Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh đắk lắk...

Tài liệu Luận văn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh đắk lắk

.PDF
88
329
128

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ ĐỨC ANH PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ ĐỨC ANH PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những kiến thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, nghiên cứu tài liệu và thực tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn. Những nội dung của các tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN VĂN VŨ ĐỨC ANH MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN..................................................... 6 1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ................................................................................................ 6 1.2. Cơ sở, nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .................. 11 1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .................................. 18 1.4. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .............. 22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ......................... 29 2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................. 29 2.2. Thực trạng xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................. 31 2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................. 43 Chương 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ......................... 52 3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk .....................52 3.2. Tăng cường nhận thức mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ....................................................... 55 3.3. Tăng cường xây dựng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .................................................................................. 57 3.4. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ............................................. 64 3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất – kỹ thuật và kinh phí cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .............................................. 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANQG : An ninh quốc gia ANTT : An ninh trật tự CAND : Công an nhân dân TTATXH : Trật tự an toàn xã hội TTXH : Trật tự xã hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đắk Lắk - trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực Tây Nguyên, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, quốc phòng của cả nước nói chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự quyết tâm của chính quyền địa phương, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều bước chuyển biến đáng kể, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng giảm nông nghiệp, tăng dịch vụ và công nghiệp; an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm; trình độ dân trí, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội thì tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các hiện tượng xã hội tiêu cực khác đang diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Đáng chú ý, tình hình tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tình hình tội phạm và diễn biến hết sức phức tạp; các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản hoạt động manh động, tinh vi, xảo quyệt gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và TTATXH trên địa bàn tỉnh. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ năm 2014 đến năm 2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử tổng cộng 2.065 vụ án trộm cắp tài sản, với 2.944 bị cáo, trung bình 413 vụ/năm và 588,8 bị cáo/năm, chiếm 36,1% trong tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trên toàn tỉnh. Trước diễn biến phức tạp của tình hình tội trộm cắp tài sản, trong những năm qua cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều nỗ lực, áp dụng nhiều biện pháp để phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn và đã đạt được những kết quả quan trọng góp phần vào sự nghiệp bảo đảm ANTT tại địa phương. Mặc dù vậy, thực tiễn phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản của các cơ quan, ban ngành tỉnh Đắk Lắk vẫn 1 còn những hạn chế, bất cập nhất định, nhất là: Công tác nắm tình hình của lực lượng chức năng chưa kịp thời; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng đúng mức; các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản đã được triển khai nhưng hiệu quả đạt được chưa cao; việc phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản chưa kịp thời, chặt chẽ; công tác phát hiện, điều tra xử lý tội phạm này còn nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tìm ra nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa nhằm từng bước ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Dưới góc độ tội phạm học, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Trong số đó, có thể kể đến một số công trình khoa học sau: - Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội này ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học. - Nguyễn Mạnh Cường (2015), Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi của lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội, luận văn thạc sĩ Luật học. 2 - Bàn Văn Minh (2016), Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, luận văn thạc sĩ Luật học. - Hoàng Thị Hoa (2016), Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn thạc sĩ Luật học. - Từ Vương Thông (2010), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án trộm cắp tài sản xảy ra tại chỗ ở của công dân trên địa bàn tỉnh Kon Tum, luận văn thạc sĩ Luật học. Các công trình khoa học trên đây đã tập trung nghiên cứu, đánh giá khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc tại một số địa phương nhất định, từ đó rút ra các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm này. Mặc dù vậy, liên quan đến phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện với tư cách là một đề tài độc lập. Vì vậy, đề tài luận văn có tính độc lập và không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, phân tích làm rõ nhận thức lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản và thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cơ bản sau: - Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. 3 - Phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Luận văn được nghiên cứu, khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018. - Phạm vi không gian: Luận văn được nghiên cứu, khảo sát tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Phạm vi chủ thể xem xét: Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là Các cơ quan, ban ngành của tỉnh Đắk Lắk. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm TTATXH. Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương thống kê, so sánh; phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp chuyên gia. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung làm phong phú thêm lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và triển khai các hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật trên phạm vi cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Phòng ngừa tình hình tội phạm là một trong những nội dung quan trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền tảng và điểm xuất phát để tiếp tục nghiên cứu những nội dung khác trong lý luận tội phạm học. Cho nên, phòng ngừa tội phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa, suy cho cùng thì mục đích của ngành khoa học về tội phạm học chính là để phòng ngừa tội phạm, để cho tội phạm không xảy ra, không gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Liên quan đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm, các nhà nghiên cứu hiện nay có hai xu hướng chính: Xu hướng thứ nhất cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm cả hoạt động phòng và chống tội phạm; xu hướng thứ hai cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm chỉ bao gồm hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm ngăn ngừa không cho tội phạm xảy ra. Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [53, tr.154]. 6 Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội” [48, tr.210]. Qua nghiên cứu, tham khảo các quan điểm lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm, có thể hiểu: Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế, pháp luật, nghiệp vụ chuyên ngành, hành chính, giáo dục… hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, từ đó từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Tình hình tội trộm cắp tài sản là một thuộc tính của xã hội tái sản xuất ra các hành vi nguy hiểm đối với con người, xã hội và Nhà nước, là một hiện tượng pháp luật – xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực, phổ biến, bao gồm tổng thể các tội phạm trộm cắp tài sản được thực hiện ở một không gian và giai đoạn nhất định, được đặc trưng bởi các chỉ số về lượng và chất. Dưới gốc độ tội phạm học, tình hình tội trộm cắp tài sản là một bộ phận cấu thành của tình hình tội phạm, do đó phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản không thể tách rời phòng ngừa tình hình tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động mang tính hệ thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể. Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản 7 được tiến hành dưới hai dạng, đó là phòng ngừa xã hội (hay còn gọi là phòng ngừa chung) và phòng ngừa nghiệp vụ (hay còn gọi là phòng ngừa riêng). Trong đó, phòng ngừa xã hội là hoạt động của tất cả các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và toàn xã hội với chức năng và nhiệm vụ của mình tiến hành các hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tình hình tội phạm; phòng ngừa nghiệp vụ có thể hiểu là hoạt động của các cơ quan chuyên môn áp dụng các biện pháp, phương tiện, chiến thuật nghiệp vụ vào hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tình hình tội phạm. Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế, pháp luật, nghiệp vụ chuyên ngành, hành chính, giáo dục… nhằm hạn chế, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản, từ đó ngăn chặn, hạn chế và tiến tới loại bỏ tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội”. 1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng là hoạt động mang tính tất yếu, mang tính chiến lược, lâu dài, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là hoạt động có mục đích và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cụ thể: Thứ nhất, về mục đích: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” đã chỉ rõ: “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu 8 quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân” [4, tr.3]. Từ nhận thức trên, có thể xác định mục đích của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là nhằm hướng đến không để hình thành và tồn tại các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp tài sản, từ đó hạn chế, làm giảm, chặn đứng để không có sự gia tăng phát triển và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội góp phần bảo đảm ANTT của đất nước. Cụ thể hóa mục đích phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản bao gồm 2 mục đích chính sau: - Phát hiện, hạn chế, tiến tới thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản, không để nảy sinh và phát triển loại tội phạm này trong xã hội. - Kịp thời ngăn chặn không để xảy ra các hành vi phạm tội trộm cắp tài sản mới; tập trung quản lý, giáo dục đối với những người có điều kiện, khả năng phạm tội trộm cắp tài sản và phòng ngừa tái phạm tội. Thứ hai, về ý nghĩa: Dưới góc độ tội phạm học, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện trên các khía cạnh sau: - Ở khía cạnh xã hội, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có ý nghĩa chiến lược và nhân văn sâu sắc. Thực tế đã chứng minh rằng, nếu không có các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản thích hợp và có hiệu quả thì những người phạm tội trộm cắp tài sản hôm nay là “nguồn bổ sung” tội phạm trưởng thành và có kinh nghiệm phạm tội trong tương lai. Vì vậy, việc phát hiện, hạn chế và triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản không chỉ làm giảm tình hình tội trộm cắp tài sản trong hiện tại mà còn giúp làm giảm tình hình tội phạm này trong tương lai, đây là vấn đề mang tính chiến lược trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, thông qua phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ 9 hạn chế số người bị pháp luật trừng phạt, xã hội cách ly, đồng thời giúp nại nhân và cộng đồng xã hội không phải gánh chịu các hậu quả do tội phạm trộm cắp tài sản gây ra, đây là vấn đề mang tính nhân văn sâu sắc. - Ở khía cạnh kinh tế, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản mang lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Trước hết, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản hiệu quả sẽ ngăn chặn những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm này gây ra, kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước và xã hội phải bỏ kinh phí để khắc phục hậu quả. Mặt khác, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản hiệu quả sẽ giúp nhà nước và xã hội không phải tốn kém nguồn nhân lực và tài chính cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội trộm cắp tài sản. - Ở khía cạnh quản lý xã hội, thông qua phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, các cơ quan chức năng kiểm soát được tình hình tội trộm cắp tài sản, góp phần bảo đảm ANTT, duy trì trật tự, kỹ cương của nhà nước. Từ đó, tạo được niềm tin trong nhân dân và tạo thuận lợi cơ bản cho hoạt động quản lý xã hội. Điều này còn kéo theo sự ủng hộ, phát huy tính tích cực, tự giác của quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo ra hưởng ứng của xã hội, của cộng đồng trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực, lệch chuẩn, vi phạm pháp luật. - Ở khía cạnh chuyên môn nghiệp vụ, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có hiệu quả sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, trong lĩnh vực điều tra, khám phá tội phạm trộm cắp tài sản, nếu làm tốt hoạt động phòng ngừa, huy động được sức mạnh của toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý chặt chẽ các đối tượng sưu tra, làm tốt công tác xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án sẽ là điều kiện thuận lợi phục vụ cho hoạt động điều tra, khám phá các vụ án trộm cắp tài sản được tiến hành kịp thời, chính xác, hiệu quả. 10 1.2. Cơ sở, nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản 1.2.1. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản - Cơ sở chính trị: Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng. Trong suốt quá trình lịch sử, Đảng ta luôn đưa ra các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo tạo cơ sở chính trị quan trọng cho hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này, cụ thể: Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ ANTQ trong tình hình mới” đã đặt ra nhiệm vụ: “Chú trọng, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm trong gia đình, từ gia đình. Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, có hiệu quả trong nhân dân về phòng, chống tội phạm theo hướng tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh trật tự từ cơ sở. Huy động sự tham gia tích cực của toàn dân trong phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, cải tạo, giáo dục, cảm hóa người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư” [2, tr.4]. Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” nhấn mạnh mục tiêu: “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân” [4, tr.5]. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã xác định: “Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính, 11 kinh tế - xã hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phòng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm” [1, tr.6]. Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới” đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động phòng, chống tội phạm: “Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, huy động mọi nguồn lực xã hội vào công tác phòng, chống tội phạm... Các chỉ tiêu về phòng, chống tội phạm cần được coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng và Nhà nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm” [5, tr.5]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ 12 đã đặt ra nhiệm vụ trong tâm trong công tác bảo đảm ANTT: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH” [18, tr.9]. - Cơ sở pháp lý: Trên cơ sở chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình tội trộm cắp tài sản, cụ thể: 12 Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013. Trong toàn bộ nội dung chương IV của Hiến pháp “Bảo vệ Tổ quốc” đã quy định những nội dung liên quan đến bảo vệ Tổ quốc, trong đó có phòng ngừa tình hình tội phạm. Điển hình là các quy định về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; lực lượng bảo vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những điều luật quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự trong đó có nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm; trách nhiệm trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm; dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản. Chẳng hạn, điều 4, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định trách nhiệm trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm: “(1) Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng. (2) Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình. (3) Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phòng, chống tội phạm” [27, tr.3]. Những quy định trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan, ban ngành triển khai các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng có những điều luật quy định liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm tạo cơ sở cho việc triển khai các hoạt động phòng ngừa. Chẳng hạn: Điều 2 quy định nhiệm vụ của Bộ luật Tố 13 tụng hình sự trong đó có nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm; điều 5 quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; điều 6 quy định phát hiện và khắc phục nguyên nhân, điều kiện phạm tội [28]. Luật CAND năm 2014 quy định một cách cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CAND; tổ chức của CAND; điều kiện hoạt động và chế độ chính sách đối với CAND; trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành đối với sự nghiệp bảo đảm ANTT và xây dựng CAND. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để lực lượng CAND, đơn vị chủ công, nòng cốt trong phòng ngừa tình hình tội phạm tổ chức lực lượng, triển khai các phương tiện, biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản một cách có hiệu quả [30]. Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 cũng đưa ra các quy định về phòng ngừa tình hình tội phạm, điển hình: Khoản 4, Điều 8, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [31, tr. 7] Bên cạnh đó, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, ban ngành, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng ban hành các văn bản pháp luật quy định về phòng ngừa tình hình tội phạm trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Những văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan, ban ngành triển khai các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng. 1.2.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động khó khăn, phức tạp, lấy con người và các mối quan hệ xã hội của con người làm đối tượng tác động, đồng thời hoạt động này có sự tham gia của các cấp, các ngành và của 14 toàn xã hội. Do đó, quá trình phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, bao gồm: - Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý: Hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nhất định phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh rằng, có Đảng lãnh đạo phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ đi đúng đường lối, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, có Đảnh lãnh đạo mới xác định đúng đối tượng đấu tranh, biện pháp đấu tranh; đồng thời có sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động phòng ngừa mới đảm bảo thống nhất, hiệu quả, tiết kiệm, tránh được sự chồng chéo. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách chỉ đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; tổ chức kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa tình hình tội phạm; trực tiếp cử cấp ủy viên phụ trách hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Nhà nước quản lý hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế hoạch, phương án phòng ngừa tình hình tội phạm và bảo đảm điều kiện cần thiết cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; ban hành và triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm; kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và hợp tác quốc tế trong phòng ngừa tình hình tội phạm… - Nguyên tắc pháp chế: Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải tuân thủ các quy định của pháp 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan