm – Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, gồm 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng phương diện. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc – Viện khoa học xã hội – Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, đóng góp 28 bài viết có chiều sâu, với nhiều tư liệu có giá trị về Nguyễn Bỉnh Khiêm: Thân thế và hoàn cảnh lịch sử, sự nghiệp thơ văn, một số vấn đề khác liên quan đến Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân am thi tập – Nguyễn Khuê, đây là công trình nghiên cứu và phiên dịch có giá trị mới mẻ. Công trình bao gồm bốn phần. Phần thứ nhất tác giả giới thiệu đại cương về hoàn cảnh lịch sử, về cuộc đời, về những tác phẩm chữ Hán, tác phẩm chữ Nôm, Sấm ký. Phần thứ hai tác giả đi vào khai thác tình cảm tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Phần thứ ba là những nhận xét vầ giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung của Bạch Vân am thi tập, đồng thời đã khẳng định vị trí và ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử văn hóa dân tộc, trong lòng dân tộc Việt Nam. Phần thứ tư là 102 bài thơ trong Bạch Vân am thi tập đã được tuyển dịch khá công phu. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm – Đinh Gia Khánh chủ biên, tập trung trích 161 6 bài thơ Nôm và gần 100 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tập sách có lời giới thiệu của tác giả với những lời nhận xét chung khá thuyết phục về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triết lí nhàn dật và tự tại trong sách Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa – Trần Đình Hượu, tập trung bàn khá thú vị về lối sống nhàn, tự tại của hiền triết. Tập kỷ yếu về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được thực hiện nhân lễ kỷ niệm 500 năm năm sinh của ông, bao gồm 52 bài tham luận xoay quanh những vấn đề “luôn luôn còn một ý nghĩa thời sự, là những vấn đề còn để ngỏ chư chưa khép lại” (lời nói đầu Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), những bài viết đề cập nhiều vấn đề về Nguyễn Bỉnh Khiêm và được sắp xếp theo một hệ thống chủ đề gồm bốn phần: Phần thứ nhất nói về thời đại và quê hương Vĩnh Bảo; phần thứ hai là những bài bình thú vị về con người và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm; phần ba đề cập đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những lời bình luận sâu sắc về nội dung và nghệ thuật thơ. Cuối cùng là những ý kiến trân trọng về vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức con người hiện nay. Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Sống Mới của Nguyễn Quân thì chỉ làm rõ thêm một số vấn đề về thân thế và sự nghiệp tác giả, nêu thêm mấy nghi vấn về Thái ất thần kinh, Thái huyền, kinh dịch, sấm kí Trạng Trình, những ý kiến sơ lược về tác giả, về xã hội thời kỳ Nguyễn Bỉnh Khiêm và những lời bình ngắn lướt qua nội dung, nghệ thuật, một vài bài thơ. Ngoài ra còn có những công trình nghiên cứu có giá trị khác về Nguyễn Bỉnh Khiêm của Bùi Duy Tân, Bùi Văn Nguyên, Mai Cao Chương, Mai Quốc Liên, Vũ Tiến Quỳnh, Vũ Tiến Phúc, Trần Lê Sáng…Mỗi một tác giả nhìn nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm ở những góc độ khác nhau, mỗi một lời bình khá hấp dẫn và lí thú đã mở ra rất nhiều vấn đề mới. Dù những bài viết đó mang tính chủ quan hay khách quan hoặc chưa đi sâu vào một khía cạnh nhưng đều tập trung vào vấn đề chính: tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài Dạy học bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10 theo hướng tiếp cận thi pháp học nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Ngữ văn và tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh biết cách tìm hiểu một bài thơ trung đại, làm cho học sinh yêu thích môn học. Luận văn xin đề xuất phương pháp dạy bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình Ngữ văn 10, tập 1, ban cơ bản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất: Cơ sở lý luận về thi pháp văn học, thi pháp thơ trung đại, thi pháp thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thứ hai: Đánh giá thực trạng dạy học tác phẩm thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ thông. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm theo hướng tiếp cận thi pháp học. Thứ ba: Thiết kế giáo án thử nghiệm bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đặc trưng thi pháp học, thi pháp văn học trung đại, thi pháp Nguyễn Bỉnh Khiêm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu lý luận về dạy học thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm trong chương trình trung học phổ thông theo hướng tiếp cận thi pháp học. - Vận dụng vào dạy bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh khiêm trong chương trình Ngữ văn 10, tập 1, ban cơ bản. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận thi pháp học. 8 - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp điều tra. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài. Chương 2: Thực trạng dạy học thơ trung đại trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay. Định hướng đổi mới dạy học bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm theo hướng tiếp cận thi pháp học. Chương 3: Thực nghiệm dạy bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm theo hướng tiếp cận thi pháp học. 9 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Một số vấn đề về thi pháp và thi pháp học 1.1.1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học Trải qua mấy nghìn năm có rất nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về thi pháp học. Như nhiều người đã nhận xét, thi pháp học truyền thống từ Arixtot ở phương Tây hay Lưu Hiệp ở phương Đông trở đi đều có chung một đặc điểm như sau: Thi pháp học là bộ môn khoa học xuất hiện như là một cẩm nang sắp xếp những lời dạy và phép tắc đối với nghề sáng tạo nghệ thuật [16, 11] Sau Arixtot, các công trình thi pháp học của Horaxo, Longinus, Boalo, Letxinh vẫn đi theo quỹ đạo đó. Theo Todorop trong công trình Thi pháp học (1975) định nghĩa thi pháp là những quy tắc chung mà người ta sử dụng để sáng tác ra tác phẩm văn học cụ thể. M. B. Khrapchenco cho rằng Thi pháp học như một bộ môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá nghệ thuật bằng hình tượng [14, 18]. Trần Đình Sử đã đưa ra định nghĩa về thi pháp học như sau: Thi pháp học là bộ môn nghiên cứu tất cả mọi phương diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương tiện tạo thành nghệ thuật cũng như sự vận động, phát triển lịch sử của chúng [17, 8]. Theo từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện, thử pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự cấu thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật [5, 304]. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp và thi pháp học. Có thể hiểu thi pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp không 10 phải nguyên tắc có trước, nằm bên ngoài, mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật, hình thành cùng với sáng tạo nghệ thuật. Nó là mĩ học nội tại của sáng tác nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một trình độ văn hóa nghệ thuật nhất định, mang một quan niệm nhất định đối với cuộc đời, con người và bản thân nghệ thuật. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả, và bao trùm là cả nền văn học. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp. 1.1.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học 1.1.2.1. Thi pháp nhân vật Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân vật ở ba khía cạnh: tính cách nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người, nghệ thuật tả nhân vật. - Nhân vật và sự miêu tả nhân vật: con người vốn là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián tiếp. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, phê phán nhân vật là phê phán đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa cho đời. Tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu về cuộc đời và con người, tìm hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả đối với con người. Trong thơ trữ tình, có nhân vật trữ tình. Con người tự bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình. Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí) nhân vật là con người được kể, tả ra bằng lời của nhà văn. Nói chung nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học, tức bằng ngôn ngữ. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự việc…gọi chung là hình thức của văn học. Miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các khoa học khác thường chỉ cần sự chính xác, khách quan. Ở trong văn học miêu tả nhằm hai mục 11 đích: gợi ra hiện tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ, bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người. - Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mĩ khi xây dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ phận khác của tác phẩm. Đây là kiểu thi pháp cơ bản nhất của văn học nghệ thuật. Thực tế có hai quan niệm nghệ thuật về con người: một là con người như một phạm trù tư tưởng, chính trị, đạo đức xã hội; hai là con người như một phạm trù thẩm mĩ. Quan niệm thứ hai là quan niệm chủ yếu của nhà văn. Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân tích nhân vật là chỉ ra các nội dung được thể hiện trong nhân vật như tính cách, ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn…Trái lại khi nghiên cứu thi pháp nhân vật, ta phải khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật. 1.1.2.2. Thi pháp không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật thuộc phạm trù hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn. Mỗi tác phẩm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả. Không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu ý nghĩa cảm xúc. Người ta đã mượn ý niệm về không gian để miêu tả con người. Đó là không gian nghệ thuật chung của mọi người. Không gian nghệ thuật gồm có: không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý, không gian kể chuyện. 1.1.2.3. Thi pháp thời gian nghệ thuật Thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật. Thế giới tồn tại và xác định trong không gian, thời gian. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật không tách rời nhau trong một tác phẩm. Nhà văn có thể chú ý cả hai hoặc một trong hai. Thời gian nghệ thuật luôn mang quan niệm, cảm 12 xúc và ý nghĩa nhân sinh mang tính chủ quan. Vậy thời gian nghệ thuật là hình tượng được hư cấu trong tác phẩm nghệ thuật. 1.1.2.4. Thi pháp chi tiết nghệ thuật Mỗi hình tượng nghệ thuật được thêu dệt nên từ nhiều chi tiết lớn nhỏ khác nhau. Những đối tượng miêu tả như nhân vật, cảnh vật, môi trường… tạo nên bằng hình dáng, đường nét, âm thanh, thuộc tính chọn lọc mà tác giả cho là cần thiết, quan trọng nhất, loại bỏ những cái rườm rà không cần thiết. Chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó đứng riêng thì không có ý nghĩa, nhưng khi kết lại nó biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm. Chi tiết chính là điểm nhìn, thể hiện quan niệm nghệ thuật và tâm hồn tác giả đối với đối tượng đó. Thi pháp học hiện đại khám phá tính quan niệm qua hệ thống các chi tiết nghệ thuật của thế giới nghệ thuật. Quan sát nhiều chi tiết cùng loại hoặc lặp đi lặp lại, ta thấy nó có một lớp ý nghĩa nào đó, bởi tác giả quan tâm và rung cảm với nó. Các chi tiết nghệ thuật bao gồm các loại màu sắc, âm thanh, đồ vật, đường nét, chất liệu…tạo thành các thế giới nghệ thuật khác nhau về chất. Chi tiết nghệ thuật biểu hiện phẩm chất thẩm mĩ của thế giới nghệ thuật và cũng biểu hiện niềm rung cảm của tác giả. 1.1.2.5. Thi pháp cốt truyện Cốt truyện là yếu tố cơ bản của tác phẩm tự sự. Theo định nghĩa truyền thống, cốt truyện là tất cả hành động, biến cố phát triển trong truyện được kể lại. Truyện nào cũng có ít nhất một biến cố xảy ra nhưng không phải cứ có biến cố là có cốt truyện. Chỉ thành truyện khi có ý nghĩa nào đó. Nhiệm vụ của thi pháp cốt truyện không phải đi trình bày các thành phần của cốt truyện mà là ý nghĩa của lối xây dựng cốt truyện ấy, hoặc quan niệm của tác giả chi phối cốt truyện đó. 1.1.2.6. Thi pháp kết cấu Kết cấu là toàn bộ tổ chức của tác phẩm. Kết cấu tác phẩm thực chất là tác giả mở lối cho người đọc đi vào dòng sự kiện, dòng đời. Bố trí điểm nhìn 13 cho bạn đọc sao cho dễ thấy được chiều rộng và chiều sâu của câu chuyện nhằm thấy được ý nghĩa nhân sinh cần thiết cho con người. Nói chung, nghệ thuật kết cấu tác phẩm văn học có mấy phương tiện sau: Tổ chức hệ thống hình tượng nhân vật, sự kiện các chi tiết: Sắp xếp tương quan nhân vật chính phụ, chính diện phản diện. Lựa chọn và sắp xếp tình tiết, chi tiết, hoàn cảnh, đồ vật sao cho ý nghĩa hình tượng nổi lên. Tổ chức hệ thống điểm nhìn và tổ chức văn bản: tổ chức cái nhìn và hệ thống điểm nhìn. Điểm nhìn nghĩa là câu chuyện diễn ra dưới con mắt của ai. Hệ thống điểm nhìn đặt trong không gian, thời gian (nhìn từ quá khứ hay hiện tại, từ tương lai giả định nhìn về hiện tại hoặc quá khứ, nhìn từ xa hay gần…), nhìn một cách chủ quan (từ trạng thái tâm lí) hay khách quan (ghi chép, trần thuật). Hình thức kết cấu văn học rất đa dạng và còn phụ thuộc vào thể loại. 1.1.2.7. Thi pháp lời văn nghệ thuật Lời văn nghệ thuật có tính hình tượng, mỗi lời đều là lời sáng tạo của nhà văn nhằm thực hiện ý muốn của mình. Lời văn nghệ thuật có tính tổ chức cao, được lự chọn theo ý thích, thói quen và khả năng của nhà văn. Nhà văn có một lời văn riêng khác với những gì để kế thừa – đó là thi pháp tác giả. Nghĩa là nhà văn đã tạo ra một hệ thống lời văn độc đáo. 1.1.2.8. Hình tượng tác giả Tiếp xúc với văn bản nghệ thuật ngoài việc cảm nhận nội dung khách quan chúng ta còn giao tiếp với tác giả, đồng cảm với tác giả. Hình tượng tác giả đã đứng ra nói chuyện và giao tiếp với độc giả, vậy chúng ta không nên đồng nhất hai tác giả, tác giả tiểu sử và tác tác giả nghệ sĩ. Hình tượng tác giả có chân dung hành động, ngôn ngữ chứa đựng trong tác phẩm. Đặc biệt có khi tác giả tự miêu tả mình. Nhìn chung hình tượng tác giả thể hiện trên ba mặt: Cái nhìn; giọng điệu; lập trường lựa chọn, phân tích, đánh giá. Hình tượng tác giả có vẻ tồn tại như vô hình. Tuy vậy khi đọc văn, người đọc vẫn đọc theo hướng của tác giả, đọc thầm hay đọc thành tiếng theo giọng điệu của tác giả. 14 Cái nhìn và giọng điệu vô hình nhưng có thực, luôn luôn tồn tại và ổn định suốt theo tác phẩm. Đó là yếu tố thi pháp quan trọng có thể xác định được cho dù nó vô hình dạng. 1.2. Thi pháp văn học Trung Đại Việt Nam 1.2.1. Nội hàm khái niệm văn học Trung đại Việt Nam Nghiên cứu thi pháp văn học trung đại Việt Nam không thể không bắt đầu từ việc xác định nội hàm khái niệm văn học trung đại. Một vấn đề mà cho đến nay không phải mọi người đều đã nhận thức nhất trí. Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX từ trước đến nay có nhiều tên gọi khác nhau. Một thời gian rất dài có tên là Văn học phong kiến. Rõ ràng khái niệm văn học phong kiến không những không thể hiện đúng bản chất nền văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIX, mà còn không thiết lập được hệ thống cấu trúc cho bộ môn nghiên cứu văn học sử. Với tên gọi văn học phong kiến, người đọc dễ lầm tưởng rằng, đây là văn học đại diện cho tiếng nói của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến. Nhưng hiển nhiên, văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX không phải là tiếng nói riêng của giai cấp phong kiến, của chế độ phong kiến, mà chủ yếu là tiếng nói của dân tộc Việt Nam, tiếng nói đại diện cho tư tưởng, tình cảm tiến bộ nhất, lành mạnh nhất của dân tộc. Thuật ngữ văn học phong kiến không còn phù hợp với đối tượng, mà nó định danh cần loại bỏ. Có một thời kỳ dài văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX được gọi là Văn học cổ. Khái niêm “cổ” rất mơ hồ không xác định được về thời gian. Cho nên thuật ngữ văn học cổ Việt Nam đã trở nên thiếu chuẩn xác. Ngoài hai cách gọi trên, các nhà nghiên cứu còn dùng thuật ngữ thứ ba là Văn học cổ điển để định danh cho văn học thế kỷ X – XIX. Kể ra, thuật ngữ “văn học cổ điển” quả đã khắc phục được tính mơ hồ, thiếu chuẩn xác về thời gian của thuật ngữ văn học cổ. Nhưng mâu thuẫn khác lại xảy ra. Khái niệm “cổ điển” khi đi với văn học cho phép chúng ta hiểu ít nhất hai cách. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất