Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------------
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
“ QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM - HÀN QUỐC TRONG XU THẾ HỘI
NHẬP HIỆN NAY”
Giáo viên hướng dẫn : T.S Nguyễn Văn Hồng
Sinh viên thực hiện:
Dương Minh Châu
Lớp A10 - K38C – KTNT
Hà nội 2003
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương I: Quan hệ kinh tế quốc tế và chính sách quan hệ kinh tế quốc
1
tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
1
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế
2
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế
3
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế
9
IV. Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế
11
1. Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế
11
1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế
11
1.2 Những quan điểm chỉ đạo
12
1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010
13
2. Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và
15
trong quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói riêng
Chương II: Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
18
Quốc giai đoạn 1992 – 2003
I. Khái quát chung
18
II. Quan hệ thương mại Việt Nam – Hàn Quốc
20
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc
20
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc
26
2.1 Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc
26
2.1 Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc
29
III. Quan hệ đầu tư Việt Nam – Hàn Quốc
32
1. Khái quát chung
32
2. Lĩnh vực đầu tư
36
3. Địa bàn đầu tư
37
4. Hình thức đầu tư
40
IV. Các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác
44
1. Viện trợ không hoàn lại
44
2. Tín dụng ưu đãi
47
3. Xuất khẩu lao động
48
V. Đánh giá quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn Quốc
51
1. Đánh giá tổng quát
51
1.1 Về phía Việt Nam
51
1.2 Về phía Hàn Quốc
53
2. Những điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác Việt Nam – Hàn
54
Quốc
3. Những hạn chế, khó khăn và một số vấn đề cấp bách đặt ra cho
56
quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
Chương III. Triển vọng và giải pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế thương
mại Việt Nam – Hàn Quốc
3
60
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
I. Định hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – Hàn
60
Quốc trong thời gian tới
II. Một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc
63
1. Giải pháp về môi trường, thể chế
63
2. Giải pháp cho quan hệ thương mại
65
2.1 Tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam
65
2.2 Xây dựng phương thức bán hàng hiệu quả
67
2.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại
68
3. Giải pháp cho quan hệ đầu tư
71
3.1 Xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn, mềm
71
dẻo
3.2 Phát triển cơ sở hạ tầng
73
3.3 Cải cách thủ tục hành chính
74
3.4 Nâng cao trình độ của các doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện
75
liên doanh, liên kết có hiệu quả
4. Giải pháp cho quan hệ xuất khẩu lao động
76
4.1 Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách
77
4.2 Chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu
77
4.3 Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu
78
Kết luận
Tài liệu tham khảo
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
CHƯƠNG I:
QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH QUAN HỆ KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Quan hệ kinh tế quốc tế
1. Khái niệm quan hệ kinh tế quốc tế
Ngay từ lúc mới xuất hiện, con người đã luôn có nhu cầu trao đổi với
nhau để tồn tại. Khi xã hội loài người phát triển lên những cấp độ cao hơn,
cùng với sự ra đời của bộ tộc, làng xã, nhà nước, nhu cầu trao đổi đó càng
được mở rộng. Sự trao đổi không chỉ dừng lại giữa cá nhân này với cá nhân
khác mà đã phát triển thành mối quan hệ tuỳ thuộc và tác động qua lại lẫn
nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia. Trong nền kinh tế thế giới hiện
nay, mối quan hệ đó chính là quan hệ kinh tế quốc tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế được hiểu là tổng thể các mối quan hệ vật chất,
tài chính có liên quan đến tất các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra
giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, chủ
yếu bao gồm:
Quan hệ kinh tế quốc tế về trao đổi hàng hoá (hay còn gọi là mậu dịch
quốc tế): là một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế chủ yếu, trong đó diễn ra
việc di chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác. Di chuyển hàng hoá
quốc tế được thực hiện thông qua hình thức buôn bán quốc tế. Trên thị trường
thế giới, người ta thường chia hàng hoá trao đổi giữa các nước thành hai nhóm:
hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển vốn đầu tư (hay còn gọi là đầu tư
quốc tế): Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển các phương tiện đầu tư từ
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
nước này sang nước khác nhằm thu lợi nhuận. Đầu tư quốc tế thực chất là di
chuyển các yếu tố sản xuất trên qui mô toàn thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế về di chuyển sức lao động: là quan hệ kinh tế
quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển sức lao động từ nước này sang nước
khác trên phạm vi thế giới. Di chuyển quốc tế sức lao động được coi như di
chuyển hàng hoá quốc tế, nhưng đó là loại hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức
lao động, trên thị trường đặc biệt - thị trường sức lao động. Loại quan hệ kinh
tế quốc tế này dẫn đến việc di dân trên phạm vi thế giới.
Quan hệ kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ: Trong điều
kiện hiện nay hình thức này được thể hiện phổ biến dưới dạng chuyển giao
công nghệ: buôn bán Licence, Know - how, Engineering…
Quan hệ tiền tệ quốc tế: là một loại quan hệ kinh tế quốc tế trong đó
diễn ra sự di chuyển các phương tiện tiền tệ từ nước này sang nước khác trên
qui mô quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các quan hệ buôn bán, đầu tư.
Tiền tệ với chức năng tiền tệ thế giới làm trung gian cho các quan hệ hàng hoá,
di chuyển vốn cũng như các quan hệ khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan
hệ này.
2. Vai trò của quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hệ thống kinh tế thế giới, mỗi quốc gia không thể tồn tại và phát
triển mà không có mối quan hệ trao đổi với quốc gia khác. Điều này càng có ý
nghĩa trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khi toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ
và trở thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia. Do đó quan hệ kinh tế quốc tế
luôn giữ một vai trò quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi nước.
Quan hệ kinh tế quốc tế được xem như một biện pháp nhằm bổ sung
nguồn lực cho phát triển kinh tế của các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế đối
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
ngoại sẽ giúp các quốc gia tiếp thu vốn và công nghệ tiên tiến để thực hiện
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng năng động, tăng trưởng với tốc độ cao. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với các quốc gia đang phát triển khi mà nền kinh tế còn nghèo, trình độ phát
triển còn thấp. Vốn và công nghệ hiện đại giúp các quốc gia này nâng cao trình
độ sản xuất trong nước, góp phần rút ngắn cách biệt về kinh tế với các nền
kinh tế phát triển.
Bên cạnh đó, thị trường nội địa của một nước thường chật hẹp, không đủ
để đảm bảo phát triển nền công nghệ với quy mô sản xuất hàng loạt. Điều này
cho thấy chỉ có mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại mới khắc phục được hạn
chế trên. Tăng cường quan hệ với các nước giúp mở rộng thị trường tiêu thụ,
góp phần tăng thu ngoại tệ đồng thời thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Hơn nữa, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại còn giúp khai thác triệt
để các thế mạnh của mỗi nước, nâng cao đời sống người dân, tạo điều kiện
củng cố hoà bình, ổn định.
Riêng đối với các nước công nghiệp phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại tạo thuận lợi cho việc bành trướng nhanh chóng sức mạnh kinh tế
của các nước như: tìm kiếm thị trường mới để giải quyết khủng hoảng thừa của
hàng hoá; tìm kiếm nơi đầu tư thuận lợi hơn, đem lại lợi nhuận cao hơn; giảm
được chi phí sản xuất do tận dụng được nguồn lao động và tài nguyên rẻ ở các
nước đang và kém phát triển.
II. Quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế là bộ phận cốt lõi tạo nên tính hữu cơ của nền
kinh tế thế giới, nhờ đó mà các nền kinh tế quốc gia có thể liên kết với nhau
thành một thể thống nhất. Do đó, quá trình phát triển của quan hệ kinh tế quốc
tế chính là sự phản ánh quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới mà ở đó
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
nền kinh tế của các quốc gia phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì
vậy mà ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thế giới, các quan
hệ kinh tế quốc tế cũng có những điểm khác biệt nhất định.
1. Trong giai đoạn đầu, nền kinh tế thế giới đang ở thời kì Chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh, phân công lao động quốc tế từ chỗ sử dụng những khác biệt
về điều kiện tự nhiên đã phát triển thành phân công lao động quốc tế tư bản
chủ nghĩa được thực hiện thông qua buôn bán quốc tế. Sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất ở một số nước dẫn tới nhu cầu mở rộng thị
trường và nơi tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận. Đồng thời, phân công lao
động quốc tế tư bản chủ nghĩa làm tăng nhanh sự phát triển không đồng đều
của chủ nghĩa tư bản, làm sâu sắc thêm sự cách biệt trình độ phát triển kinh tế
giữa một nhóm nhỏ các nước công nghiệp phát triển với phần còn lại của thế
giới. Do đó, quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này thường chỉ diễn ra
giữa một số nước tư bản.
2. Giai đoạn phát triển thứ hai, bắt đầu từ cuối thế kỉ 19, nền kinh tế thế giới
chuyển sang thời kì Chủ nghĩa đế quốc. Phân công lao động quốc tế thời kỳ
này được biểu hiện trước hết bằng sự thống trị thị trường trong và ngoài nước
của các liên minh độc quyền mạnh nhất trên thế giới. Quan hệ kinh tế quốc tế
trong giai đoạn này do đó là sự liên minh giữa các nhà tư bản dựa trên sự phân
chia thế giới về mặt kinh tế, là liên minh chính trị giữa các nhà nước với nhau
dựa trên việc phân chia lãnh thổ thế giới. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng song
song tồn tại mối quan hệ giữa chính quốc và thuộc địa. Các quan hệ thực dân
này đã khiến cho các cường quốc công nghiệp phát triển liên hệ chặt chẽ với
lãnh thổ hải ngoại rộng lớn mà ở đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
còn rất thấp và quan hệ sản xuất này còn mang tính chất của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Do đó, nét nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời kì này là xuất
khẩu tư bản từ chính quốc vào thuộc địa. Trong các nước tư bản công nghiệp
phát triển, quá trình tập trung sản xuất vào tay các tổ chức độc quyền diễn ra
mạnh mẽ, gắn liền với việc tăng nhanh tích luỹ tư bản và năng suất lao động.
Sản xuất công nghiệp tăng lên nhanh chóng. Ngược lại, ở một số nước thuộc
địa và phụ thuộc lại diễn ra quá trình lạc hậu và ngừng trệ về trình độ phát
triển kinh tế. Đây chính là hình thức đặc trưng của mâu thuẫn giữa tư bản và
lao động trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, mâu thuẫn giữa các cường
quốc trong việc chạy đua theo lợi nhuận tối đa và cạnh tranh giành sự thống trị
thị trường thế giới ngày càng gay gắt.
3. Giai đoạn thứ ba của nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng sự thắng lợi
của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười và sự xuất hiện một nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự thắng lợi này và sự hình thành
của nhà nước công nông tách khỏi hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa dẫn đến
sự phá vỡ nền kinh tế thế giới chủ nghĩa tư bản thống nhất. Trên thế giới, bên
cạnh hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã tồn tại loại hình kinh tế - xã
hội xã hội chủ nghĩa, trong đó nền kinh tế - xã hội phát triển theo những quy
luật hoàn toàn khác với quy luật của chủ nghĩa tư bản.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, bên cạnh quan hệ giữa các nước trong hệ
thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện quan hệ giữa một bên là
Liên Xô với bên kia là thế giới tư bản với quy mô hạn chế. Các quan hệ này
chủ yếu là quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể bình đẳng của nền kinh
tế thế giới. Giai đoạn phát triển này của nền kinh tế thế giới kéo dài đến sau
đại chiến thế giới lần thứ II, khi mà trên thế giới ngoài Liên Xô còn xuất hiện
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác ở châu Âu và châu Á hình thành nên
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và nền kinh tế thế giới xã hội chủ nghĩa.
Trong phạm vi kinh tế thế giới tồn tại hai hệ thống đối lập: xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa. Mỗi hệ thống kinh tế đều phát triển theo những quy luật
riêng của mình và cơ cấu kinh tế xã hội bên trong của nó hoàn toàn khác nhau.
Song, đồng thời giữa hai hệ thống còn tồn tại những quan hệ lẫn nhau và cả hai
hệ thống đều tham gia vào phân công lao động quốc tế quốc tế và buôn bán
quốc tế như những bạn hàng bình đẳng.
Các quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn này phát triển hết sức phức
tạp. Mỗi hệ thống kinh tế đều có kiểu quan hệ riêng của mình, về bản chất nó
được xác lập trên những nguyên tắc hoàn toàn đối lập nhau. Trong hệ thống
kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc
dần dần được xoá bỏ và đã hình thành các nước mới độc lập - các nước đang
phát triển. Mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa chuyển thành mâu thuẫn
giữa các nước tư bản công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Đồng
thời những mâu thuẫn lẫn nhau giữa các nước đế quốc chủ nghĩa cũng ngày
càng thêm gay gắt và triền miên. Tất cả những điều đó đã đẩy chủ nghĩa tư bản
vào cuộc tổng khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Bên cạnh đó địa vị kinh tế của
các nước đang phát triển ngày càng được củng cố và sự phát triển của nó có
ảnh hưởng không những đến sự tồn tại của hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa
mà còn ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế nói chung. Trong quan hệ kinh tế
quốc tế ở giai đoạn này, mâu thuẫn cơ bản cũng là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
tư bản và chủ nghĩa xã hội được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh kinh tế giữa hai
hệ thống.
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
4. Giai đoạn hiện đại của nền kinh tế thế giới là giai đoạn mà ở đó các nhóm
nước trong nền kinh tế thế giới được hình thành chủ yếu dựa vào trình độ phát
triển kinh tế và khu vực địa lý. Một thế giới đa cực đang hình thành.
Sau khi Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa châu Âu tan rã, các
cường quốc phương Tây trở thành những thế lực chủ yếu chi phối cục diện
kinh tế - chính trị thế giới. Tỷ trọng các nước đang phát triển trong sản xuất
công nghiệp thế giới chỉ chiếm một phần nhỏ, 2/3 quan hệ buôn bán quốc tế
của các nước đang phát triển gắn với các nước phát triển, chỉ 1/3 còn lại là các
nước phát triển với nhau; 95% vốn đầu tư nước ngoài xuất phát từ các nước
phát triển, trong số đó chỉ có 1/4 đi vào các nước đang phát triển phần còn lại
tập trung chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển.
Hoà nhập vào nền kinh tế thế giới trong thế so sánh lực lượng không có
lợi, các nước đang phát triển luôn tìm cách vươn lên để hạn chế thiệt thòi của
kẻ yếu. Nhiều nước Đông Á đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
trong quá trình hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có những chính sách,
những biện pháp thích hợp nhờ đó đã duy trì được nhịp tăng trưởng đáng kể.
Do nhịp độ tăng trưởng của các nước đang phát triển nói chung nhích
lên trong khi nhịp độ tăng trưởng ở các nước phát triển hầu như dậm chân tại
chỗ, các nước phát triển có xu hướng bám chặt hơn, thậm chí tăng cường các
biện pháp o ép đối với các nước đang phát triển để giữ vững lợi thế so sánh
của mình trong quan hệ hợp tác. Đồng thời cạnh tranh và mâu thuẫn giữa các
nước đang phát triển gay gắt lên thêm.
Từ tình hình trên, xu hướng khu vực hoá trong các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển có thể nhằm tăng cường lợi thế của mỗi nhóm
nước trong hợp tác với các nước ngoài khu vực và thực tế cho thấy quá trình
này đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao
trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới như buôn bán, tổ chức
11
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
sản xuất, nghiên cứu khoa học công nghệ cũng như các lĩnh vực giáo dục đào
tạo, văn hoá, lối sống… Hiện nay trên thế giới đã hình thành nhiều liên kết khu
vực như Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Nhóm các nước phát triển (G7), Diễn đàn kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)…Tuy
nhiên do xu hướng, xu thế chung của khu vực hoá sẽ không thể sống nếu tách
rời hoặc đi ngược lại với toàn cầu hoá trong hợp tác kinh tế. Điều đó là do các
vấn đề toàn cầu hoá ngày càng trở nên gay gắt như vấn chiến tranh và hoà
bình, đề lương thực, vấn đề môi trường sinh thái, vấn đề dân số…trong đó nổi
cộm nhất hiện nay là vấn đề chống khủng bố trên toàn thế giới. Vụ khủng bố
kinh hoàng diễn ra trên đất Mỹ ngày 11/9/2001 mới đây là một minh chứng
điển hình cho tính tất yếu của hợp tác toàn cầu.
Giữa các nước đang phát triển với nhau, một mặt có nhu cầu liên kết tự
nhiên giữa những người đồng cảnh, mặt khác do nhu về vốn ngày càng tăng
trong khi tỷ trọng FDI vào các nước này không tăng hoặc ngày càng giảm, sự
cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư ngày càng gay gắt hơn. Các nguồn viện trợ và
cho vay dành cho các nước đang phát triển nói chung ngày càng giảm, trừ một
số ít nước có khả năng trả nợ tin cậy.
Các dự báo trên thế giới gần như thống nhất rằng trong nửa đầu thế kỉ
21, châu Á - Thái Bình Dương với tiềm năng phong phú, tính năng độc lập,
nhịp độ tăng trưởng thần kì và bước đi tương đối vững chắc sẽ trở thành trung
tâm kinh tế thế giới, thậm chí có dự báo cho rằng trung tâm kinh tế thế giới
chuyển từ châu Âu sang châu Á trong đó nổi lên là Đông Á - Tây Thái Bình
Dương.
Do qui luật cạnh tranh và thời gian đã trở nên thúc bách các cường quốc
kinh tế cả trong và ngoài khu vực đều phải tính đến việc cầm chân và phát
triển ảnh hưởng ở khu vực này. Gần đây đã xuất hiện nhiều động thái cho thấy
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
sự bắt đầu quan tâm (hoặc quan tâm nhiều hơn) của các nước lớn đối với khu
vực này, không những từ Nhật, Trung Quốc mà còn cả từ một số nước Tây Âu
và Mỹ, cụ thể là việc thành lập khối liên kết ASEAN + 3 gồm Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn quốc và khối liên kết ASEAN + 1 với riêng từng nước. Mục
tiêu của họ không chỉ đơn thuần là đi tìm lợi nhuận cao, hoặc vì yêu cầu nhân
đạo giao lưu văn hoá, mà còn nhằm cân bằng và giành giật ảnh hưởng với
nhau, tiến tới đưa khu vực này đi theo quỹ đạo của họ.
Có thể nói quan hệ kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra
hết sức phức tạp, sâu sắc và rộng khắp. Trong quan hệ đó, có sự tham gia của
mọi quốc gia, mọi thành phần kinh tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Khu vực hoá, toàn cầu hoá do đó là xu thế đặc trưng của quan hệ
kinh tế quốc tế thời kì này. Các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tăng
cường sự phụ thuộc lẫn nhau và đang dần từng bước tạo nên một nền kinh tế
thế giới thống nhất.
III. Cơ sở của quan hệ kinh tế quốc tế
Tiền đề cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế là phân công lao động quốc
tế. Trong giai đoạn đầu, những hình thức quan hệ kinh tế quốc tế đơn giản nhất
xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện tự nhiên của từng nước. Sự khác nhau
về tài nguyên thiên nhiên, về khoáng sản, khí hậu…đã trở thành tiền đề tự
nhiên của phân công lao động quốc tế, là cơ sở đầu tiên cho việc trao đổi hàng
hoá giữa các ngành và các quốc gia.
Trong những thời kì sau, cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật,
phân công lao động quốc tế ngày càng được mở rộng. Ý nghĩa của điều kiện tự
nhiên như một yếu tố nguyên thuỷ của phân công lao động quốc tế đã bị giảm
một cách tương đối và ý nghĩa của phân công lao động trong nội bộ ngành
được nâng cao. Chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế do đó ngày càng trở nên
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
sâu sắc, mậu dịch quốc tế càng phát triển nhanh chóng. Giữa các quốc gia
trong nền kinh tế thế giới ngày càng tăng cường mối quan hệ trao đổi và phụ
thuộc lẫn nhau. Nền sản xuất vật chất đã vượt qua khuôn khổ của các nước
riêng lẻ và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng tỉ mỉ,
sâu sắc và chặt chẽ hơn. Phân công lao động quốc tế giờ đây không chỉ dừng
lại ở việc trao đổi hàng hoá mà được mở rộng trên các lĩnh vực kinh tế, khoa
học kỹ thuật; trở thành một nhu cầu không thể thiếu của đời sống kinh tế và là
một tất yếu khách quan của thời đại. Việc áp dụng những thành tựu khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất để mở rộng thị trường
thế giới và tăng nhanh các quan hệ kinh tế quốc tế. Có thể nói phân công lao
động quốc tế luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của các mối quan hệ kinh
tế quốc tế.
Cùng với phân công lao động quốc tế, lợi thế so sánh cũng là một cơ sở
quan trọng của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong thời kì đầu, lợi thế so sánh
chính là sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất bao gồm vốn,
lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu… của quốc gia này so với quốc gia khác.
Chính sự ưu đãi này đã khiến cho các nước có chi phí cơ hội thấp hơn trong
việc sản xuất một số sản phẩm hàng hoá nhất định và sẽ thu được lợi khi đem
xuất khẩu hàng hoá đó để đổi lấy sản phẩm hàng hoá cần nhiều chi phí hơn.
Nhu cầu trao đổi, buôn bán do đó cũng xuất hiện. Lợi thế so sánh đã đem lại
lợi ích cho tất cả các quốc gia khi tham gia vào phân công lao động quốc tế,
thúc đẩy sự tích cực tham gia của các nền kinh tế vào các hoạt động quan hệ
kinh tế quốc tế.
Trong những giai đoạn sau, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật,
công nghệ dần trở thành một yếu tố đầu vào mang tính chất quyết định đối với
sự phát triển sản xuất của mỗi quốc gia. Lợi thế so sánh do đó cũng được mở
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
rộng, bao gồm cả công nghệ, dây chuyền sản xuất. Những quốc gia có trình độ
khoa học công nghệ hiện đại sẽ giảm được chi phí sản xuất, tăng chất lượng và
sản lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong quan hệ
buôn bán, trao đổi với các quốc gia khác. Lợi thế so sánh thật sự đã trở thành
cơ sở để các nước tham gia vào các mối quan hệ kinh tế quốc tế khi đem lại lợi
ích thương mại cho các quốc gia đó.
Bên cạnh đó, sự phát triển của quan hệ kinh tế quốc tế cũng gắn liền với
sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Khi các nền kinh tế còn ở trình độ phát
triển thấp, quan hệ giữa các nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi hiện vật, đổi
hàng lấy hàng. Chính sự phát triển về khoa học công nghệ, sự phát triển và
hoàn thiện các phương tiện giao thông vận tải, liên lạc đã làm cho các bộ phận
của nền kinh tế thế giới ngày càng xích lại gần nhau và mở rộng không ngừng
các quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực trên thế giới. Các quan hệ kinh
tế quốc tế bây giờ không chỉ đơn thuần bao gồm việc trao đổi hàng hoá mà còn
được mở rộng sang nhiều hoạt động khác. Sự xuất hiện và phát triển không
ngừng của khoa học, công nghệ đã dẫn đến nhu cầu chuyển giao những công
nghệ cũ từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển vốn rất thiếu dây
chuyền công nghệ hiện đại để phát triển sản xuất trong nước. Cũng nhờ sự
phát triển kinh tế, dẫn đến dư thừa vốn ở một số nước phát triển, hoạt động di
chuyển vốn đầu tư sang các quốc gia khác đã được thực hiện. Có thể nói kinh
tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa các nền kinh tế càng trở nên bền chặt và
sâu sắc, sự tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia do đó
cũng ngày càng tăng. Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ là một minh chứng cho điều đó.
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
IV. Chính sách của Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế
1. Chủ trương của Đảng về quan hệ kinh tế quốc tế
1.1 Mục tiêu của quan hệ kinh tế quốc tế
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố
và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế”. Đến Đại hội Đảng lần thứ
IX lại khẳng định chủ trương “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để tăng trưởng
nhanh, có hiệu quả và bền vững” với mục tiêu:
Mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt là thực
hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong chiến lược phát triển Kinh tế - Xã
hội 2001 - 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
1.2 Những quan điểm chỉ đạo
Thứ nhất, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế - Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Thứ hai, mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương với
nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức
quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, làm thất bại mọi âm mưu và hành
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
động gây sức ép, áp đặt, cường quyền. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu
nghị, hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả
và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các
nước bè bạn truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển
ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ la-tinh, các nước trong Phong trào
không liên kết. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ
chức quốc tế.
Thứ ba, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ các bộ ngành và các
doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế
quốc tế với lộ trình hợp lí và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ
động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.3 Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại thời kì 2001 - 2010
Căn cứ vào đường lối kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2001 - 2010, xu hướng phát triển nền kinh tế và thị trường thế giới thập niên
đầu thế kỷ XXI cũng như từ thực tiễn của các nước và của bản thân, Đại hội
Đảng IX đã đề ra định hướng lớn cho hoạt động kinh tế đối ngoại thời kì 2001
– 2010:
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá,
đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều
kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ,
tiến tới gia nhập WTO…
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế
tham gia sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Nâng cao
năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và
sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản
phẩm, nâng dần tỷ trọng có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Xây
dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích
sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu, tiến tới cân bằng xuất - nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn,
có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao
động, vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn,
thu hút kiều hối.
Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường
các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường
quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường mới.
Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin bằng nhiều
phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở
nước ngoài, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia
các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế.
Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đối
ngoại nói trên ta có thể thấy một số lưu ý quan trọng sau:
Xuất nhập khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác không chỉ được
xem là nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân mà còn là động lực
phát triển kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế đối ngoại là để tăng cường
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
khả năng tự phát triển không ngừng của nền kinh tế quốc dân, chứ không chỉ
tăng thu nhập thuần tuý, mặc dù không coi nhẹ việc tăng thu nhập.
Đối với nước ta, một nước trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn và kỹ
thuật nhưng lại có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, việc thực hiện
chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời coi trọng bảo hộ có chọn lọc,
có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Coi trọng việc xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng chế biến, sản phẩm có
hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, chú trọng xuất khẩu dịch vụ. Chủ trương
này tạo đà cho xuất khẩu tăng tốc và đạt hiệu quả.
Thực hiện chiến lược này là giải pháp mở cửa nền kinh tế để thu hút các
nguồn lực từ bên ngoài vào khai thác tiềm năng lao động và tài nguyên đất
nước.
2. Những kết quả đạt được trong quan hệ kinh tế quốc tế
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng những năm qua nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại:
Chúng ta đã đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng mạnh
mẽ quan hệ kinh tế quốc tế song phương và đa phương. Cho đến nay Việt Nam
đã ký Hiệp định thương mại với với 85 nước, ký Hiệp định về hợp tác kinh tế
– khoa học – kỹ thuật với 32 nước và phát triển quan hệ đầu tư với gần 70
nước và lãnh thổ. Nước ta đã trở thành thành viên có quan hệ với các tổ chức
tài chính lớn của quốc tế và khu vực như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), đã nhận được từ các tổ
chức tài chính này những khoản vay ưu đãi hàng tỷ USD để thực hiện nhiều dự
án lớn, nhận được viện trợ hàng trăm triệu USD hỗ trợ kỹ thuật cho nhiều lĩnh
19
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Quan hÖ kinh tÕ, th¬ng m¹i ViÖt nam–Hµn quèc
trong xu thÕ héi nhËp hiÖn nay
vực cải cách hệ thống thuế, ngân hàng, thống kê…Bên cạnh đó chúng ta cũng
đã gia nhập ASEAN và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), tham gia
sáng lập diễn đàn Á - Âu (ASEM), gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) và đang tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức này. Nước ta
cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu (EU)
và Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kì theo chuẩn mực của WTO.
Để tăng cường việc chỉ đạo công tác hội nhập kinh tế quốc tế, chính phủ
đã thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế và Uỷ ban đã có
những đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nước ta đã
mở rộng được quan hệ đối ngoại, vượt qua được những khó khăn nay về thị
trường do biến động ở Liên Xô cũ và Đông Âu gây ra, phá được thế bị bao
vây, cấm vận và các thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của nước ta
trên chính trường và thương trường thế giới, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực vào cuối những năm 90 của thế kỉ
XX.
Thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA). Kể từ khi ban hành luật đầu tư
nước ngoài tháng 12/1987 đến nay chúng ta đã thu hút được trên 42 tỷ USD
vốn đầu tư với trên 3000 dự án, đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD trong số đó.
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh
tế nước ta: gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, giải
20
- Xem thêm -