Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố phan r...

Tài liệu Luận văn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố phan rang – tháp chàm, tỉnh ninh thuận

.PDF
91
141
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN PHONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM HÀ NỘI, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN PHONG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN XUÂN PHONG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CAND : Công an nhân dân CQCA : Cơ quan công an CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân RPTC : Phan Rang – Tháp Chàm DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tổng quan tình hình tội phạm và tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.2: Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.3: Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.4: Cơ cấu theo học vấn của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ......................................................................................7 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .....7 1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ......................................14 1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ............................................19 1.4. Các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ...........................28 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN ..............................................................................................33 2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận .............................................33 2.2. Thực trạng áp dụng về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận .............................................39 2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua ...............................49 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN TRONG THỜI GIAN TỚI ...............................................55 3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp Chàm trong thời gian tới ...........................................................................................55 3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp Chàm trong thời gian tới. .............................................................58 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Cùng với sự phát triển của cả nước, tỉnh Ninh Thuận nói chung, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm nói riêng đã có bước tiến phát triển vượt bậc: Kinh tế tăng trưởng khá, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm có tốc độ đô thị hóa nhanh, dần trở thành một đô thị văn minh, hiện đại. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường và sự tác động của những yếu tố tiêu cực khác, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố diễn ra phức tạp, có chiều hướng gia tăng, trong đó đáng chú ý là tội trộm cắp tài sản. Theo thống kê của Cơ quan CSĐT Công an thành phố trong 05 năm từ 2014 – 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố đã khởi tố điều tra 636 vụ án hình sự, khởi tố 985 bị can. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cho thấy thủ đoạn của đối tượng phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thậm chí đã hình thành nên những băng nhóm hoạt động manh động, liều lĩnh. Số lượng vụ án tăng nhanh, hành vi phạm tội cũng khá đa dạng, từ giết người, cướp tài sản, cướp giật tài sản, cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, hiếp dâm, các loại tội phạm về ma túy… Trong đó, tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu tội phạm của thành phố Phan Rang - Tháp Chàm với 298 vụ/321 bị can (chiếm tỷ lệ 45% tổng số vụ án khởi tố). Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng trộm cắp tài sản không còn đơn giản, cơ hội mà nhiều vụ cho thấy đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi, thậm chí đã hình thành các nhóm tội phạm trộm cắp có tính nguy hiểm cao, có phân công nhiệm vụ cho thành viên trong nhóm. Số lượng các vụ án tăng nhanh, tính chất của các vụ án ngày càng phức tạp, thủ đoạn tinh vi, tài sản thiệt hại lớn, để lại những hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Cùng với chủ trương đầu tư phát triển du lịch, tình hình trộm cắp theo lễ hội, đột nhập khách sạn, nhà nghỉ để trộm cắp tài sản của khách du lịch gia tăng làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh địa 1 phương, đến việc phát triển du lịch của tỉnh Ninh Thuận. Đây thực sự là một vấn đề rất đáng báo động. Thời gian qua, công tác phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm trộm cắp tài sản của Công an Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm và các cơ quan chức năng nói riêng đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, tội phạm trộm cáp tài sản vẫn diễn biến phức tạp, tỷ lệ điều tra khám phá loại án này vẫn còn thấp (khoảng 50%); hoạt động đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, thiếu sót chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi về tính công minh của pháp luật và chưa thực sự tin tưởng vào các cơ quan bảo vệ pháp luật. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề của thực tiễn, diễn biến tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của các cơ quan chức năng trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa loại tội phạm này. Chính vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài "Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đấu tranh, phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu. Các công trình khoa học nghiên cứu có liên quan về lĩnh vực này như: - Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. - Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội. - Phạm Hồng Cử (2004), Tội phạm trộm cắp tài sản và công tác phòng ngừa, đấu tranh tại Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường đại học Cảnh sát nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh. 2 - Đề tài khoa học cấp bộ “Tội phạm trộm cắp xe gắn máy có tổ chức tại các tỉnh, thành phố phía Nam - thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh” do tác giả Vũ Anh Sơn làm chủ nhiệm. - Luận án tiến sĩ “Trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng; - Luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đinh Trần Ngọc Tiên. - Luận văn thạc sĩ “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh” của tác giả Tô Lan Phương. Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được tình hình tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, xác định các nguyên nhân của tội phạm và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm này. Tuy nhiên, trên địa bàn thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề trên. Xuất phát từ tổng quan tình hình nghiên cứu như trên, tác giả luận văn cho rằng, việc nghiên cứu các vấn đề về tình hình, phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để giảm số lượng các vụ án về trộm cắp tài sản trên địa bàn thành Phố Phan Rang Tháp Chàm trong tương lai là hết sức cần thiết, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế như hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản, hệ thống những vấn đề chung về lý luận và đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, tác giả chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức về vấn đề này, đồng thời phân tích những bất cập, hạn chế trong hoạt động thực tiễn phòng ngừa. Từ đó đề xuất các phương hướng, các biện pháp phòng ngừa nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3 Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: + Phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. + Đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, cụ thể là tổ chức phòng ngừa và thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm. + Làm rõ những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Trên cở sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố. + Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, dựa trên các số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận giai đoạn từ năm 2014 – 2018. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản; thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. - Về không gian: Địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. - Về thời gian: Số liệu được thu thập liên quan đến tội trộm cắp tài sản từ năm 2014 đến năm 2018 xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm nhận thức của chủ nghĩa 4 duy vật biện chứng vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác LêNin về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về lý luận tội phạm học nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các báo cáo sơ kết, tổng kết từ năm 2014 đến năm 2018 của các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, qua đó dùng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu hồ sơ … để xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự; đồng thời, luận văn còn góp phần làm rõ hơn lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên một địa bàn cụ thể. Kết quả nghiên cứu có thể làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn thành Phố Phan Rang –Tháp Chàm. - Ý nghĩa thực tiễn: Một số giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản được trình bày trong luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Luận văn còn là tài liệu để các chủ thể phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) tham khảo, rút kinh nghiệm nhằm xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận nói riêng một cách khoa học và hiệu quả hơn trong tương lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được chia làm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. 5 Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản 1.1.1.Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Trong lý luận về tội phạm học, các nhà khoa học đã sử dụng hai thuật ngữ “Phòng ngừa tội phạm” và “Phòng ngừa tình hình tội phạm”, hai thuật ngữ này đều là phòng ngừa tội phạm ở các mức độ khác nhau như: tình hình tội phạm nói chung, từng loại tội phạm và từng tội phạm cụ thể nhằm hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, không phân biệt loại tội phạm (hoặc tội phạm) nào. Có thể thấy, phòng ngừa tình hình tội phạm chính là một trong những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Do đó, phòng ngừa tình hình tội phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa, mục đích của ngành khoa học về tội phạm học chính là để phòng ngừa tình hình tội phạm, để cho tội phạm không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Theo Từ điển Luật học: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành” [31, tr.156]. Phòng ngừa tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm và tiến tới loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện 7 phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”[34, tr.210]. Theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: “phòng ngừa tội phạm là không để tội phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để con người sống trong xã hội phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật. Nếu con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời, điều tra khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý, giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội” [36, tr.147] Theo quan điểm GS.TS Võ Khánh Vinh, “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm. Trong đấu tranh với tình hình tội phạm có hai phương hướng liên kết chặt chẽ với nhau, đó là phòng ngừa và phát hiện điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm, đảm bảo người phạm tội phải chịu các hình phạt thích đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của mình và được giáo dục, cải tạo để trở thành một công dân có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Các biện pháp pháp lý – hình sự của cuộc đấu tranh với tình hình tội phạm có vị trí, vai trò quan trọng trong những trường hợp chuẩn bị và thực hiện các tội phạm cụ thể. Phòng ngừa là việc khắc phục hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm trước khi nó gây ra việc thực hiện tội phạm” [34, tr.154]. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 thuộc Chương XVI, nhóm các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017). Theo đó, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Để phòng ngừa loại tội này một cách có hiệu quả cần làm sáng tỏ dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản như sau: - Khách thể của tội trộm cắp tài sản 8 Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ là quyền sở hữu tài sản; đó là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Vì vậy, hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của người khác. Đối tượng tác động của tội phạm trộm cắp tài sản là tài sản của người khác; tài sản này có thể thuộc quyền sở hữu của công dân Việt Nam, của người nước ngoài, của các tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam, của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như của các nước khác tại Việt Nam đều được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. - Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, đối với tội trộm cắp tài sản được thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật để chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc đang do người khác quản lý. Dấu hiệu có tính chất đặc thù của tội trộm cắp tài sản là hành vi “lén lút, bí mật”, đây cũng là điểm riêng để phân biệt tội trộm cắp tài sản với những tội chiếm đoạt tài sản khác. “Lén lút, bí mật“ được hiểu là người thực hiện hành vi phạm tội có ý thức che giấu hành vi của mình, sự “lén lút, bí mật” này chỉ cần đối với người chủ sở hữu tài sản hoặc người đang quản lý đối với tài sản đó, mà không cần “lén lút, bí mật” đối với những người khác. Tuy nhiên, đa số những hành vi trộm cắp tài sản, ý thức chủ quan của người phạm tội vẫn là lén lút, bí mật che giấu hành vi đối với bất kì người nào khác, ý thức che giấu này có thể là: Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội, như che giấu đối với chủ tài sản hoặc chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội. “Lén lút, bí mật“ với người có thể là chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản và còn có thể đối với người khác mà người phạm tội cho rằng có thể cản trở hành vi phạm tội của mình. Đây là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu giếm không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác định tội phạm đã hoàn thành hay không phải dựa vào đặc điểm, vị trí của tài sản bị chiếm đoạt trong từng trường hợp cụ thể. 9 Dấu hiệu hậu quả của hành vi đã được quy định tại điều luật cụ thể về định lượng, đó là giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên, nếu dưới hai triệu thì phải thuộc một trong các trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản) , 174 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. [18, tr.207] - Chủ thể của tội trộm cắp tài sản Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất cứ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật và đạt độ tuổi theo quy định (từ đủ 16 tuổi đối với khoản 1, 2 [18, tr.207]; từ đủ 14 tuổi đới với khoản 3, 4 [18, tr.208]). Năng lực trách nhiệm hình sự là trạng thái tâm lý bình thường của con người ở thời điểm người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hành vi do mình thực hiện và điều khiển hành vi đó. Khả năng con người phải chịu trách nhiệm hình sự bởi hành vi của mình gây ra trước xã hội gắn với trạng thái tâm lý tại thời điểm thực hiện hành vi đó. - Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích vụ lợi. Cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, mong muốn hậu quả xảy ra [29,tr.236]. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Từ khái niệm và phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về phòng ngừa tình 10 hình tội trộm cắp tài sản như sau: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là quá trình hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân sử dụng tổng hợp các biện pháp nhằm mục đích loại trừ hướng đến triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tải sản để ngăn chặn, hạn chế và từng bước tiến tới loại bỏ tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội. Việc nghiên cứu khái niệm và những yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản là cơ sở để xác định đúng các phương pháp phòng ngừa phù hợp, hiệu quả với sự điều kiện phát sinh loại tội này trong thực tế. 1.1.2. Mục đích của của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Phòng ngừa tình hình tội phạm là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, tuy nhiên xuất phát từ nhận thức con người sinh ra vốn có bản chất hướng thiện và đều có thể trở thành công dân có ích. Đảng và Nhà nước ta ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề phòng ngừa tội phạm. Đảng ta đã ban hành chỉ thị số 48/CT/TW ngày 22/10/2010 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới” qua đó đã khẳng định rõ công tác phòng chống tội phạm có mục đích là “phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân”. Phòng ngừa tình hình tội phạm cũng như phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản hướng tới các mục đích sau: - Mục đích đầu tiên là hạn chế, khắc phục, xóa bỏ các nguyên nhân điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản. Đây cũng chính là nội hàm của công tác phòng ngừa chung đối với tội phạm này, để phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản đạt hiệu quả, cần phải cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, hạn chế, làm giảm các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu hiện tượng này khỏi đời sống xã hội góp phần đảm bảo an ninh trật tự của đất nước. Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng là phải hướng tới việc 11 không để hình thành và tồn tại các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tức là phải hạn chế, cô lập, tiến tới loại trừ những mầm mống tội phạm, tìm ra được những biện pháp tác động vào quá trình hình thành, tồn tại và phát triển các nguyên nhân và điều kiện của tình hình phạm tội, bao gồm những yếu tố về tâm sinh lý con người, yếu tố môi trường tác động và đặc biệt là cuộc sống xã hội luôn luôn thay đổi, phát triển và thường xuyên xuất hiện những mâu thuẫn chưa kịp thời giải quyết được. - Hai là, ngăn chặn, không để xảy ra các hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Đây là hoạt động tác động đến đối tượng trước khi đối tượng có ý định thực hiện hành vi phạm tội, làm cho tội phạm không xẩy ra, không gây ra hậu quả, tác hại trên thực tế. Hoạt động này có tính tức thời, cấp bách, kịp thời khi đối tượng mới nảy sinh ý định và chuẩn bị các bước cần thiết thực hiện hành vi phạm tội. Việc ngăn chặn hành vi phạm tôi trộm cắp tài sản là tác động trực tiếp đến đối tượng, môi trường, hoàn cảnh cụ thể có khả năng phát sinh hành vi vi phạm, làm cho đối tượng tự giác từ bỏ hoặc không thể thực hiện được hành vi trộm cắp tài sản của mình từ đó ngăn chặn được những hậu quả xẩy ra. - Ba là, phòng ngừa người phạm tội tái phạm: là việc ngăn ngừa những con người đã có tiền án tiền sự, vẫn còn những khả năng, điều kiện, cơ hội để có thể dẫn đến tiếp tục thực hiện những hành vi phạm tội trộm cắp tài sản mới. Đối với những người này, nếu không có biện pháp phòng ngừa phù hợp thì sau khi bị xử lý các đối tượng này lại rất dễ dàng thực hiện lại hành vi phạm tội. Thậm chí, hành vi tái phạm sẽ có tính chất nguy hiểm, manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và gây hậu quả nghiêm trọng hơn cho xã hội. Nhiều biện pháp tác động của Nhà nước, xã hội, gia đình và phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn được thực hiện để hạn chế việc tái phạm của người phạm tội trộm cắp tài sản. Nhà nước đã có những chính sách như tạo công ăn việc làm thuận lợi cho người phạm tội sau khi bị xử lý hình sự; sự tác động của cơ quan chức năng về giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý chặt chẽ những diễn biến, động thái của đối tượng khi mãn hạn thi hành án về sống với cộng đồng; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, giáo dục pháp luật, yêu cầu gia đình,bạn bè thường 12 xuyên động viên,giúp đỡ đối tượng nhận thức được hành vi sai trái, từ bỏ tư tưởng lệch lạc, tạo điều kiện cho người đã chấp hành xong bản án tái hòa nhập cộng đồng; hướng nghiệp, tạo việc làm giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, quản lý những đối tượng bị quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú, bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo, không để họ phạm tội trở lại. 1.1.3. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Tình hình tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng gây thiệt hại lớn cho các quan hệ xã hội, dó đó phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động mang tính tất yếu nhằm loại bỏ các yếu tố tiêu cực làm phát sinh tội phạm và hạn chế làm giảm tới mức thấp nhất việc xảy ra tội phạm trong xã hội. Nghiên cứu về việc phòng ngừa tình hình tội phạm là một chiến lược, lâu dài. Chúng được thực hiện một cách có hệ thống toàn bộ, kết cấu chặt chẽ thông qua hoạt động phối hợp, sự tác động lẫn nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau của các chủ thể phòng ngừa. Việc thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn bảo vệ tài sản của xã hội, công dân, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân mà còn tác động nhất định đến các lĩnh vực khác trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước như kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng… Thông qua việc làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các mặt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm khác, góp phần huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật như hỗ trợ công tác tấn công trấn áp có hiệu quả cao, hỗ trợ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội tốt hơn. Đặc biệt đối với lĩnh vực điều tra, xử lý tội phạm, làm tốt công tác phòng ngừa, phát động quần chúng nhân dân có ý thức tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật, quản lý chặt chẽ các đối tượng điều tra giúp cho công tác điều tra vụ án nhanh chóng và đem lại hiệu quả cao. 13 Bên cạnh đó, thực hiện tốt các hoạt động phòng ngùa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng còn có ý nghĩa nhất định về mặt nhân đạo và tiến bộ xã hội. Khi các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản phát huy tốt, đạt hiệu quả thì việc cải thiện điều kiện kinh tế xã hội để mọi người sống trong môi trường an toàn, ngăn ngừa rủi ro phạm tội sẽ tạo trạng thái tâm lý ổn định, bình an trong người dân, an toàn cho cộng đồng và dân cư, làm tăng niềm tin, hy vọng của nhân dân vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định có trật tự pháp luật, qua đó nâng cao sự tín nhiệm vào khả năng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều này sẽ tạo được hiệu ứng tích cực, hăng say và nhiệt tình tham gia của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tạo ra sự hưởng ứng của xã hội, cộng đồng chống lại những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật hoặc lệch chuẩn. Làm tốt và có hiệu quả đối với công tác phòng ngừa tội trộm cắp tài sản sẽ mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, đem lại hiệu quả kinh tế nhất định và ngăn chặn những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm này gây ra, kể cả những thiệt hại gián tiếp mà cơ quan Nhà nước và xã hội phải chi trả để điều tra, khám phá, khắc phục những hậu quả do tội phạm để lại. Bên cạnh đó, nếu tỷ lệ phạm tội trộm cắp tài sản giảm thì tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước và của công dân trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, giáo dục cải tạo người phạm tội cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm. Bênh cạnh đó, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tăng hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản góp phần duy trì trật tự xã hội bằng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ, biện pháp pháp luật... Vì vậy, nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản còn mang nhiều ý nghĩa về mặt quản lý xã hội. 1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Theo từ điển tiếng Việt, nguyên tắc là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một việc làm”; là “Những quy định, phép tắc làm cơ sở để xem xét, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan