VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐÌNH TRỌNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐÌNH TRỌNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ TRỌNG HÁCH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đình Trọng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ................................................................ 9
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật Xử lý vi phạm
hành chính ở Việt Nam ...................................................................................... 9
1.2. Khái niệm vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính, quản lý nhà
nước về xử lý vi phạm hành chính ................................................................... 18
1.3. Nội dung quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh về xử lý vi phạm
hành chính ........................................................................................................ 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
......................................................................................................................... 44
2.1. Sơ lược khái quát đặc điểm tình hình của tỉnh Quảng Nam ..................... 44
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Nam về xử lý vi phạm hành chính ……………………..…………...45
2.3. Những hạn chế, nguyên nhân quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính tại tỉnh Quảng Nam…………………………………..……………….64
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 68
3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
................... ....................................................................................................... 68
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính nói
chung và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
tại tỉnh quảng Nam nói riêng ............................................................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
XLVPHC
Xử lý vi phạm hành chính
CSDL
Cơ sở dữ liệu
TDTHPL
Theo dõi thi hành pháp luật
QLNN
Quản lý nhà nước
STP
Sở Tư pháp
VPHC
Vi phạm hành chính
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Hội nghị tập huấn Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 ...... 47
Hình 2.2: Hội nghị tập huấn công tác xử lý vi phạm hành chính lĩnh vực Quản
lý thị trường ..................................................................................................... 48
Hình 2.3: Hội nghị tập huấn chuyên sâu về pháp luật xử lý vi phạm hành
chính 2014 ....................................................................................................... 49
Hình 2.4: Hội nghị tập huấn nghiệp vụ về pháp luật xử lý vi phạm hành chính
......................................................................................................................... 50
Hình 2.5: Hội nghị tập huấn phần mềm cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành
chính ................................................................................................................ 52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xử lý vi phạm hành chính là công cụ quan trọng trong hoạt động quản
lý nhà nước nhằm duy trì trật tự kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước.
Đây là một vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân,
của tổ chức và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã được
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
Vì thế, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã được Quốc hội thông qua
ngày 20 tháng 6 năm 2012 đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng,
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, đồng thời khẳng định một bước phát
triển mới về cơ chế pháp lý bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, duy trì trật tự kỷ cương trong quản lý hành chính nhà nước ở nước ta phù
hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Luật Xử lý vi phạm hành chính
gồm 6 phần 12 chương, 142 điều quy định đầy đủ toàn diện, các vấn đề về xử
lý vi phạm hành chính trên cơ sở kế thừa những quy định đã được thực tiễn
kiểm nghiệm, khắc phục một cách cơ bản những hạn chế, bất cập của hệ
thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện hành, bảo đảm dân chủ, bảo
đảm tính công khai, minh bạch trong trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành
chính và xử lý vi phạm hành chính.
Trong đó, để triển khai Luật Xử lý vi phạm hành chính, việc tổ chức thực
hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính tại địa phương rất
quan trọng. Vì thế, Ủy ban nhân dân tỉnh đóng vai trò chủ đạo, quyết định hiệu
quả thực thi tại các cấp của chính quyền địa phương, không chỉ các quy định
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng mà
còn có cả các quy định về xử lý vi phạm hành chính nói chung.
1
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với vị trí là cơ
quan quản lý nhà nước ở địa phương được quy định tại Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015. Sở Tư pháp với vị trí là cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương được
quy định Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các
cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, trong đó có nhiệm vụ “quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính” [khoản 2, Điều 8 Nghị định số 24/2014/NĐCP]. Các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính được quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Nghị định số
97/2017/NĐCV ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi bổ sung
một số Điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính và
các Nghị định quy định chi tiết thi hành luật này về xử phạt vi phạm hành
chính và xử lý vi phạm hành chính đang đặt ra nhiều nhiệm vụ hết sức khó
khăn, phức tạp đòi hỏi sự nổ lực của các ngành các cấp ở Trung ương và địa
phương.
Thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam trong những năm qua cho thấy việc đảm
bảo thực hiện quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính bên cạnh những ưu
điểm đã bộc lộ nhiều bất cập, như có nhiều qui định pháp luật còn chồng chéo,
không thống nhất, chưa phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi. Hoạt động giải
thích pháp luật vi phạm hành chính đã triển khai song hiệu quả chưa cao dẫn
đến việc áp dụng hoạt động quản lý xử lý vi phạm hành chính ở nhiều nơi còn
khá lúng túng và bị động.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
2
Luật Xử lý vi phạm hành chính còn chưa kịp thời, gây khó khăn trong công
tác quản lý, xử lý vi phạm hành chính. Cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác
quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính chưa đảm bảo. Việc phối hợp
giữa cơ quan chức năng trong xử lý vi phạm hành chính chưa chặt chẽ, chưa
kịp thời, nhất là việc trình các hồ sơ vượt thẩm quyền của người lập biên bản;
việc thực hiện công tác báo cáo, thống kê còn chồng chéo, chưa có phần mềm
cơ sở dữ liệu về vi phạm hành chính.
Về mặt lý luận, để đảm bảo thực hiện công tác quản lý xử lý vi phạm
hành chính cũng đặt ra nhiều vấn đề nhưng chưa có một công trình nghiên cứu
mang tính chuyên sâu nào. Một số công trình được công bố chỉ nghiên cứu
chung về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính ở các lĩnh vực như hải quản, lĩnh
vực công thương, lĩnh vực bảo vệ môi trường.v.v. Rõ ràng, cả về mặt lý luận,
cả về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề đảm bảo thực
hiện công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính để đề xuất và luận chứng các
giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật đó nghiêm minh, chính xác, kịp
thời là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ những diễn biến thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam, tôi thực
hiện đề tài: “Quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh về xử lý vi phạm
hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” nhằm làm cơ sở khoa học cho
việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính tại địa
phương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo đường lối đổi mới của đất nước ta và nhất là nhằm thực hiện chủ
trương "quản lý nhà nước bằng pháp luật", việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận về quản lý pháp luật, về cơ chế thực hiện quản lý pháp luật nói chung,
pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Có thể kể đến một số công trình sau:
3
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi
phía bắc ở nước ta hiện nay - thực trạng và các phương hướng, giải pháp"
của Lê Thanh Bình, 2002.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay" của Bùi Văn Thịnh, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay" của Đặng Thanh
Sơn, 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh
vực hải quan và giải pháp xử lý "của Lê Nguyễn Nam Ninh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà
nước về hải quan đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt
Nam hiện nay" của Bùi Văn Hải, 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường đối với doanh nghiệp trong khu công nghiệp ở Việt Nam”
của Nguyễn Thị Bình, 2013.
- Luật văn thạc sĩ luật học: “Vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh
vực hải quan và biện pháp ngăn chặn”, của Nguyễn Thị Mai Hương, 2015.
- Luật văn thạc sĩ luật học: “Xử lý vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội”, của Nguyễn
Trường Sơn, 2016.
- Luật án tiến sĩ luật học: “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý trật tự xây dựng đô thị: thực trạng và giải pháp”, của Nguyễn Bá
Phùng, 2016
- Luật văn thạc sĩ luật học: “Xử lý vi phạm hành chính về buôn bán
hàng giả từ thực tiễn quận Hoàn Kiếm, Thành Phố Hà Nội”, của Nguyễn
Trường Sơn, 2016.
4
- Luật án tiến sĩ luật học: “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý trật tự xây dựng đô thị: thực trạng và giải pháp”, của Nguyễn Bá
Phùng, 2016.
Ngoài ra, còn có một số bài viết của các cán bộ chuyên gia trong và
ngoài ngành Tư pháp liên quan đến đề tài luận văn đã được đăng trên cổng
thông tin điện tử của Bộ Tư pháp như bài viết của Thạc sĩ Trần Thị Thu Hà,
Giảng viên khoa luật hành chính - nhà nước, Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí
Minh - pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động của các doanh
nghiệp; bài viết của PGS, Tiến sĩ Hà Hùng Cường, nguyên Bộ trưởng, Bộ Tư
pháp đăng trên Báo điện tử nhân dân - Luật Xử lý vi phạm hành chính - bước
phát triển mới về cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân ở
nước ta; bài viết của Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn, Cục trưởng Cục Quản lý xử lý
vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đăng trên
trang điển tử Luật Minh Khuê - vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành
chính; Tiến sĩ Lê Vương Long và thạc sĩ Hoàng Văn Sao đăng trên Tạp chí
Luật học - đặc san về xử lý vi phạm hành chính; một số bài viết về những
vướng mắc khi xử lý vi phạm hành chính ở các địa phương trong từng lĩnh
vực cụ thể…
Các công trình nghiên cứu trên chỉ chủ yếu tập trung vào các vấn đề về
hoàn thiện pháp luật vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính, pháp luật
hải quan, pháp luật môi trường, pháp luật công thương, pháp luật trật tự đô
thị, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động hải quan, môi trường,
công thương, trật tự đô thị, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh
vực xử lý vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay và một số lĩnh vực công tác
cụ thể khác, chưa có đề tài nghiên cứu một cách tổng quan và đáng giá một
cách sâu sắc, cụ thể thực trạng, cũng như những ưu điểm, hạn chế, từ đó rút ra
những phương hướng và giải pháp hoàn thiện trong việc thực hiện quản lý
5
nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về xử lý vi phạm hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về xử phạt hành
chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam để đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước về lĩnh vực này trên địa bàn cấp tỉnh
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận quản lý nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính;
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ( từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề cơ bản của việc quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính.
- Về không gian: từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam
- Về thời gian: từ 2012 đến ngày 2018.
- Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản
của quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính của Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh.
6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy
vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhà nước, pháp luật, quản lý nhà nước
trên các lĩnh vực.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp lịch sử cụ
thể. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của một
số bộ môn khoa học khác như: phương pháp phân tích, thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ hơn những vấn đề lý luận quản lý
nhà nước về xử lý vi phạm hành chính;
- Luận văn đã phân tích, đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước về
xử lý vi phạm hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn đã đề xuất được hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý nhà
nước về xử lý vi phạm hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam;
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
học tập, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực luật hành chính và
quản lý công.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
7
hành chính;
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về
xử lý vi phạm hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật Xử lý
vi phạm hành chính ở Việt Nam
Sự hình thành và phát triển của pháp luật xử lý vi phạm hành chính ở
Việt Nam kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ công hòa cho đến nay,
có thể tạm thời phân chia thành các giai đoạn chính sau đây:
1.1.1. Giai đoạn 1945 – 1954
Một số văn bản tiêu biểu đặc trưng trong giai đoạn này: Sắc lệnh số
20/SL ngày 08/9/1945 về hạn sau một năm người trên 8 tuổi mà không biết
đọc viết chữ quốc ngữ. Sắc lệnh số 174/SL ngày 06/9/1946: vi phạm về sử
dụng điện thoại, thành lập, hoạt động hội trái pháp luật, không chịu nộp thuế,
những hành vi đã phạm tội nhưng chưa đáng phạt tù
Chế tài phạt tiền, giải tán hội, cưỡng chế nộp thuế, tịch thu tang vật,
phương tiện, tước quyền sử dụng giấy phép, phê bình, cưỡng chế làm thêm
ngày công.v.
Hành vi, chế tài ít, chưa thống nhất, không nhất quán, rời rạc nhưng cơ
bản đáp ứng được yêu cầu quản lý xã hội giai đoạn hiện này [5].
1.1.2. Giai đoạn 1954 – 1989
Một số văn bản tiêu biểu đặc trưng trong giai đoạn này: Quyết định số
117/CP ngày 13/6/1972 ban hành Điều lệ lao động thời chiến (trong độ tuổi
lao động có sức lao động mà không chịu lao động, không có nghề nghiệp
chính đáng; Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977 ban hành Điều lệ xử phạt vi
cảnh (vi phạm vi cảnh), Nghị định số 46/HĐBT ngày 10/5/1983 của Hội đồng
Bộ trưởng (hành vi đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép...)
9
Chế tài xử lý: Đưa đi tập trung cải tạo theo thủ tục hành chính, xử phạt
hành chính, phê bình, phạt giam hành chính, phạt lao động công ích
Các văn bản quy định về xử lý vi phạm hành chính khá chặt chẽ, đầy
đủ, thống nhất hơn trước nhưng nhiều chế tài quá nghiêm khắc, “lấn sân”
sang cả hình sự, thẩm quyền quy định và hình thức văn bản cũng chưa nhất
quán thống nhất, chưa có văn bản điều chỉnh chung [5].
1.1.3. Giai đoạn 1989 - 2018
Một số văn bản tiêu biểu đặc trưng trong giai đoạn này: Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính 1989; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995;
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 2007; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2008; Luật Xử lý
vi phạm hành chính năm 2012
Chế tài xử lý: cảnh cáo, phạt tiền (phạt chính); tước quyền sử dụng giấy
phép, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm (bổ sung); buộc khôi phục lại
tình trạng ban đầu bị thay đổi bởi vi phạm hành chính gây ra, buộc tháo dỡ
công trình xây dựng trái phép (biện pháp khắc phục hậu quả)
Được ban hành đầu tiên từ năm 1989, từng bước được hoàn thiện qua
ba lần sửa đổi, bổ sung và cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành, Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính đã góp phần quan trọng trong công tác phòng
ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính ở nước ta, bảo
đảm trật tự quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác
quản lý nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh, giữ vững ổn định trật tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội
trong bối cảnh hội nhập
Tuy nhiên, thực tế thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính diễn ra
rất phức tạp, trong khi lĩnh vực này lại chưa được tổ chức theo dõi, quản lý
thống nhất, thường xuyên, bài bản nên đã ảnh hưởng đến hiểu quả thi hành
10
của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và hiệu quả quản lý của nhà nước,
ảnh hưởng đến kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Qua 8 năm thực hiện, Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập đòi hỏi
phải khẩn trương nghiên cứu, xây dựng soạn thảo ban hành một văn bản Luật
để thay thế nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội
cả đất nước trong giai đoạn phát triển mới bởi các lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mặc dù Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 đã
qua bốn lần sửa đổi, bổ sung (1995, 2002, 2007, 2008), nhưng vẫn bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập lớn trước những đòi hỏi, thách thức của hoạt động
quản lý nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ở tầm Pháp lệnh, các quy định về
xử lý vi phạm hành chính cũng chỉ mang tính chất tình thế, chưa thể xác lập
những quy định pháp luật với tầm nhìn chiến lược cho một giai đoạn phát
triển mới. Bên cạnh đó, việc thiếu các quy định cụ thể để đảm bảo tính dân
chủ, tính chính xác, minh bạch khách quan trong việc xem xét, quyết định
việc xử phạt vi phạm hành chính, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, thủ
tục, hình thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hành chính
còn hạn chế, bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập, đã làm giảm hiệu lực và
hiệu quả của một công cụ pháp lý quan trọng – xử lý vi phạm hành chính – để
cùng với pháp luật hình sự góp phần đắc lực vào giữ gìn trật tự, kỷ cương
quản lý hành chính của nhà nước, giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân dân, đấu tranh phòng, chống hiệu
quả đối với vi phạm hành chính, tội phạm trong thời kỳ mới
Thứ hai, trong thời gian qua, để giải quyết sự “xơ cứng” trong cách quy
định về thẩm quyền, về mức xử phạt tối đa trong lĩnh vực quản lý nhà nước
tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển
11
của kinh tế - xã hội, nhiều văn bản luật chuyên ngành như: Luật Chứng
khoán, Luật Quản lý thuế, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng.v.v. đã trực tiếp quy định về hành vi vi phạm hành chính,
hình thức xử phạt thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Có thể nói rằng,
bên cạnh các điểm tích cực, thì các quy định này của các luật chuyên ngành
cùng với nhiều Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính hiện hành đã
dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất và chồng chéo trong hệ thống pháp luật,
tạo ra tình trạng khó kiểm soát về xử phạt vi phạm hành chính. Để góp phần
giải quyết cơ bản vấn đề này đòi hỏi phải có sự đổi mới trong việc quy định
về thẩm quyền, hình thức và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính ở tầm một
đạo luật mang tính luật gốc nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ
thống pháp luật
Thứ ba, yêu cầu “thể chế kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của
Đảng, cu thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã họi chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
bảo dảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.v.v.” là chủ
trương lớn xuyên suốt trong nhiều nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Điều đó đòi hỏi Nhà
nước ta cần phải quy phạm hóa các quyền tự do dân chủ, quyền con người
bằng các quy định của một đạo luật. Điều này cũng phù hợp với chủ trương
“Giảm dần pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và nghị định của
Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật. Những pháp lệnh, nghị định
này sau một thời gian thực hiện, được kiểm nghiệm là đúng thì hoàn chỉnh để
chuyển thành luật” đã được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII.
Thứ tư, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính được ban hành năm
1989, sau đó được thay thế bằng Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
12
1995, trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới;
nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập hoặc công nhận
do vậy, chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng,
chống vi phạm hành chính trong điều kiện hội nhập quốc tế. Do đó chưa tạo
cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam
đã cam kết trong các điều ước quốc tế như: Công ước của Liên hiệp quốc về
quyền trẻ em, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền công dân trong
các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2012 để thay thế Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) sẽ góp phần đáng kể vào việc “nội
luật hóa” nhiều nguyên tắc, quy định quan trọng của luật pháp quốc tế đã
được Việt Nam thừa nhận hoặc cam kết tuân thủ vào hệ thống pháp luật xử lý
vi phạm hành chính của Việt Nam, đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn và vị
thế của Việt Nam được tăng cường hơn trong cộng đồng quốc tế.
Luật Xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) là một trong các đạo luật
quan trọng của Nhà nước ta. Luật quy định những vấn đề cơ bản về xử lý
hành chính. Mặc dù xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành
chính là hai nội dung tương đồng độc lập, có sự khác biệt về đối tượng bị xử
phạt, đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, về thẩm quyền,
thủ tục xử phạt cũng như thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý vi
phạm hành chính. Sau khi thảo luận, cân nhắc kỹ, Quốc hội thấy rằng cần
thiết phải kế thừa Pháp lệnh XLVPHC, bao gồm xử phạt vi phạm hành chính
và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Tuy nhiên, nội dung thuộc hai vấn
đề này được chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện theo hướng nhằm đáp ứng hiệu
quả các yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính và
bảo đảm tốt hơn nữa quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đã được Hiến pháp
13
quy định.
Luật XLVPHC là Luật có nội dung điều chỉnh rộng, bao gồm các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội, nội dung lớn, phức tạp. Chính vì vậy,
Luật được bố cục thành 06 phần, 12 chương và 142 điều, bao gồm: Phần thứ
nhất về những vấn đề chung (từ Điều 1 đến Điều 20); Phần thứ hai quy định
về xử phạt vi phạm hành chính (gồm 03 chương, 68 điều, từ Điều 21 đến Điều
88); phần thứ ba quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính (gồm 05
chương, 30 điều, từ Điều 89 đến Điều 118); Phần thứ tư quy định về các biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính (gồm 02 chương,
14 điều, từ Điều 119 đến Điều 132); Phần thứ năm quy định đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính (gồm 02 chương, 8 điều, từ Điều 133 đến
Điều 140) và Phần thứ sáu quy định về điều khoản thi hành (gồm 02 điều, từ
Điều 141 đến Điều 142).
Những nội dung chính của Luật XLVPHC (gồm có các phần chủ yếu):
- Phần thứ nhất (về một số quy định chung của Luật)
Phần này gồm các điều quy định về phạm vi điều chỉnh, giải thích thuật
ngữ, nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước và chế độ áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính; đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính; thời hiệu
xử lý vi phạm hành chính; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong xử lý vi phạm
hành chính; các trường hợp không xử phạt vi phạm hành chính; các hành vi
nghiêm cấm; trách nhiệm quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính; áp dụng Luật XLVPHC đối với hành vi vi phạm hành
chính ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.v.v.
- Phần thứ hai (các quy định về xử phạt vi phạm hành chính)
Phần này quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, biện
pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng; thẩm quyền xử phạt và áp
14
- Xem thêm -