Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn quản lý nhà nước về quốc tịch tại việt nam...

Tài liệu Luận văn quản lý nhà nước về quốc tịch tại việt nam

.PDF
91
102
126

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÁN THỊ VÂN KHÁNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÁN THỊ VÂN KHÁNH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực, được trích dẫn từ các nguồn công khai, hợp pháp, không sao chép từ bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hán Thị Vân Khánh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM ..................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam .......................................................................... 7 1.2. Nội dung, chủ thể, phương thức quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam .................................................................................................. 15 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về quốc tịch .......... 16 1.4. Những điều kiện bảo đảm đến quản lý nhà nước về quốc tịch ......... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM ................................................................................ 27 2.1. Hoạt động xây dựng thể chế quản lý nhà nước về quốc tịch ............ 27 2.2. Hoạt động tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về quốc tịch ........... 53 2.3. Đánh giá chung những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong quản lý nhà nước về quốc tịch ........................................................ 61 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................................................................... 70 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam giai đoạn hiện nay .................................................................... 70 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam giai đoạn hiện nay.................................................................... 72 KẾT LUẬN ................................................................................................... 81 CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ĐÃ CÔNG BỐ ..................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 84 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT LQT : Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 UBND : Ủy ban nhân dân CQDD : Cơ quan đại diện QTVN : Quốc tịch Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Tuyên ngôn nhân quyền thế giới đã khẳng định: “Ai cũng có quyền có quốc tịch. Không ai có thể bị tước quốc tịch một cách tùy tiện hoặc bị từ chối quyền được thay đổi quốc tịch”. Như vậy có thể hiểu, quyền có quốc tịch là cơ sở đầu tiên và là kim chỉ nam xuyên suốt cho việc thực thi các quyền công dân khác. Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam. Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề quốc tịch, ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã rất quan tâm tới vấn đề quốc tịch. Ngày 20 tháng 10 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL quy định một số vấn đề cơ bản nhất về quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh này có ý nghĩa chính trị to lớn, là bước chuẩn bị quan trọng cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1980 tại Điều 53 quy định: “Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam theo luật định”. Lần đầu tiên, vấn đề quốc tịch của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp - văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và tiếp theo là Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc tịch Việt Nam, nhiều quy định của pháp Luật Quốc tịch đã thực sự đi vào cuộc sống, 1 phát huy vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định người có quốc tịch Việt Nam, quyết định việc cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam, thực hiện chính sách bảo hộ của Nhà nước ta đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, đồng thời góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, với xu hướng hội nhập như hiện nay, việc thay đổi quốc tịch của mỗi công dân đã trở nên thuận lợi và đơn giản hơn nhiều so với trước đây nên việc quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc tịch thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương cả ở trong nước và nước ngoài. Mỗi cơ quan trong hệ thống đó đều có vai trò, trách nhiệm nhất định trong phạm vi, nhiệm vụ được phân công, phối hợp. Vì vậy, để từng bước quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc tịch có hiệu quả, thống nhất, đúng pháp luật thì việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Việc lựa chọn và nghiên cứu Đề tài “Quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam” làm Luận văn thạc sĩ luật học sẽ góp phần đánh giá và nâng cao hiệu quả quản lý trên cả về phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, việc quản lý nhà nước về quốc tịch là một nội dung quan trọng của lý luận chung nhà nước và pháp luật. Vấn quản lý nhà nước về quốc tịch đã được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan nhà nước. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến quốc tịch Việt Nam đã được công bố như: - "Sự phát triển của Luật Quốc tịch Việt Nam" của tác giả Trần Xuân Dũng (Luận văn cử nhân luật, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2002); - "Áp dụng Luật Quốc tịch Việt Nam đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Việt Thuận (Luận văn thạc sĩ luật học); 2 - "Quốc tịch - nhìn từ góc độ so sánh" của tác giả Hoàng Ly Anh (Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2001); - "So sánh các đạo Luật Quốc tịch của một số nước Đông Nam Á" - đề tài nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; -“Thực hiện pháp luật về quốc tịch ở Việt Nam” tác giả Trần Thị Tú. Luận văn thạc sỹ luật học, tác giả đã khái quát một số nội dung về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc tịch, trong đó, tác giả có nêu ra một số nội dung liên quan đến quản lý nhà nước về quốc tịch nói chung - “Quản lý nhà nước đối với người không quốc tịch ở Việt Nam”, tác giả Trần Cẩm An. Luận văn thạc sỹ, tác giả đã khái quát về công tác quản lý nhà nước đối với người không quốc tịch trên thế giới cũng như tại Việt Nam. - Báo cáo số 32/BC-BTP ngày 29/01/2018 tổng kết thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành trình Chính phủ, Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực). - Sách hướng dẫn nghiệp vụ Công tác quốc tịch, Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực), NXB. Tư pháp - Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.107. Nhìn chung, các công trình khoa học và tài liệu trên đây đã nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc tịch với ý nghĩa là một chế định quan trọng trong công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, đầy đủ về quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam được thực hiện theo chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên, Đề tài “Quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam” tập trung nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan 3 đến quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam trong quản lý nhà nước về quốc tịch Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật đối với quản lý nhà nước về quốc tịch Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về quốc tịch Việt Nam hiện nay, qua đó tìm hiểu những nguyên nhân, khó khăn và thách thức. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về quốc tịch Việt Nam và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam trong thời gian tới. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam; thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về quốc tịch. Phạm vi nghiên cứu giới hạn dưới góp độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn quản lý nhà nước về quốc tịch trong khoảng thời gian từ 01/7/2009 đến 01/7/2019. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước kết hợp với cách tiếp cận đa ngành, liên ngành về quốc tịch cũng như tham khảo một số nội dung của các công ước quốc tế về quốc tịch. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử, cụ thể; kết hợp các phương pháp như: logic, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận - Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam, bao gồm: khái niệm, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng... - Về mặt thực tiễn + Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo về công tác quốc tịch. + Các kiến nghị về giải pháp của Luận văn có giá trị tham khảo đối với cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác quốc tịch nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luật văn bao gồm 03 phần: Chương 1. Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam 5 Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam Chương 3. Quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam giai đoạn hiện nay Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH TẠI VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và vai trò của quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam 1.1.1. Khái niệm quốc tịch, quản lý nhà nước về quốc tịch 1.1.1.1. Khái niệm quốc tịch Quốc tịch là một khái niệm ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản. Khái niệm này xuất hiện cùng với tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản. Thông thường, người nào cũng có một tổ quốc và từ khi sinh ra đều mang một quốc tịch nhất định. Đây không chỉ là vấn đề tình cảm và tâm lý mà còn là mối liên hệ giữa cá nhân đó với nhà nước. Mối liên hệ này xác định địa vị pháp lý của họ. Bởi vậy, thời điểm lịch sử thay đổi dẫn đến khái niệm về quốc tịch, pháp luật về quốc tịch thay đổi. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, quốc tịch là một chế định pháp lý bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối quan hệ pháp luật được thiết lập giữa cá nhân với một Nhà nước, trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Quốc tịch là căn cứ duy nhất xác định công dân của một Nhà nước, là “sự quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó”. Mỗi quốc gia có một chế định pháp lý khác nhau về quốc tịch, do vậy, Luật quốc tịch mỗi nước quy định cụ thể vấn đề về nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch của mỗi công dân phù hợp với đặc thù của nước đó. Pháp luật về quốc tịch của mỗi nước có những nội dung khác nhau trong đó có sự thừa nhận sự bình đẳng của các cá nhân với nhau trong mọi lĩnh vực đời sống đảm bảo thực hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật phù hợp với luật quốc tế. Sự quy thuộc về mặt pháp lý trong 7 vấn đề quốc tịch đồng nghĩa với việc một công dân nhận được các quyền lợi mà nhà nước và pháp luật nước này đảm bảo cho họ được thụ hưởng, đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đó đối với việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng dân cư của quốc gia mà họ là công dân, cũng như trong mối quan hệ quốc tế mà người đó tham gia nhân danh chính cá nhân họ. Một yếu tố quan trọng góp phần cấu tạo nên quốc gia là cư dân sống trên lãnh thổ quốc gia và việc tổ chức Nhà nước có mối quan hệ qua lại với cư dân đó. Mỗi quốc gia có những tập hợp dân cư khác nhau và có mối quan hệ cũng rất khác nhau với Nhà nước. Mối quan hệ phức tạp này trong khoa học pháp lý gọi là quốc tịch. Quốc tịch là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi con người, là mối quan hệ chính trị và pháp lý gắn kết một cá nhân với một nhà nước, là cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa nhà nước và công dân. Quyền có quốc tịch là một trong những quyền cơ bản đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và được khẳng định trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948: “Ai cũng có quyền có quốc tịch. Không ai có thể bị tước quốc tịch hay tước quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán” (Điều 15 Tuyên ngôn nhân quyền 1948). Theo từ điển Oxford của Anh: Quốc tịch là sự quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó. Theo từ điển Bách khoa Luật của Liên Xô cũ thì “quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là công dân của mình, bảo vệ và bảo hộ công dân đó ở nước ngoài. Về phần mình, công dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước”. Còn các chuyên gia Mỹ thì cho rằng quốc tịch là một đặc tính phát sinh từ sự kiện quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó. Luật Quốc tịch Lào khẳng định: Quốc tịch Lào thể hiện mối quan hệ pháp luật và chính trị, ràng buộc một 8 người nào đó với Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào và là cơ sở xác định người đó có địa vị là công dân Lào. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 và Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đều xác định: Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam. Như vậy, quốc tịch là một khái niệm, một phạm trù chính trị - pháp lý xác định một mối quan hệ giữa cá nhân một con người với một Nhà nước nhất định. Quan hệ này cho phép xác định con người nào đó là công dân của một nước cụ thể. Mỗi quốc gia có một chế độ pháp lý khác nhau về quốc tịch. Mối liên hệ pháp lý này được biểu hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó đối với quốc gia mà họ mang quốc tịch và tổng thể quyền và nghĩa vụ của quốc gia đối với công dân của mình. Do vậy, Luật quốc tịch quy định cụ thể về vấn đề nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch, tước quốc tịch... đối với công dân phù hợp với đặc thù của nước đó. Từ những phân tích nêu trên có thể khái niệm: Quốc tịch là một phạm trù chính trị - pháp lý, thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữa Nhà nước và cá nhân, là căn cứ pháp lý duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. 1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước: là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp,hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội đối ngoại của nhà nước chủ quan của quản lý nhà nước là 9 tổ chức hay mang quyền lực nhà nước trong quá trình hoạt động tới đối tượng quản lý. Quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất. Chấp hành, điều hành, quản lý hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. 1.1.1.3. Quản lý nhà nước về quốc tịch: là việc các cơ quan quản lý nhà nước áp dụng các chính sách, pháp luật tác động lên các đối tượng có liên quan nhằm điều chỉnh, thực hiện việc bảo hộ công dân của quốc gia mình cũng như làm thay đổi quốc tịch và thay đổi sự bảo hộ của nhà nước tới cá nhân đang mang quốc tịch của quốc gia đó. 1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về quốc tịch ở Việt Nam Hoạt động quản lý nhà nước về quốc tịch có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, tính chính trị, an ninh, quốc phòng Đây là đặc trưng của quản lý nhà nước về công tác quốc tịch, bảo đảm phục vụ các mục tiêu chính trị, theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực quốc tịch. Ngoài việc đảm bảo ở Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch và hạn chế đối với tình trạng không quốc tịch đối với những người cư trú trên lãnh thổ Việt Nam thì việc quản lý nhà nước đối với vấn đề quốc tịch vẫn phải đảm bảo để tất cả các đối tượng cần phải chấp hành, đi theo các quan điểm chính trị của Đảng cầm quyền, vai trò quản lý của nhà nước và được triển khai thực hiện theo đúng quan điểm chỉ đạo của cơ quan quyền lực cao nhất là Nhà nước. 10 Thứ hai, tính quyền lực nhà nước Quản lý nhà nước về quốc tịch thể hiện ở các nội dung cơ bản là: chủ thể quản lý có quyền quyết định vấn đề quốc tịch của một cá nhân thông qua việc ban hành Quyết định cá biệt của Chủ tịch nước (cho nhập, cho thôi, cho trở lại, tước quốc tịch Việt Nam, ...) trên cơ sở nguyện vọng của cá nhân và đề xuất của cơ quan có thẩm quyền (loại trừ việc tước quốc tịch Việt Nam của một cá nhân trên cơ sở đề xuất của cơ quan nhà nước, không xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của cá nhân đó). Quyết định của Chủ tịch nước thể hiện tính quyền lực nhà nước một cách mạnh mẽ, nó quyết định một cá nhân có phải là công dân Việt Nam đó hay không hoặc người không quốc tịch đang cư trú ổn định tại Việt Nam, chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật của Việt Nam, đáp ứng đầy đủ các điều kiện để được nhập quốc tịch Việt Nam, có được trở thành công dân Việt Nam, được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước Việt Nam, được công nhận về mặt pháp lý là công dân Việt Nam hay không. Tính quyền lực này mang tính chính trị hết sức rõ nét, bởi nó ảnh hưởng đến cả cá nhân và nhà nước của một quốc gia về cả đối nội và đối ngoại. Công cụ, phương pháp quản lý: Công cụ quản lý nhà nước về quốc tịch được hiểu là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tịch; phương pháp quản lý là sử dụng phương pháp mệnh lệnh hành chính mang tính quyền lực nhà nước. Thứ ba, tính xã hội Việc thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc tịch phải được triển khai thực hiện trong các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội, do đó, việc quán triệt, phổ biến, giáo dục pháp luật cho các cơ quan, đơn vị nhà nước, tổ chức, cá nhân trong xã hội nắm vững và thực hiện đúng quy định của pháp luật về quốc tịch rất là cần thiết. Thứ tư, tính đa dạng và thống nhất 11 Tính chất này của hoạt động quản lý nhà nước về quốc tịch được thể hiện ở chỗ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác quốc tịch; Bộ Tư pháp là cơ quan tham mưu giúp Chính phủ trong công tác quốc tịch, chủ trì và phối hợp với các cơ quan hữu quan thực thi vai trò quản lý nhà nước về quốc tịch đạt được kết quả tốt nhất. Tuy giữa các cơ quan nhà nước về quốc tịch có sự phân cấp về lĩnh vực chuyên môn cũng như về giới hạn thẩm quyền nhưng vẫn thống nhất ở các điểm sau: Nội dung quản lý, phương pháp quản lý nhà nước về công tác quốc tịch cần được đảm bảo thực hiện đúng quy định pháp luật của quốc gia, tiến tới phù hợp với các quy định pháp luật quốc tế; cơ chế phối hợp được thực hiện dựa trên nguyên tắc phối hợp hành chính, hiệu quả, tránh sự rườm rà, chồng chéo; có sự cập nhật, trao đổi thông tin giữa các cơ quan hữu quan trong hoạt động thuộc phạm vi do mình quản lý cho Chính phủ (thông qua Bộ Tư pháp là cơ quan tham mưu, giúp Chính phủ thực hiện) để phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về quốc tịch trên phạm vi toàn quốc. 1.1.3. Các nguyên tắc quản lý nhà nước về quốc tịch ở Việt Nam Hoạt động quản lý về công tác quốc tịch cần phải được thực hiện dựa trên nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ. Cụ thể: Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động quản lý Đảm bảo pháp chế được hiểu như là những điều kiện, những phương tiện và những khả năng hiện thực trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước suy cho cùng là hoạt động thực thi pháp luật ngày càng có hiệu quả trong thực tế. Các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc tịch đảm bảo pháp chế phải diễn ra trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành. 12 Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ Theo nguyên tắc này, các cơ quan tham mưu thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác quốc tịch sẽ được thực hiện phân cấp theo quy định của Luật Quốc tịch từ Trung ương tới địa phương. Các cơ quan nhà nước tại địa phương sẽ thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự chỉ đạo về chuyên môn của của cơ quan nhà nước cấp trên. Tuy nhiên, Sở Tư pháp cùng một số sở, ngành khác có liên quan đến lĩnh vực quốc tịch (Sở Ngoại vụ, Công an tỉnh, Bộ đội biên phòng tỉnh,...) là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh nên cũng chịu sự quản lý, chỉ đạo về tổ chức, bộ máy và chỉ đạo hoạt động của các cơ quan này (theo nguyên tắc tổ chức song trùng trực thuộc). Việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước sẽ được triển khai nhịp nhàng, có sự phối hợp thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả cũng như làm nổi bật vai trò của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc tịch. 1.1.4. Vị trí, vai trò của quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam Quản lý nhà nước về quốc tịch có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Quản lý nhà nước về quốc tịch không chỉ thể hiện trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật như hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật mà nó còn là điều kiện quan trọng để đảm bảo trật tự xã hội. Kết quả và hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để xác định tính chất của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từ đó, quản lý nhà nước về quốc tịch có một số vai trò cơ bản sau: Một là, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Quản lý nhà nướcc về quốc tịch là một quá trình hoạt động có mục đích, bảo đảm các quyền về quốc tịch của cá nhân để từ đó tạo cơ sở cho việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cá nhân được hưởng tư cách công dân Việt Nam. Thông qua các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể 13 trong quá trình thực hiện pháp luật về quốc tịch, pháp luật về quốc tịch Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; các tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ và đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân. Để đạt được mục đích của quản lý nhà nước về quốc tịch, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện đúng quyền hạn và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề quốc tịch cho cá nhân liên quan với mục đích chung là đảm bảo các quyền về quốc tịch, các quyền và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật về quốc tịch có nhiều quy định về quyền của các cá nhân liên quan trong việc giải quyết các vấn đề quốc tịch, vì vậy, pháp luật về quốc tịch không chỉ bảo vệ riêng quyền lợi của Nhà nước mà còn bảo vệ quyền lợi của các cá nhân xin nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, trở lại quốc tịch... nhằm ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật từ các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền. Hai là, nâng cao ý thức pháp luật về quốc tịch của công dân Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và trách nhiệm thực hiện pháp luật mang tính nguyên tắc do Hiến pháp quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về quốc tịch nói riêng là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui phạm pháp luật về quốc tịch được thực thi trong thực tế, vì vậy, các cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vấn đề quốc tịch nói riêng, các tổ chức và công dân phải có trách nhiệm trong việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật về quốc tịch nhằm góp phần giữ gìn bản chất của Nhà nước và nâng cao ý thức pháp luật của công dân. Ba là, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn, ổn định nền kinh tế - xã hội và 14 hội nhập quốc tế Quản lý nhà nước về quốc tịch, tạo cơ sở cho việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam sinh sống trong nước và ở nước ngoài. Thông qua thực hiện pháp luật về quốc tịch, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân được củng cố, tạo sự bình đẳng giữa Nhà nước và công dân. Việc thực hiện các quy định pháp luật về quốc tịch sẽ tác động đến ý thức chấp hành pháp luật của công dân, đặc biệt là trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Ngoài ra, thực hiện pháp luật về quốc tịch còn là điều kiện để thực hiện các quan hệ hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong điều kiện giải quyết các quyền của công dân Việt Nam trong mối quan hệ về tư pháp quốc tế với công dân nước ngoài. 1.2. Nội dung, chủ thể, phương thức quản lý nhà nước về quốc tịch tại Việt Nam 1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về quốc tịch Nội dung hoạt động quản lý nhà nước về quốc tịch đã được quy định trong Luật Quốc tịch Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành, bao gồm các hoạt động như: ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về quốc tịch; phổ biến, giáo dục pháp luật về quốc tịch; kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về quốc tịch; giải quyết khiếu nại, tố cáo về quốc tịch; hợp tác quốc tế về quốc tịch; tổng kết công tác quản lý nhà nước về quốc tịch... nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vấn đề về quốc tịch, đảm bảo các quyền về quốc tịch và bảo hộ công dân Việt Nam. 1.2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về quốc tịch Chủ thể của quản lý nhà nước về quốc tịch theo quy định của pháp luật về quốc tịch là hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bao gồm: Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an; UBND các 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan